, từ Nhân
gian Phật giáo tới Đạo Bụt
ứng dụng
Nhân gian Phật giáo
Danh từ Nhân gian Phật giáo
xuất hiện lần đầu tại Việt Nam trên Tuần báo Đuốc Tuệ do Hội Phật Giáo Bắc Kỳ
xuất bản tại Hà Nội. Số đầu ra ngày 10/12/1935. Đuốc Tuệ hoạt động được 10 năm
thì bị đình bản vì có cuộc cách mạng giành độc lập năm 1945. Nhân gian Phật
giáo là đạo Phật của người thế gian, đạo Phật của người đời, khác với sinh
hoạt chuyên tu Phật - Pháp của người xuất gia ở chùa.
Năm 1973 chúng ta có sách Đạo Phật áp dụng vào đời sống
hàng ngày, sách do hai thầy Huyền Quang và Nhất Hạnh viết chung. Tác
phẩm được các tác gỉa xem là một cương lĩnh cho một đạo Phật nhập thế. Là rường
cột, là kim chỉ nam cho việc đem đạo
giải thoát áp dụng vào đời sống hàng ngày của giới cư sĩ tại gia. Một thứ đạo Phật
được đại chúng hóa, xã hội hóa từ cái gốc của đạo Phật vốn chỉ được thực hành
trong giới Tăng sĩ ở chùa sao cho phù hợp với đời sống hàng ngày của người đời.
Họ
có thể là người nội trợ, công chức, nhà buôn, nhà văn, nghệ sĩ, sinh viên, nông
dân, hay người lính chiến v.v... Đó là Phật giáo nhập thế.
Giữa cuốn Đạo Phật áp dụng vào đời sống
hàng ngày, và loạt bài Nhân gian Phật giáo trên tuần báo Đuốc Tuệ
năm 1935-1945 có sự liên hệ, chứng tỏ có một sự tiếp nối.
Người khởi xướng phong trào Nhân gian Phật giáo Việt Nam
là học giả kiêm tiểu thuyết gia Nguyễn Trong Thuật, hiệu Đồ Nam Tử. Ông sinh
năm 1891, mất tại Hà Nội ngày 19 tháng Giêng năm Mậu Tý, tức ngày 28/2/1948. Tác phẩm Quả dưa đỏ là
quyển tiểu thuyết đầu tay của ông được Hội đồng kiểm duyệt Hội Khai Trí Tiến
Đức liệt vào giải nhất. Tác phẩm thứ hai được nhiều người ưa thích là loạt
truyện kể về Cô con gái Phật hái dâu đăng trường kỳ trên tờ Đuốc Tuệ.
Tiếc thay, truyện Cô con gái Phật hái dâu còn đang dang dở thì Tuần báo
Đuốc Tuệ bị đình bản đột ngột nên chưa được in thành sách. Có thể nói ông là
một trong số rất ít người Việt Nam viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ vào thời
ấy ở ngoài Bắc. Bên cạnh văn chương nghệ thuật, ông còn là cây bút Phật học
sáng giá trên các tạp chí Việt ngữ thời đó, những bài như : Bình luận về sách Khóa hư (1933), Phật
giáo tân luận (1934) đăng
trên tờ Nam Phong do Phạm Quỳnh làm Chủ bút rất được nhiều người chú ý.
Đầu năm 1934, cùng với những
cây bút chủ lực của tạp chí Nam Phong như các ông Lê Dư, Nguyễn Hữu Tiến...,
Nguyễn Trọng Thuật về cộng tác với nhóm Phật học Tùng thư do Thiền sư Trí Hải
đứng đầu. Tháng 8 cùng năm nhóm Phật Học Tùng Thư hợp cùng một số Tăng sĩ Hà
Nội thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ. Tháng 2/1935, Nguyễn Trọng Thuật được Hội
đề cử làm Thư ký Ban Khảo cứu và giảng diễn Phật học do Trần Trọng Kim đứng
đầu, và sau đó là Thư ký Ban Biên tập tờ Đuốc Tuệ.
Sức viết của ông rất khỏe,
chỉ trong 5 năm, ông đã viết ngót 60 bài (không tính các bài chuyên khảo, bài
dịch) trên mọi lĩnh vực từ nghị luận, lịch sử Phật giáo đến truyện dài đăng
nhiều kỳ. Trong đó nổi trội nhất là loạt bài : Tinh thần Phật giáo đối với
thanh niên ngày nay; Tinh thần nhân gian Phật giáo của Việt Nam xưa; Chủ nghĩa
quần chúng giải thoát của đạo Phật; Câu chuyện đạo Phật với việc làng; Đạo Phật
rất cần cho vấn đề kinh tế ngày nay..., và chủ đề Phật hóa nhân gian
đã trở thành chuyên mục không thể thiếu của tờ Đuốc Tuệ ngay từ những số đầu
tới số cuối. Theo ông nhân
gian Phật giáo đối với đạo Phật là phát biểu những điều chân chính có quan
thiết đối với đời người để làm lợi ích cho đời, chứ không có gì là khác lạ.
Chúng
ta được biết rằng danh từ Nhân gian Phật giáo xuất phát lần đầu bên Trung Hoa vào đầu thập niên 1930. Tuy có mặt sau người bạn
láng giềng, nhưng thực chất đạo Bụt Việt Nam đã thực sự đi vào xã hội
đời thường chậm nhứt là từ đầu thế kỷ thứ XI. Rõ nhất là từ triều đại nhà Lý
trở về sau. Điển hình là tiểu thuyết mang tên Cô con gái Phật hái dâu
của tác giả Nguyễn Trọng Thuật, nói lên sự dấn thân vào đời của đạo Bụt
Việt Nam trước đạo Bụt Trung quốc rất xa. Nếu nghiên cứu kỹ hai triều đại Lý -
Trần chúng ta cũng sẽ thấy rất rõ điều đó. Cô con gái Phật hái
dâu
là khuôn mẫu của việc đem đạo Bụt áp dụng vào đời sống hàng ngày. Người ta thấy
đạo Bụt thời ấy có một ảnh hưởng lớn ở trong xã hội, trong phong tục, trong văn
hóa, trong nhân gian, và ngay ở trong chính trị.
Cô con gái Phật tức là nữ Phật tử. Hái
dâu là đi hái dâu về để nuôi tằm. Cô tên Ỷ Lan quê làng Siêu Loại (Bắc Ninh)
rất xinh đẹp, rất thùy mị, được nuôi dưỡng trong đạo đức của Phật giáo nên thấm
nhuần tư tưởng và hành trì của Phật giáo. Cô hiểu thấu tất cả các nỗi khổ,
những khó khăn của dân chúng ở đồng quê. Cô được được vua Lý Thánh Tông yêu quý đem
về cung và phong làm Nguyên phi. Nhờ tấm lòng nhân hậu và hiểu biết Nguyên phi
Ỷ Lan được vua cho phép dự vào việc triều chính. Ỷ Lan đã đưa ra
những tư tưởng rất thiết thực, để giúp dân quê thoát khỏi vòng nghèo đói, áp
bức và bất công. Vua Lý Thánh Tông đã nghe theo làm một cuộc cách mạng nông
thôn rất hay. Ỷ Lan có kiến thức rất vững chãi về tình trạng dân quê. Ví dụ
nàng biết ở miền quê có những bọn ăn trộm trâu để làm thịt và ăn nhậu với nhau.
Khi một người nông dân mất trâu thì không thể nào sinh sống được! Con trâu
tương đương với chiếc máy cày để cày ruộng ngày nay. Mất trâu người nông dân sẽ
chết đói, mà có thể những người khác cũng chết đói theo, tại vì trâu dùng để
cày cho ruộng mình, nhưng cũng để cày ruộng cho người khác. Cho nên Ỷ Lan đã đề
nghị những biện pháp để trừng trị, để ngăn cản không cho bọn ăn cắp trâu hoành
hành.
Thời đó còn có những nhà nghèo phải bán con
trai hay gái. Nhà họ nghèo quá, không có tiền để nuôi con, bất đắc dĩ họ phải
bán con của mình cho những nhà giàu để làm đầy tớ. Một chế độ gần như là chế độ
nô lệ ở Tây phương. Tuy cũng gọi là con, cũng nuôi trong nhà, nhưng không được
đối xử bình đẳng như là con đẻ. Tuy gọi là con nuôi, nhưng kỳ thực là một thứ
đầy tớ! Gặp những gia đình có nhân đức, có tình thương thì những đứa con nuôi
này được đối xử tử tế. Nhưng gặp phải những nhà không nhân đức thì mình chỉ
đóng vai của những người đầy tớ, và là đầy tớ suốt đời! Ỷ Lan đã đề nghị vua Lý
Thánh Tông xuất tiền kho ra, chuộc những người đầy tớ này khi họ đến tuổi
trưởng thành, rồi tìm cách dựng vợ gã chồng cho họ. Đó là những biện pháp xã
hội mà Nguyên phi Ỷ Lan đã thực hiện.
Nguyên phi cũng rất giỏi về việc triều chính.
Có một lần vua Lý Thánh Tông đem quân dẹp loạn ở biên thùy giữa Chiêm Thành và
Đại Việt. Lâu quá mà không thành công, cho nên vua rút quân về. Khi về chưa đến
nơi thì nghe đồn ở nhà Nguyên phi làm việc rất giỏi. Tổ chức triều đình rất
hay, không có vấn đề gì cả. Nhà vua mắc cỡ, nên quay trở lại biên giới! Và lần
này thì vua thành công trong việc thiết lập an ninh và hòa bình ở biên giới.
Đó là những câu chuyện có thật về cuộc đời
của Nguyên phi Ỷ Lan mà Nguyễn Trọng Thuật đã kể lại trong một cuốn tiểu
thuyết. Nguyễn
Trọng Thuật đã chủ động mạnh mẽ cho việc đem đạo Phật vào đời sống hàng ngày,
làm mới cuộc sống nông thôn bằng tinh thần xã hội hóa Phật giáo.
Ông
cũng là người đầu tiên đề nghị tổ chức Lễ cưới trong chùa. Trong bài luận Lễ kết hôn trước cửa Phật, Nguyễn Trọng Thuật nhận định hôn lễ là lễ văn để làm tôn trọng vẻ vang cho cái sống của
mình... Người ta trong một đời duy có hôn lễ là quan thiết đến bản thân hơn cả. Ông cho rằng ở Việt Nam, hôn lễ chịu ảnh hưởng
cả Nho giáo lẫn Đạo giáo. Theo đó, lễ bái yết gia tiên hai nhà là theo Nho giáo
đối với quan niệm gia tộc, phụng tiên tư hiếu, thực là biết ơn, chịu mệnh một
cách chu đáo, có nghĩa lý thiết thực thì nên giữ. Còn lễ tế tơ hồng là theo thuyết số mệnh của phái đạo sĩ, cám ơn vị
thiên tiên đã xe duyên cho nên vợ nên chồng. Xét ra nó chỉ như cái cách đem quà
biếu người làm mối mà thôi, không có nghĩa lý gì đáng làm giáo hóa, thì nên bỏ.
Ông nhấn mạnh: Song ngoài cái lễ bái yết gia tiên ra không có lễ gì nữa, thì
cái quan niệm kết hôn của người đời chỉ loanh quanh trong cái tư tưởng nối dõi
tông đường của một nhà, e không khỏi còn hẹp hòi lắm.
Ông đề nghị: Nay nhân phong trào Chấn hưng Phật giáo đang
hưng thịnh, tiện dịp ta hãy nên cử hành lễ kết hôn trước cửa Phật... Việc đem
lễ kết hôn vào cửa Phật này tuy là việc mới, nhưng tôi quyết không phải là một việc
cưỡng ép gì. Ông đề nghị một nghi thức kết hôn gồm có tấu văn và huấn từ
của một vị Tăng sĩ làm giới sư hướng đạo cuộc lễ. Trước Tam bảo vị giới sư nhắc
nhở cặp tân hôn phải nhớ đạo lý Tứ ân của Phật dạy mà đền đáp công ơn cha mẹ, ơn đất nước, ơn sư trưởng và ơn chúng sinh. Thể hiện qua hai câu đối : Hiếu mẹ cha, ân đất
nước, đạo Tứ ân đã dạy bảo đủ luân thường ; Chồng kính ái, vợ thuận tùng, lễ
Lục phương càng ân cần về gia đạo.
Ngày nay nếu chúng ta có những đám cưới tổ
chức lễ tại chùa, là chính nhờ ngày xưa đã có những bậc đàn anh đề xướng chuyện
đó.
Đấu tranh ý thức hệ
Từ năm 1935 đến năm 1975 là bốn mươi năm
chính trường Việt Nam có rất nhiều biến động. Đất nước thành đấu trường cho các
chủ thuyết. Từ xung đột tranh chấp trên vấn đề ý thức hệ chính trị đã biến thể
thành chiến trường nóng máu đổ thịt rơi - tàn sát không biết bao nhiêu là thế
hệ quốc dân. Đốt cháy không biết bao nhiêu là sản nghiệp nhân văn, trí tuệ và
kinh tế của đất nước. Cho nên làm sao để đạo Bụt có mặt ngay trong những hoàn cảnh
khó khăn như trong chiến tranh, trong quân đội, trong xã hội, v.v..., đó là
những vấn đề rất quan trọng trong sứ mệnh giữ gìn bản sắc dân tộc và đem đạo từ
bi cứu khổ vào đời tái lập an bình cho đất nước, là hạnh nguyện của người con
Phật trong mọi hoàn cảnh.
Tháng 9 năm 1945 Việt Nam tuyên bố độc lập
sau cuộc Cách mạng tháng 8 cùng năm. Nhưng năm 1946-1947 người Pháp cố
tình trở lại tái lập thuộc địa trên toàn cõi Đông Dương, buộc người Việt Nam
phải tổ chức kháng chiến chống chủ nghĩa Thực dân tái phục hồi nền độc lập.
Trong đoàn thể kháng chiến thời đó có đảng
Cộng sản, nhưng cũng có những thành phần kháng chiến khác không phải Cộng sản.
Ban đầu là chiến tranh giữa hai phía. Một bên là để dành độc lập, một bên là để
chinh phục lại thuộc địa. Nhưng giữa những người kháng chiến với nhau đã âm
thầm có sự đấu tranh về ý thức hệ. Một bên là phong trào Cộng sản chủ xướng tư
tưởng Marxisme chống lại tư tưởng Tư bản. Có rất nhiều người Việt Nam nghĩ rằng
chỉ có ý thức hệ Cộng sản mới có đủ sức đánh bại lực lượng xâm lăng mà thôi.
Những người khác, như người trong Quốc Dân Đảng thì rất e ngại chủ nghĩa Cộng
sản sẽ đem lại nhiều khó khăn cho đất nước.
Hồi đó tại các chùa, các sư chú, sư cô âm
thầm có cảm tình với kháng chiến. Họ cũng chưa biết Cộng sản là gì, nhưng họ
thấy phong trào kháng chiến cam khổ, kháng chiến quân hy sinh đấu tranh giành
độc lập cho nước nhà. Vì vậy kháng chiến bám lấy các chùa để nhờ yểm trợ. Cho
nên người Pháp rất ghét các thầy, các sư cô, sư chú đã tiếp tay yểm trợ kháng
chiến. Trái tim của người Phật tử có khuynh hướng nghiêng về bên kháng chiến,
đó là điều rất rõ ràng. Điều đó được biểu hiện bằng sự kiện có rất nhiều thầy,
nhiều sư cô đã bị Thực dân Pháp bắn chết, bị bắn ngay trong sân chùa. Nhưng
những người tu còn trẻ đó chưa thấy được rõ ràng sự kiện chủ thuyết Duy vật
biện chứng không thích hợp với tư tưởng của Phật giáo.
Chủ nghĩa Duy vật, duy vật biện chứng pháp
là một cái gì đó giống như là một tư tưởng mới, rất là hấp dẫn đối với thanh
niên Việt Nam thời đó. Vì đó là xương sống của phong trào kháng chiến, người ta
tin rằng chỉ có chủ nghĩa Cộng sản mới có thể giúp giải phóng được đất nước
khỏi bàn tay Thực dân Đế quốc. Phong trào kháng chiến đã có màu sắc Cộng sản,
và càng ngày thì cái xương sống đó càng mạnh ở trong phong trào kháng chiến,
người Cộng sản từ từ nắm hết tất cả chủ quyền trong kháng chiến. Những phần tử
không phải Cộng sản từ từ bị lép vế. Cuối cùng họ phải cắn răng chịu đựng, cố
gắng duy trì sự đoàn kết để đi tới thành công cho kháng chiến.
Thời đó bên Trung Quốc có một số học giả như
là Lương Khải Siêu, Châu Tự Ca, bắt đầu viết những bài, những cuốn sách về chủ
nghĩa Cộng sản, nói rằng con đường của chủ nghĩa Cộng sản không phù hợp với
nhận thức của Phật giáo. Một số các thầy và các cư sĩ có khả năng đọc văn mới -
văn bạch thoại, và có cơ hội được đọc những bài đó thì càng ngày càng thấy rõ
rằng con đường Duy vật biện chứng pháp không phải là con đường phù hợp
với Phật giáo, dù họ rất có cảm tình với phong trào kháng chiến. Trong khi đó
thì các vị cũng biết rằng chủ thuyết Tư bản chống Cộng cũng không phù
hợp với Phật giáo. Vì vậy cho nên những người trí thức trong đạo Bụt đi tìm một
con đường khác. Một con đường không phải là chủ thuyết Cộng sản mà cũng không
phải là chủ thuyết chống Cộng. Đó là tâm trạng của rất đông người trong thời
đại chiến tranh nhiễu nhương hồi đó.
Có một số thanh niên trí thức ở trong chiến
khu cũng bắt đầu thấy được điều đó và tìm cách đối thoại giữa Phật giáo và chủ
thuyết Cộng sản. Ở chiến khu 5 chẳng hạn, tức là ở vùng Bình Định, Qui Nhơn, có
một số các vị đang làm việc cho kháng chiến, nhưng bắt đầu mở ra phong trào đối
thoại. Ví dụ như Phật tử Nguyễn Hữu Quán, một trong những thành viên của Đoàn
Phật học đức dục, được thành lập vào khoảng năm 1930-1935 ở Huế, với sự yểm trợ
của cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, viết ra một cuốn sách tên là Đạo Phật với
nền dân chủ mới. Nền dân chủ mới tức là chế độ Marxiste. Nhưng những cố
gắng của quý vị đó không đi tới đâu, là vì bên kia họ có niềm tin rất sắt đá
nơi chủ nghĩa Marxisme. Vì vậy cho nên họ không mở lòng ra để nghe bất cứ một
tiếng nói nào, dù là một tiếng nói rất tha thiết để đóng góp cho tương lai của
đất nước.
Khi quân đội Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ
thì đất nước bị chia đôi bởi Hiệp định Genève 1954, và việc đấu tranh ý thức hệ
được biểu hiện ra trên phương diện hình tướng. Người Mỹ bắt đầu chen vào. Người
ta nói để giải quyết vấn đề xung đột ở Việt Nam thì đất nước phải chia ra làm
hai: Những người thuộc ý thức hệ Cộng sản thì ở miền Bắc, còn những người theo
ý thức hệ chống Cộng, theo thế giới Tự do thì ở miền Nam.
Lúc đó ở miền Nam, một người Công giáo được
đưa lên làm tổng thống, đó là ông Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Diệm thuộc gia
đình Nho giáo, cũng có dính líu tới truyền thống Phật giáo, nhưng ông đã theo
Cơ Đốc giáo, và là người chống Cộng kịch liệt. Tây phương đã yểm trợ để ông làm
lãnh tụ chống Cộng của miền Nam. Những người thân cận ông Ngô Đình Diệm nghĩ
rằng phải có một chủ thuyết để có thể đương đầu với chủ thuyết Cộng sản. Vì vậy
họ đã mượn lý thuyết của Emile Mounier là chủ thuyết Nhân vị (Personalism) để
làm ý thức hệ chống Cộng. Cho nên ở miền Nam hồi đó, tất cả các công chức đều
phải học tập chủ thuyết Nhân Vị. Có những cơ sở, những trung tâm đào tạo, và
tất cả công chức đều phải học thuyết Nhân vị. Trong trường đại học cũng phải
học thuyết Nhân Vị. Đàng sau thuyết Nhân Vị có ý thức hệ Công giáo. Những người
Công giáo di cư từ miền Bắc được biệt đãi, vì người ta nhận ra đó là một trong
những lực lượng quan trọng để có thể chống Cộng.
Trước thảm cảnh chiến tranh tàn phá, đất nước
bị chia cắt, lấy đi không biết bao nhiêu là sinh mạng của rất nhiều tầng lớp
quốc dân, làm tầng lớp thanh niên Việt Nam rất là đau khổ vì không thấy được
con đường của mình. Phần lớn đều nghĩ rằng mình phải đấu tranh chống lại ngoại
xâm, vì vậy mà có những người tuy không thích chủ nghĩa Cộng sản, nhưng vẫn
phản cắn răng chịu đựng. Cũng có những người nằm trong hàng ngũ kháng chiến,
nhưng âm thầm chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Cuộc xung đột ý thức hệ không những
chỉ nằm giữa Nam và Bắc, mà còn nằm ngay trong hàng ngũ kháng chiến, nằm ngay ở
miền Bắc! Cho nên trong đầu của người thanh niên Việt Nam thời đó có một sự lộn
xộn, không biết đi về đâu, không biết con đường nào là đúng làm cho họ rất đau
khổ! Vì vậy tầng lớp trẻ thời ấy đã nhìn vào đạo Phật để tìm một con đường hầu
giúp họ khỏi kẹt vào thế đấu tranh ý thức hệ, thế theo bên này hay theo bên
kia. Một số người thì hoàn toàn ôm lấy chủ thuyết Marxisme, một số người khác
thì hoàn toàn ôm lấy chủ thuyết Tư bản. Nhưng đa số thanh niên Việt Nam là
không muốn như vậy. Họ muốn một con đường của dân tộc. Vốn liếng của họ nằm
trong văn hóa dân tộc, cho nên họ nhìn vào đạo Bụt để tìm ra một con đường.
Đạo Phật đi vào cuộc
đời
Những sự kiện lịch sử khởi đi từ cuộc chấn
hưng Phật giáo những năm 1920, với những tác phẩm văn học sử như Quả dưa đỏ,
Cô con gái Phật hái dâu ; những bài nghị luận, những bài đối thoại
như : Nhân gian Phật giáo, Phật hóa nhân gian, v.v... xuất hiện trên các
tạp chí Phật giáo thời bấy giờ như Viên Âm, Đuốc Tuệ, Từ Bi Âm, Pháp Âm, Quan
Âm, Tam Bảo, Tiếng Chuông Sớm, Duy Tâm, Tiến Hóa đã un đúc tâm hồn cậu bé chưa
đầy mười tuổi. Khi lớn lên cậu bé đi tu trở thành một thanh niên Tăng với hoài
bảo tiếp bước người xưa đem đạo Bụt vào đời. Nhưng rồi người thanh niên Tăng ấy
phải chứng kiến những biến cố tàn khốc trong cuộc chiến tranh giành độc lập ;
chiến tranh ý thức hệ ; rồi đất nước qua phân. Người thanh niên Tăng nay đã trở
thành một vị Giáo thọ trẻ vững vàng về kiến thức Phật học lẫn tuệ giác
hiểu-thương và tương tức. Hoài bảo và hệ lụy do chiến tranh gây ra đã là một
trong những động lực chính để vị Giáo thọ trẻ phát tâm dũng mãnh quyết làm mới
đạo Bụt, quyết tiếp nối các bậc đàn anh nguyện đem đạo Bụt vào đời và xây nền
cho một đạo Phật dân tộc. Vị giáo thọ trẻ đó chính là Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Trong số cả triệu người Bắc di cư vào Nam đa
số là Công giáo, nhưng cũng có một số Phật tử. Các Phật tử di cư đã thành lập
hội Việt Nam Phật Giáo Bắc Việt tại miền Nam. Năm 1954 đồng bào di cư có xuất
bản mấy tờ báo hàng ngày, trong đó có tờ Dân Chủ, do ông Vũ Ngọc Cát làm Chủ
nhiệm. Dân Chủ là một tờ báo của đồng bào miền Bắc, và có khuynh hướng Phật
giáo. Ông Vũ Ngọc Cát đã đề nghị thầy Nhất Hạnh viết loạt bài cho chủ đề Phật
giáo mới, thứ Phật giáo có thể đưa đường dẫn lối cho quốc dân trong giai
đoạn nữa tối nữa sáng này. Lúc đó thầy Nhất Hạnh đã là Giáo thọ đang dạy ở
trường Phật học đường Nam Việt, một cơ sở do Thầy và Thiền sư Trí Hữu cùng sáng
lập năm 1949 tại chùa Ứng Quang, sau này đổi tên thành chùa Ấn Quang.
Thế là trên
mặt báo Dân Chủ xuất hiện loạt bài lấy tên là Đạo Phật qua nhận thức mới.
Theo Thầy qua nhận thức mới thì qua, nhưng ý chính vẫn là đạo Phật như
thường. Nhờ loạt bài này mà tờ báo bán rất chạy. Chủ đề Đạo Phật qua
nhận thức mới đã trở thành chủ đề chính của tờ báo và nó được đưa lên trang
nhất với hàng tựa lớn in màu đỏ để gây chú ý. Nó chứng tỏ cho sự khao khát của
các tầng lớp xã hội thời bấy giờ cho một hướng đi của dân tộc. Một hướng đi phi
Tư bản, phi Cộng sản. Một hướng đi không đối kháng và có thể ôm ấp được cả người
theo chủ nghĩa Cộng sản và người theo chủ nghĩa Tư bản. Trong những loạt bài đó
Thầy đã nói về một thứ đạo Bụt mới, như là con đường hướng dẫn đất nước thoát
khỏi giai đoạn tranh tối tranh sáng và lộn xộn này. Trong đó có một bài nói về Đạo
Phật và chủ thuyết Nhân vị, Thầy muốn cho mọi người thấy rằng : Đạo Bụt
khác với chủ thuyết Duy Vật như thế nào, khác với chủ thuyết Cộng sản như thế
nào, khác với chủ thuyết Duy Thần như thế nào. Một bên là Duy Thần, một bên là
Duy Vật, còn đạo Bụt là duy gì? Đó là thành quả của những tư duy và thiền quán
của vị Thiền sư bắt đầu được diễn ra thành lời trên mặt báo Dân Chủ vào năm
1954.
Năm 1956, thầy Nhất Hạnh được Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam giao làm Chủ bút tờ báo của Tổng Hội, tức là tờ Phật Giáo Việt
Nam. Trong tờ báo này có loạt bài gọi là Để đi đến một nền Phật giáo dân
tộc. Ngay số đầu của tờ báo Phật Giáo Việt Nam đã có một bài tựa là Hướng
đi của người Phật tử Việt Nam. Trong bài này người ta được đọc rằng hướng
đi đó không phải là hướng đi của Duy vật biện chứng pháp, mà cũng không phải là
hướng đi Duy thần, dựa trên thần linh. Mình không tin vào chủ thuyết Duy vật,
không tin vào một lực lượng thần linh, mà phải tin vào chính con người của
mình, tin vào trí tuệ, từ bi ở trong lòng của mình. Theo Thầy hồi đó làm
tờ báo giống như là dẫn một đạo binh ra trận. Mặt trận này là mặt trận tư
tưởng, mặt trận tư duy để tìm một hướng thoát cho dân tộc, cho người trẻ. Đi
tìm một niềm tin đích thực mà có thể đưa mình thoát khỏi gọng kìm của thế đấu
tranh giữa chủ nghĩa Tư bản và chủ nghĩa Cộng sản. Bên cạnh tờ báo Phật
Giáo Việt Nam còn có những tờ báo khác như là tờ Liên Hoa của Giáo Hội
Tăng Già do Hòa thượng Đôn Hậu làm Chủ nhiệm, cũng mang những bài viết có cùng
một đường hướng.
Vào khoảng năm 1960, những bài viết về Đạo
Phật đi vào cuộc đời xuất hiện trên các tờ báo, trong đó có những bài
như là Đức Phật của thế kỷ chúng ta như thế nào? Giáo lý, thực tập, hành
động, thái độ với xã hội như thế nào? v.v... Đạo Phật đi vào cuộc đời
là một danh từ mới, hơi dài dòng, nhưng nó chỉ có nghĩa là Nhân gian Phật
giáo mà thôi. Đi vào cuộc đời tức là nhập thế. Một bên
chịu ảnh hưởng văn pháp Hán, một bên diễn âm Nôm hiện đại rõ ràng và dễ hiểu.
Loạt bài này đã được gom lại và in thành sách cùng tựa năm 1964.
Đạo Bụt dấn thân
Hiện nay trên thế giới, chúng ta có danh từ Engaged
Buddhism, tức Đạo Bụt dấn thân là vì năm 1960 chúng ta đã
có danh từ Đạo Phật đi vào cuộc đời, và năm 1935 chúng ta đã có
danh từ Nhân gian Phật giáo. Hiện nay ở Hoa Kỳ có một tổ chức gọi là Buddhist
Peace Fellowships nghĩa là Phật giáo phục vụ cho hòa bình, là dấn thân
cho vấn đề hòa bình. Đó cũng là con đẻ của Nhân gian Phật giáo, mà đó
cũng là con đẻ của Đạo Phật đi vào cuộc đời. Tại Âu châu cũng có sự có
mặt của tổ chức đó, một Network of Engaged Buddhism. Thành ra chữ
Engaged Buddhism có nguồn gốc ở Việt Nam, có nguồn gốc trong quá trình
tìm kiếm, học hỏi, tranh đấu để tìm ra một con đường thoát, đưa quốc gia, dân
tộc mình thoát ra khỏi gọng kìm của sự tranh chấp giữa hai ý thức hệ.
Trong cuộc chiến tại Việt Nam, không những
người ta đưa vào hai ý thức hệ để chống nhau. Người ta còn đưa vào võ khí của
cả hai khối! Người Việt trở nên nạn nhân của sự tranh chấp vừa ý thức hệ, vừa
võ khí của hai khối lớn trên thế giới. Cho nên đạo Phật ở Việt Nam giống như là
một bông sen nở trong lò lửa, lò lửa của chiến tranh, của khổ đau. Vì vậy mà
năm 1966 thầy Nhất Hạnh đã viết cuốn Hoa sen trong biển lửa Thầy
đã sử dụng tiếng Anh cho nguyên bản - Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.
Sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Ý, Nhựt, v.v... Sách được tái bản
nhiều lần trong đó bản tiếng Việt phải đợi tới lần tái bản thứ tư mới có. Việt
Nam hồi đó là một biển lửa, và đạo Phật vùng vẫy thoát ra như một đóa sen. Hình
ảnh đó là hình ảnh của một thiền sư đời Lý đề xướng: Ngọc phần sơn thượng
sắc thường nhuận, Liên phát lô trung thấp vị càn. Tức là viên ngọc được đốt
cháy ở trên đỉnh núi mà sắc của nó vẫn còn tươi mát - Bông sen nở trong lò lửa
mà sắc vẫn còn tươi. Đó là cái kim cương tâm, cái bồ đề tâm của người Phật tử.
Năm 1964, Thầy Nhất
Hạnh cho xuất bản thêm một cuốn sách mới tên là Đạo Phật hiện đại hóa,
tiếng Anh dịch là Actualised Buddhism trong lúc Thầy đang vận
động để thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh. Cũng như lần trước, Thầy khẳng định : Đạo
Phật vẫn là đạo Phật, nhưng chúng ta làm cho hiện đại lại để có thể đáp ứng
được những nhu cầu mới, chữa trị được những nỗi đau khổ mới, gọi là Đạo
Phật hiện đại hóa. Nó cho chúng ta thấy được sự khế hợp tuyệt vời giữa cơ
và lý trong cuộc hành trình làm mới đạo Bụt của Thầy.
Theo Thầy, tất cả những hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế, đấu tranh cho hòa bình ở Việt Nam từ 1964
trở về sau, đều được hướng dẫn bằng tư tưởng đạo Phật hiện đại hóa. Cho nên
những danh từ như Phật giáo và dân tộc, cũng được sản xuất từ những gốc
gác đó. Nếu chúng ta có trường Thanh niên phụng sự xã hội, đào tạo cán
bộ đưa về nông thôn để phát triển đời sống nông thôn, để cứu trợ nạn nhân của
chiến tranh, của thiên tai, đó cũng là thực tập theo đường hướng của Đạo Phật
hiện đại hóa, Đạo Phật đi vào cuộc đời. Trong số đó có Dòng tu Tiếp
hiện Thầy cho ra đời cũng vào năm 1964 với 14 giới điều được tinh lọc
từ giáo lý Tứ Đế và con đường Bát Chánh, còn được gọi là 14 phép thực tập chánh niệm giúp cho cả hai giới xuất sĩ và cư sĩ
có đủ năng lực niệm, định, tuệ để có thể đứng vững trên con đường
phụng sự. Tính đến nay Dòng tu Tiếp hiện đã phát triển rộng khắp trên
thế giới giúp hướng dẫn tu học cho hàng ngàn tăng thân thực hành Phật đạo trong
đời sống hàng ngày. Chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh này trong kinh
Duy Ma Cật (Vimalakirtinirdesa), một trong những kinh xuất hiện khá sớm của hệ
tư tưởng Phật giáo Đại Thừa. Kinh
viết rằng :
Có vị Trưởng giả tên là Bảo Tích bạch với Bụt
rằng : Bạch đức Thế Tôn, năm trăm trưởng giả tử chúng con đều đã phát tâm Vô
thượng chánh đẳng chánh giác, cúi mong Ngài chỉ dạy cho chúng con những hạnh
thanh tịnh của các vị Bồ tát. Bụt dạy rằng: Này Bảo Tích! Tất cả chúng
sanh là cõi Bụt của Bồ tát. Vì sao? Bồ tát tùy chỗ giáo hóa chúng sanh mà lãnh
lấy cõi Bụt, tùy chỗ điều phục chúng sanh mà lãnh lấy cõi Bụt, tùy chúng sanh
ưng theo quốc độ nào vào trí tuệ của Bồ tát mà lãnh lấy cõi Bụt. Vì sao thế? Vì
Bồ tát chứng đạt được cõi Bụt thanh tịnh đều vì muốn làm lợi ích cho chúng sanh
chứ không phải để sống một cuộc đời độc lập, giải thoát, xa lìa sự đau khổ của
chúng sanh.
Rõ ràng đây là hình ảnh của đạo Bụt đi vào
đời.
Nếu có người hỏi : Thế nào gọi là Engaged
Buddhism? Thế nào gọi là Đạo Phật đi vào trong cuộc đời? Người ta sẽ
nhận được câu trả lời từ thầy Nhất Hạnh rằng : Cái tự thân của đạo Phật là
đi vào cuộc đời rồi. Nếu không đi vào cuộc đời thì đâu còn gọi là đạo Phật nữa?
Điều này rất dễ hiểu. Chúng ta đã học Tứ Diệu Đế, chúng ta đã học Bát Chánh
Đạo, chúng ta biết rằng Tứ Đế là một giáo lý khuyên chúng ta, chỉ dẫn cho chúng
ta đối diện trực tiếp với khổ đau mà không phải chạy trốn khổ đau. Sự thật thứ
nhất là sự có mặt của đau khổ, và mình phải trực tiếp đối diện với đau khổ đó.
Nếu không hiểu được đau khổ thì không thể tìm được con đường thoát khổ. Vậy thì
ngay trong sự hình thành của Phật giáo ta đã thấy cái tính chất dấn thân rồi.
Vì nếu không là dấn thân, nếu không phải là nhân gian, nếu không phải là đi vào
cuộc đời, thì đạo Phật đâu còn là đạo Phật nữa? Vậy thì tại sao đã là đạo Phật
rồi mà còn phải thêm chữ dấn thân, phải thêm chữ nhập thế nữa, phải thêm chữ
engaged nữa? Tại vì sao? Là tại có những người nghĩ rằng đạo Phật là chỉ dành
cho những người tu ở trong chùa thôi! Vì vậy cho nên phải dùng chữ engaged cho
họ hiểu. Khi người ta đã hiểu rồi thì mình bỏ chữ engaged đi cũng được, bỏ chữ
dấn thân, bỏ chữ nhập thế đi cũng được. Đó là câu trả lời mà chúng ta thường sử
dụng.
Đạo Bụt mà nhiều người đang thực tập ở Làng
Mai là sự tiếp nối của đạo Bụt dấn thân, đạo Bụt đi vào cuộc đời, đạo Bụt với
tâm nguyện chữa trị những vết thương hiện có của con người thời đại, đạo Bụt
với tâm nguyện tìm ra một lối thoát cho những khổ đau có thật của thế hệ chúng
ta. Không phải là thứ đạo Bụt tìm sự trốn tránh những khó khăn và đau khổ của
cuộc đời.
Khổ đau hiện thực
Đạo Bụt có thể đi vào
đời mà không bị oen ố trần đời. Đi vào đời bằng thế cách nào đó mà vẫn giữ được
phẩm chất của đạo Bụt nguyên thủy. Để làm được việc đó đạo Bụt cần phải được
làm mới sao cho vừa khế hợp căn cơ của con người thời đại, cũng vừa khế hợp với
giáo lý tông truyền. Thầy Nhất Hạnh lý giải như sau : Chúng ta được dạy rằng
tinh hoa của Phật pháp là tuệ giác về vô thường và vô ngã. Theo tuệ giác này
thì bất cứ một thực tại sống nào cũng phải luôn luôn biến chuyển. Phải biến
chuyển nó mới có thể tồn tại, có thể sinh động được. Nếu không biến chuyển, thì
nó bắt đầu chết. Con người cũng vậy. Thành ra vô thường là nền tảng của sự sống,
và nếu đạo Bụt nói tất cả đều là vô thường thì đạo Bụt cũng vô thường. Đạo Bụt
phải vô thường thì đạo Bụt mới có thể còn là đạo Bụt. Cũng như một cây bắp,
muốn còn là cây bắp thì phải tiếp tục mọc lên. Không mọc nữa thì cây bắp sẽ
chết, và không còn là cây bắp nữa. Cho nên vô thường rất là quan trọng, vì vậy
ta thấy rằng đạo Bụt phải thay đổi. Thay đổi không phải là để không còn là đạo
Bụt nữa mà thay đổi để có thể mãi mãi vẫn còn là đạo Bụt. Vì vậy đạo Bụt phải
khế cơ, nhưng đồng thời cũng phải khế lý. Vì vậy cho nên trở về với nguồn suối
của đạo Bụt Nguyên thủy là chuyện rất quan trọng.
Và đây là cái thấy của Thầy về hoàn cảnh hiện
thực của xã hội thời nay : Đứng về phương diện khế cơ chúng ta nói đạo
Bụt phải đáp ứng được, phải giải quyết được những khổ đau hiện thực. Những khổ
đau hiện thực đó, ta có thể nêu ra một ví dụ: Sự không có niềm tin.
Hiện nay có rất nhiều người trẻ không biết
tin vào cái gì. Vì vậy họ sống như những cô hồn, không thấy gì đẹp, không thấy
gì lành, không thấy có gì thật hết. Toàn là xấu xa, toàn là giả dối, toàn là ác
độc. Họ không có một cái gì để nương theo hết. Đó là căn bản của niềm đau lớn
nhất của thời đại.
Khi họ nhìn vào gia đình, họ thấy gia đình
tan vỡ, họ thấy bố mẹ không có hạnh phúc, cha và con không có hạnh phúc, họ
không tin vào gốc gác gia đình nữa. Không tin vào gia đình thì việc họ sống như
một cô hồn là không thể nào tránh được.
Khi nhìn vào nhà thờ hay chùa, họ thấy nhà
thờ hay chùa trở thành một nơi rất xa lạ với họ. Khi đến họ thấy lạc lõng.
Những giáo lý của nhà thờ, của chùa dạy, không đáp ứng được những điều ao ước,
những cái thao thức, những khổ đau của họ. Những pháp môn mà chùa và nhà thờ
dạy, có tính cách hình thức, không làm cho họ thảnh thơi, không làm cho họ an
lạc. Có khi nhà thờ trở nên một nơi tranh chấp danh lợi. Nhiều khi nhà chùa trở
thành một chỗ tranh dành danh lợi. Tranh nhau làm hội trưởng, phó hội trưởng,
thủ quỹ, thư ký. Cho nên người trẻ không tin vào nhà thờ, không tin vào chùa.
Do đó mà khủng hoảng về đức tin cũng là một niềm đau khổ của thời đại.
Làm thế nào để khôi phục được niềm tin? Chúng
ta thấy ngay ở các nước Xã hội Chủ nghĩa. Ngày xưa người ta còn tin vào chủ
thuyết Marxisme, chủ thuyết Cộng sản. Bây giờ người ta không tin nữa. Nhưng nếu
không tin vào chủ thuyết Marxisme thì phải tin vào một cái gì khác.
Cái khác đó là gì? Đảng Cộng sản
Trung quốc mặc dù từng tự hào với đường lối Cộng sản theo kiểu cách riêng. Đó
là Cộng sản theo chủ nghĩa Maoism. Mặc dù vậy Maoism cũng cũng từ
Marxisme mà ra. Cho nên họ rất sợ
trước sự phá sản của chủ nghĩa Marxisme xảy ra tại Nga kéo theo sự sụp đổ đồng
loạt tại các nước Cộng sản Đông Âu. Nó bắt buộc người Cộng sản Trung quốc phải
tìm cho ra cái gì khác để thay thế trước khi quá muộn. Cái khác mà họ thấy được
là Khổng giáo. Nhưng là một thứ Khổng giáo mới - Khổng giáo độc tài theo đường
lối Dân tộc chủ nghĩa cực đoan (Ultra-nationaliste). Đồng lúc họ
phát động phong trào làm giàu, người người làm giàu, nhà nhà làm giàu theo tư
tưởng của Đặng Tiểu Bình với chủ trương : Mèo trắng mèo đen gì cũng không
sao miễn bắt được chuột là được. Thế là mọi người lao vào làm giàu, lao vào
tiêu thụ như những con thiêu thân. Con người trở nên ích kỷ, sống chết mặc
bây. Chủ nghĩa Cá nhân xuất hiện.
Trong khi đó người Cộng sản Việt Nam không
thấy có gì trong văn hóa của mình để thay thế chủ nghĩa Marxisme nên đành phải tạm
thời rời bỏ người anh Nga Xô Viết để đi theo cái đuôi của người anh Trung
quốc. Mà đi theo là lệ thuộc, lệ thuộc tư tưởng, lệ thuộc đường lối trị quốc.
Họ thà chịu làm phận nô thuộc còn hơn mất quyền cai trị. Nhưng đó chỉ là một
thiểu số trong đảng cầm quyền. Còn đại bộ phận thế hệ 1975 trở về sau bị lạc
lỏng bơ vơ, quên hết đường về. Họ quên rằng đất nước không bao giờ thiếu lý
tưởng nhân sinh, không bao giờ thiếu tuệ giác từ bi, tuệ giác phụng sự. Những
con đường đã từng mang lại hạnh phúc và phú cường cho dân cho nước qua các
triều đại Lý - Trần. Không bao giờ thiếu tinh thần quật khởi giành lại độc lập
cho nước nhà dù phải chịu nô thuộc cả ngàn năm của giặc Tàu, cả trăm năm của
giặc Pháp. Thế là bị rơi vào hầm hố của tiêu thụ làm mồi ngon cho một thứ chủ
nghĩa tư bản hoang dã. Rơi vào sắc dục, băng đảng tội phạm. Là những mãnh đất
màu cho sự phát triển của chủ nghĩa Cá nhân.
Thầy nói : Cá nhân chủ nghĩa
(Individualism) trở thành tràn ngập. Chỉ lo cho mình thôi, vì vậy cho nên mình
cứ tin rằng hạnh phúc là cái mà mình đi tìm kiếm riêng cho mình, mình không
biết hạnh phúc là vấn đề tương tức. Nếu người kia không có hạnh phúc thì mình
không thể nào có hạnh phúc được. Không có niềm tin thì không có tình thương.
Khi mình đi theo cá nhân chủ nghĩa thì mình không có niềm tin, không có tình
thương. Tại vì có thương thì mình có liên hệ tới người khác, và mình thấy hạnh
phúc của người khác có liên hệ tới mình. Thấy vậy thì làm sao mình đi theo con
đường cá nhân chủ nghĩa cho được?
Đối trị khổ đau
Thầy Nhất Hạnh chỉ cho chúng ta thấy
rằng : Gia đình tan vỡ ; nhà thờ và chùa đánh mất vai trò lãnh đạo ; cá
nhân chủ nghĩa đưa tới hố ngăn cách giữa các thế hệ. Liên hệ tới vấn đề đó là
chuyện nói và nghe, truyền thông giữa hai thế hệ trở thành khó khăn. Rồi đi đến
những tệ trạng như rượu, ma túy, bạo động, tình dục, chiến tranh, ô nhiễm sinh
môi, và cố nhiên là sự có mặt của vô số cô hồn sống ở chung quanh ta. Đó là
những vấn đề có thật, những khổ đau có thật, những khó khăn mà chúng ta đang
vấp phải.
Trong thời gian trường Thanh niên Phụng sự
Xã hội, được thành lập ở Việt Nam, vào năm 1964, nhằm đáp ứng những khó
khăn của xã hội Việt Nam thời đó, được coi như là đối tượng của sự hoạt động.
Có bốn đối tượng, đó là : nghèo đói ; bệnh tật ; ngu dốt ; và vô tổ chức.
Bốn cái đó là bốn khía cạnh của cái gọi là kém phát triển. Thành ra mục đích
của những sư chú, những sư cô, những thanh niên đến học và được đào luyện, là
để đi về miền quê, tìm cách đối phó với bốn tai nạn lớn đó.
Khi bị bốn hung thần này đe dọa kiềm chế.
Nhìn ra nước ngoài chúng ta thấy ở những nước gọi là phát triển họ không có
nghèo đói, không có bệnh tật, không có ngu dốt, họ tổ chức rất khéo, và chúng
ta muốn chạy theo họ, bắt chước họ.
Nhưng ngày nay, nhìn lại các nước gọi là đại
phát triển như nước Mỹ hay các nước ở Âu châu, thì ta thấy gì? Ta thấy có một
cái gọi là Xã hội tiêu thụ. Tiêu thụ rất ghê gớm! Chỉ nội ngày lễ Giáng
sinh ở Âu Tây, những thức ăn, thức uống, những đồ chơi, những thứ người ta tiêu
xài cho một ngày lễ thôi, cũng đã làm mình choáng mắt rồi. Một bữa ăn trưa của
người bên này có thể lên tới cả trăm €. Trong khi chỉ cần 25 xu € đã có thể
cung cấp một, hai bữa ăn rất bổ dưỡng cho một em bé ở các nước chậm tiến.
Tuy vậy ở Tây phương nghèo đói vẫn có mặt. Ở
Pháp, ở các nước Âu châu, và tại Hoa Kỳ, họ có những giới nghèo mới. Xã hội tổ
chức như thế nào mà ngay tại Pháp có những người không có ăn, không có mặc,
không có nơi ngủ. Họ phải ngủ trên lề đường, ngủ dưới gầm cầu, lén lút trong công
viên, chết lạnh vì không nhà. Thành ra trong xã hội gọi là đại phát triển đó,
sự nghèo đói vẫn có, đi đôi với xã hội tiêu thụ.
Đứng về phương diện sức khỏe, thuốc men phát
triển rất nhiều, và đời sống của con người kéo dài thêm ra. Người Âu châu và Mỹ
châu càng ngày càng già, tại vì có nhiều thuốc nên họ sống lâu hơn. Các loại
thuốc gọi là thuốc an thần, thuốc tâm thần càng ngày càng nhiều. Số người đang
sống sót nhờ những thuốc an thần và thuốc tâm thần càng ngày càng đông. Nói
rằng đã phát minh được rất nhiều phương pháp trị liệu bằng thuốc men, nhưng
những bệnh mới lại phát sinh rất nhiều, trong đó có bệnh tâm thần, trầm cảm,
sida... Số người tự tử, số người đi vào nhà thương điên ngày càng đông. Tuy
người ta giàu có, nhưng chính vì sự tiêu thụ như vậy, ăn uống thừa thải như
vậy, cho nên đã đưa tới rất nhiều bệnh tật.
Nhìn vào những mô thức của các nước phát
triển mạnh, giàu có, các nước chậm tiến lại cứ nghĩ rằng đó là con đường của
mình đang cần tới! Tuy vậy, nếu biết rõ những khổ đau mới, và chất lượng hạnh
phúc trong các xã hội đó, thì mình sẽ thấy rằng mình phải tìm con đường khác
nếu mình không muốn gánh chịu những khổ đau cùng một chất liệu mà các nước gọi
là quá phát triển đang đi qua.
Đạo Bụt đối trị với những niềm đau khổ
này như thế nào? Tất cả những khổ đau đó, tất cả những cái
khó khăn đó, chúng ta phải quán chiếu, chúng ta phải coi là cái khổ đế của
chúng ta, và chúng ta phải hiểu được bản chất của những khổ đau đó thì chúng ta
mới tìm ra được con đường thoát, gọi là đạo đế. Chúng ta chỉ có một con đường
là phải biết cách ứng dụng giáo lý Tứ Đế vào đời sống hàng ngày.
Bằng vào sự quán chiếu sâu trên căn bản giáo
lý Tứ Đế, thực tập phép Quán Niệm Hơi Thở, chế tác năng lượng Niệm - Định -
Tuệ, ôm ấp chuyển hóa khổ đau trong thân và trong tâm của tự thân. Một khi biết
cách chế tác ra năng lượng chánh niệm giúp chuyển hóa khổ đau của chính mình
khi đó mình mới có thể giúp được người khác chuyển hóa khổ đau của họ. Đó là
một trong những cách áp dụng đạo Bụt vào đời sống hàng ngày.
xxx
Thập niên 1960 chúng ta có dòng tu Tiếp
Hiện, có Đạo Phật hiện đại hóa làm phương châm hành động
của trường Thanh niên phụng sự xã hội. Ngày nay chúng ta có Viện
Phật Học Ứng Dụng ở châu Âu và châu Á. Chúng ta có phong trào
Wake up cho người trẻ thực hành Năm giới quý báu (Làng Mai biên soạn)
vào đời sống hàng ngày, là sự tiếp nối của Trường Thanh niên phụng sư xã hội
xưa kia. Chúng ta có chương trình Đạo đức học ứng dụng cung cấp
phương pháp giảng dạy và thực hành cho giới giáo chức và học sinh tại các
trường phổ thông trung, tiểu học ở nhiều nước trên thế giới, v.v... Thế nên khi
chúng ta tiếp cận được thứ đạo Bụt đang được thực tập tại các trung tâm Làng
Mai trên thế giới trong ba mươi bốn năm qua. Chúng ta biết đó là thứ Nhân
gian phật giáo, là Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại
hóa, Đạo Phật dấn thân, Đạo Phật ứng dụng. Chúng có sự liên thông với
nhau, tuy có nhiều tên gọi khác nhau nhưng tất cả đều là một. Vì chúng có sự
xuyên suốt từ đạo Phật nguyên thủy tới đạo Phật hiện đại. Chúng ta chỉ cần biết
cách áp dụng các giáo pháp tông truyền một cách khế hợp vào đời sống của từng
thời đại là đã có thể chế tác được an vui hỷ lạc cho mình và cho người rồi.
Chân Minh
Paris, ngày đầu năm 2016.
- Nội dung chủ yếu của bài này được biên soạn từ pháp thoại Lịch sử đạo Bụt đi vào cuộc đời của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, và một ít trích dẫn cùng tham khảo từ các kinh sách: Bồ tát tại gia Bồ tát xuất gia, Việt Nam Phật giáo sử luận III của cùng tác giả và giáo sư Nguyễn Lang - một bút danh khác của thầy Nhất Hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét