Thứ Năm, 28 tháng 1, 2016

CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT

 ~ Thích Nhật Từ

Quan điểm của đạo Phật sau khi con người hay loài động vật nằm xuống, đó không phải là dấu chấm hết, mà chỉ là một dấu chấm nối kết lại với những dấu chấm khác trên một con đường thẳng. Con đường đó mở ra dài hay rộng, sớm hay muộn tùy thuộc vào bản chất tâm lý, hành vi của chính con người hay loài động vật tạo ra. Trong thời đức Phật, nhiều cuộc đối thoại diễn ra được ghi nhận lại trong kinh Trường Bộ về quan niệm và bản chất của cái chết, hay nói cách khác đời sống sau cái chết là gì.
Quan điểm của các nhà duy vật cổ xưa Carvaka của Ấn Độ cho rằng sau khi con người chết, thân thể tâm vật lý bao gồm năm yếu tố: cấu trúc vật lý, dòng cảm xúc, ý niệm hóa, nhận thức phân biệt, và sự vận hành của tâm linh sẽ hoàn toàn trở về với cát bụi. Họ quan niệm rằng ý thức chỉ là một phần của vật chất. Học thuyết này đã được chủ nghĩa duy vật thời nay phát huy tối đa như một hệ thống tư tưởng chịu ảnh hưởng lớn đối với các nước xã hội chủ nghĩa.
Đức Phật đã đưa ra khá nhiều minh chứng để khẳng định quan niệm chết là hết, hoặc một sự vật, hiện tượng chấm dứt mà không có vòng dây tiếp tục là một quan niệm sai lầm. Học thuyết của Ngài được ghi chép rõ trong kinh, đặc biệt là kinh Kim Cang thể hiện duy nhất với bốn chữ “bất sanh, bất diệt”. Triết lý này cho rằng nếu mọi sự vật, hiện tượng không từ đó mà sanh ra, nghĩa là không có nguyên nhân khởi đầu thì tiến trình kéo dài của nó sẽ không có nguyên nhân kết thúc. Nó chuyển từ hình thái này sang hình thái khác tùy theo tính điều kiện, môi trường, hoàn cảnh và cộng nghiệp của con người, vũ trụ v.v…
Hãy thử quan sát khi ta cầm quả bóng trên tay và ném nó vào vách tường. Khi tiếp xúc với vách tường, nghĩa là quả bóng đã rời khỏi bàn tay. Trong tình huống này, có người cho rằng quả bóng đã kết thúc, không còn nằm trong bàn tay mình nữa. Dưới cái nhìn vật lý của không gian mặt phẳng, điều này có thể đúng, do vì không còn nhìn thấy quả bóng nữa nên ta cho rằng nó đã kết thúc; nhưng nếu nhìn ở chiều kích không gian đa chiều thì quả bóng đó di chuyển từ ngay điểm xuất phát của nó, tức là bàn tay của ta đến vách tường với một khoảng cách, và đến đây nó vẫn chưa hoàn toàn là hết. Chính sự va chạm của quả bóng vào trong vách tường đã tạo ra một lực có tác động dội ngược lại. Đây là sự phản hồi lần thứ hai, và đến đây nó vẫn chưa kết thúc. Khi dội ngược lại, quả bóng sẽ tiếp tục lăn trên mặt đất. Cái lăn sẽ va chạm vào chân tường và những đồ vật khác, hoặc nó sẽ đi theo tiến trình lăn tự nhiên cho đến khi nào lực đẩy không còn nữa, nó sẽ dừng lại. Cái dừng lại đến đây vẫn chưa hết, nó tiếp tục tạo ra hệ phản ứng trực tiếp hay gián tiếp đối với các sự vật xung quanh nếu bên dưới là mặt nước, hoặc tạo sự chấn động chung quanh kéo dài.
Bằng cách thức này, khi phân tích lực phản hồi của bất kỳ hoạt động, hay sự sống của một chủng loài đều diễn tiến theo cách bất tận như vậy, không thể truy đến tận đích điểm cuối cùng. Bởi vì lực phản hồi trong một cấu trúc rất phức hợp và đa dạng. Bằng nhãn quan vật lý thông thường để nhận định, đánh giá, ta cho rằng nó đã kết thúc; nhưng với nhãn quan của nhà khoa học vật lý thì tất cả mọi thứ vẫn còn tiếp tục tác động và diễn tiến dựa trên cấu trúc của nó. Do đó, chết không phải là hết.
Việc các nhà triết học quan niệm chết là hết hoặc theo quan niệm của đức Phật có một đời sống sau khi chết, liên hệ đến tính đạo đức của vấn đề. Rất nhiều nhà duy vật cổ xưa Ấn Độ không chấp nhận quan niệm có đời sau, mặc dù bản thân đời sống hiện tại của họ rất đạo đức, nhưng điều mà đức Phật nhìn thấy và muốn lưu ý ở đây chính quan niệm sai lầm này sẽ mở cửa, tạo điều kiện dẫn khởi, xúc tác cho những hành vi con người đi vào quỹ đạo gây bất lợi cho bản thân và tha nhân. Bởi kết cuộc của sự sống và cái chết đều giống nhau, như vậy chẳng ai muốn làm lành lánh dữ hay nỗ lực dấn thân phục vụ xã hội để làm gì.
Với niềm tin có một kiếp sau sẽ làm con người nghĩ đến tính trách nhiệm về đạo đức nhân quả trong mỗi hành động, lời nói, và việc làm dù kiếp sau có thể chẳng có gì. Quan niệm như thế vẫn tốt hơn cho cộng đồng và xã hội trong đời sống hiện tại có mặt trên cuộc đời, huống hồ chi về mặt qui luật vật lý không có vật gì là mất hẳn.
Khái niệm bất sanh bất diệt là khái niệm triết học vẽ ra tiến trình chạy trôi chảy của các chúng sinh, với mỗi điểm là một phần của sự sống. Sống và chết chập trùng trong những điểm lên và xuống của tiến trình. Nói cách khác, ta chết đi trong từng giây, từng phút, từng ngày và từng giờ để tái tạo lại sự sống trong từng giây, từng phút, từng ngày và từng giờ về phương diện sinh học, vật lý. Đây là quan niệm của đạo Phật, và nó hoàn toàn phù hợp với quan niệm sinh học và vật lý học hiện đại.
Cái chết về mặt vật lý hoặc còn gọi là chết lâm sàng được xác định bằng sự ngưng hoạt động của não, kết thúc nhịp đập của tim, các giác quan hoàn toàn lặng tắt, đây chỉ là một phần đánh giá về bản chất của cái chết mà đôi lúc nó không chuẩn xác hoàn toàn từ cái nhìn của đạo Phật.
NGUỒN ĐIỆN CỦA BÓNG ĐÈN
Thỉnh thoảng, ta vẫn được nghe kể lại những câu chuyện khó tin nhưng có thật từ những người mà cuộc sống của họ gắn liền với nghề giữ xác trong bệnh viện. Chẳng hạn như một bệnh nhân đã tắt thở hoàn toàn, tim mạch ngưng hoạt động, thân thể đã lạnh cứng; do vì không có thân nhân đến lãnh xác nên thi thể của họ được đưa vào trong nhà lạnh, tạo cơ hội cho các sinh viên thí nghiệm, thực tập mổ xẻ trong ngành y. Thế nhưng đôi lúc có những trường hợp các thi thể ấy đã sống lại sau ba, bốn, hoặc năm ngày trong nhà xác. Trước hiện tượng này đã làm cho các nhà khoa học hoang mang vô cùng. Lý giải thế nào về cái chết lâm sàng đứng từ góc độ và tầm nhìn của y học hiện đại, khi máu ngưng hoạt động và tim đã ngừng thở trong vài ngày?
Theo quan niệm của đạo Phật, sự sống của người chết và các loài chúng sinh có liên hệ đến một yếu tính quan trọng, đó chính là sự hiện hữu tương thức của dòng chảy tâm thức bên trong, hỗ trợ mật thiết cho sự vận hành theo qui luật nhân quả cùng với dòng cảm xúc. Yếu tố quan trọng để nối kết, xác định, kéo dài và tái tạo sự sống được sánh ví như nguồn điện của chiếc bóng đèn, bóng đèn được ví như thân xác của con người. Để cho chiếc bóng đèn phát quang cần có nhiều điều kiện như tăng-phô, con chuột, bóng đèn, đường dây điện, nguồn điện v.v… chỉ cần một trong những điều kiện này bị trục trặc có thể dẫn đến việc ngưng phát quang của bóng đèn. Trong tình thế đó, không nên đẳng thức hóa và kết luận rằng dòng điện đã ngưng hoạt động, mà trên thực tế nó vẫn tiếp tục hiện hữu. Bóng đèn không cháy có thể vì tăng phô bị hư, con chuột bị đứt hoặc do bóng bị đen ở hai đầu, tức là điện quang bên trong không đủ làm cho chiếc đèn có thể bật sáng. Giống như tình trạng chết lâm sàng khi tim, não và máu đã ngưng mà dòng cảm xúc hay ý thức vẫn tồn tại và tái sinh gắn liền với những nỗ lực, do vì thái độ nuối tiếc, không muốn chấp nhận cái chết đó. Trong một vài tình huống như thế sẽ dẫn đến việc kéo dài cái chết và cuối cùng tái tạo lại sự sống.
Như vậy, câu hỏi được đặt ra là tại sao có nhiều người cũng muốn níu kéo, không muốn chấp nhận cái chết mặc dù cái chết đang diễn ra, nhưng sự sống lại không tiếp tục có mặt với họ lần thứ hai?
Tâm lý học và nghiệp báo của đạo Phật lý giải rằng, không phải con người ước muốn điều gì cũng có thể đạt được, bởi vì nó liên hệ đến tính điều kiện để cho ước muốn đó trở thành hiện thực. Nói cách khác, chúng sanh đó vừa qua đời và được tái tạo mạng sống lần thứ hai là bởi trong quá khứ họ đã gieo trồng rất nhiều hạt giống của sự sống, bảo vệ sự sống và quyền sống của con người và các loài động vật. Chẳng hạn như các nhà môi trường làm hết mình với tất cả tấm lòng, ý thức, bảo hộ sự sống cho mọi người và mọi loài chúng sinh. Chính điều này đã tạo ra phước lực rất lớn, trong thời điểm ra đi đột ngột dẫn đến sự nuối tiếc, muốn níu kéo mạng sống. Nhờ sự níu kéo này đã tạo ra chất xúc tác mãnh liệt, dưới tác động của nó, thay vì để cho tiến trình tái sinh được diễn ra bình thường, quả của nghiệp thiện ích về đời sống sẽ trổ ở đời sau, nhưng bây giờ nó trổ quả ngay. Tương tự như một loại trái cây, nếu để tự nhiên phải mất đến vài ngày mới có thể chín, nhưng vì mưu sinh, người ta dùng khí đá hoặc một loại hóa chất để dú, thúc đẩy độ chín của nó diễn ra sớm hơn so với bản chất tự nhiên.
Trong tình huống níu kéo sự sống mà con người hay chủng loại nào đó không đủ chất xúc tác và điều kiện cần thiết của phước lực sẽ dẫn đến tình trạng tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía, nghĩa là phủ định và không muốn thừa nhận cái chết của mình. Tiến trình đó kéo dài hay ngắn lệ thuộc vào dòng cảm xúc của hương linh có chịu buông bỏ hay níu kéo. Cái chết được tái sinh là chuyện hy hữu, nó là điểm để con người nhận định, đánh giá, phản hồi lại bản chất đời sống của mình. Cái sống hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực nghiệp báo và hành vi thiện ác của con người đã tạo. Đứng về góc độ tâm lý học thì sự níu kéo sau cái chết rất nguy hiểm, bởi vì trong chúng sanh có mấy người níu kéo được sự sống lần thứ hai, và toàn bộ những người không may mắn đó phải chấp nhận cái chết cho dù họ cố tình phủ định, điều này dẫn đến tình huống trở thành ngạ quỷ.
Thế Tôn đã khá tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ, nếu chỉ dùng ngôn từ hồn ma bóng vía thì chưa đủ, mà phải dùng thêm tính từ “ngạ”. Ngạ là đói khát, bởi vì khi ra đi hương linh không chấp nhận, cứ bám víu vào một cái gì đó và đẳng thức hóa nó là cơ thể vật lý của mình. Chẳng hạn như di ảnh, hài cốt, bàn thờ, mồ mả, nhà trưng bày hoặc viện bảo tàng v.v… Cái tôi đẳng thức hóa đó với cấu trúc vật lý của thân, dù là tổng hòa giữa cấu trúc vật lý và bộ phận quan trọng của tâm lý gồm bốn yếu tố: cảm xúc, ý niệm hóa, sự vận hành của tâm và nhận thức phân biệt.
Đẳng thức hóa thường kéo theo quan niệm sai lầm dẫn đến sự nuối tiếc. Do vì nuối tiếc, hương linh rất khổ đau khi nhìn thấy cảnh tượng con người sinh hoạt, hưởng thụ và cảm xúc, khiến hương linh như đang sống lại với đời sống mình từng trải qua trong quá khứ. Thế nhưng hương linh không thể nào thỏa mãn được những điều này, vì không còn cơ thể vật lý để ăn, không còn thân thể để mặc áo quần và trang sức. Càng bám víu, nuối tiếc nhiều chừng nào thì dòng cảm xúc tạo ra năng lực khổ đau lại càng nhiều chừng đó. Đối với loài ngạ quỷ chưa đi đầu thai, họ đói
 về cảm xúc, vật thực, đời sống cùng mọi phương diện hưởng thụ khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét