Thứ Sáu, 25 tháng 6, 2010

LÝ THÁI TỔ VÀ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC


Nếu tính đời người là một trăm năm thì một ngàn năm chỉ bằng mười đời người hoặc mười người cộng lại; vả lại, không gian vô tận, thời gian vô cùng thì một ngàn năm là giấc chiêm bao còn lưu trên hoang tích của vôi vữa, đá gạch nằm trong lòng đất!

Thế nhưng, một ngàn năm đó chỉ như mơ hồ trên sách vở, hoặc ảo ảnh giữa hư vô kể từ Minh Vương Lý Thái Tổ di đô từ Hoa Lư về thành Đại La năm 1010 ( Thuận Thiên thứ 1, vào tháng 7 ), mà di tích được khám phá trên một vùng rộng lớn tại thủ đô Hà nội vẫn còn là minh chứng thật cho một huyền sử xa vời!
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam suốt chiêu dài trên bốn ngàn năm danh sử, những vị vua từng có công dựng xây và chấn hưng đất nước là chuyện bình thường, cũng như có những đời vua làm băng hoại tổ quốc và trụy lạc cá nhân cũng không thiếu, thế nhưng, Lý Công Uẩn, mở đầu cho những triều đại kế tục, suốt hơn bốn thế kỷ đem lại thái bình cho nhân dân và thống nhất giang san một mối, tạo sự kiêng nể cho ngoại xâm, dẹp tan ý đồ bá quyền của nước lớn và bình định lân bang bằng ngoại giao, bằng uy tín, bằng chiến lược và kể cả sức mạnh quân sự. Phải nói hai đời Lý và Trần thực sự là thời đại vàng son của một dân tộc, vừa củng cố an ninh quốc nội, vừa phát triển ngoại giao, vừa hưng thịnh kinh tế, vừa ổn cố chính trị, và quan trọng nhất đã thống nhất lòng dân bằng Tam giáo mà Đạo Phật là chủ lực tạo một tiềm lực đáng kinh ngạc trong những lúc đất nước hưng thịnh, ngoại trừ có những hôn quân phế truất Phật giáo thì những lúc đó, đất nước lâm vào suy vong như lịch sử đã minh chứng.

Như lịch sử đã ghi nhận, Lý Công Uẩn vốn xuất thân từ nhà chùa, con nuôi của Lý Khánh Vân và là đệ tử truyền thừa của Thiền sư Vạn Hạnh. Từ bé đã không cha, mang một lý lịch huyền thoại, nhưng cốt cách sinh hoạt thường nhật của một chú bé ở chùa chứng tỏ một con người không mang tính huyền thoại để bước vào đời nhận lãnh trách nhiệm gánh vác giang san trên đôi vai một Phật tử. Triều đại Lê Long Đỉnh, Lý Công Uẩn làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Trong hàng quan tướng tứ trụ vương triều thì Lý công Uẩn tỏ ra nhân hậu, nhiệt tình, trung thành, được lòng quan triều và tín nhiệm của Lê ngọa Triều. Tuy Lê Long Đỉnh tỏ ra hư hỏng, tha hóa và độc ác đối với lê dân cũng như thô bạo đối với sư sãi, giải khuây bằng sự chết chóc của tội nhân, tham dâm vô độ, giết anh cướp ngôi (1)…đã làm mất lòng dân cực độ, thế mà Lý Công Uẩn vẫn tròn đạo nghĩa vua tôi, chính vì thế mà Lý Công Uẩn được Lê Long Đỉnh rất tin tưởng. Lê Long Đỉnh băng hà lúc 24 tuổi, con còn quá nhỏ. Đào Cam Mộc và quần thần tôn Lý Công Uẩn lến ngôi vua, ứng với điềm lành báo trước cây gạo ở chùa làng Diên Uẩn, (Cổ Pháp) bị sét đánh mà Vạn Hạnh tiên đoán nhà Lê suy Lý Thịnh; Cho dù Lý Công Uần được Đào Cam Mộc và Vạn Hạnh thiền sư hậu thuẩn, nhưng không có thần khí nhân từ, chơn mạng đế vương được lòng thiên hạ thì cũng khó mà cửu trụ.

Lý Công Uẩn lên ngôi chưa tới 40 tuổi, thế mà có tầm nhìn của một lãnh tụ thiên tài; Hoa Lư là mãnh đất từng chống ngoại xâm cũng như dẹp loạn sứ quân của nhị vị Tiên đế Đinh- Lê, có nghĩa Hoa Lư chỉ là vùng tử thủ, chứ không thể là địa công; vùng chiến lược quân sự mà không là chiến lược kinh tế và phát triển cơ đồ. Từ xưa, các triều đại từng có việc dời đô, nhưng việc di đô lại thể hiện tính dân chủ trong thời phong kiến như Lý Thái Tổ:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[7], nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô[8], há phải các vua thời Tam Đại[9]; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[10], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993

Chính vì thế mà quan dân đều đồng thuận:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận:[6]
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng

Việc dời đô là hệ trọng, sau khi kế nghiệp, vua tức tốc đi tìm địa lợi, vừa ổn cố cơ đồ, vừa phát triển kinh tế dân sinh; Sau khi an cư, Lý Thái Tổ đã triệt để áp dụng Phật giáo vào đời sống xã hội, đây là một sách lược tâm lý chính trị để đoàn kết lòng dân:
Tôn giáo
Triều Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nên những người đi tu, lấy tiền kho ra để xây chùa, đúc chuông được nhà vua trọng đãi. Tháng 6 năm Thuận Thiên thứ 9 (Mậu Ngọ 1018),[7] Lý Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nhà Tống (Trung Quốc) thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại
Chính vì thế mà nho gia bất mãn:
: Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy? ”—sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư.[13]



Chiến Lược Tôn Giáo: Việc di đô là tầm nhìn chiến lược, nhưng bảo vệ và phát triển chiến lược được lâu bền, không thể duy ý chí, hay thuần túy pháp quy; Lý Thái Tổ đã biết áp dụng tinh hoa Đạo Phật vào xã hội, làm chất keo sơn đoàn kết quần chúng; Kinh nghiệm thể chế phong kiến áp dụng pháp quyền cộng thêm bạo lực của Lê Long Đỉnh. Quần chúng tuy sợ sệt nhưng ngấm ngầm bất mãn. Bề mặt xã hội được trấn áp bởi bạo lực nhưng tảng băng ngầm chứa đựng sự rạn nứt trong lòng dân. Lý Thái Tổ khác với Constantinope, áp dụng tôn giáo vào xã hội bằng lòng nhân và đạo đức tôn giáo, mục đích duy trì nền độc lập tổ quốc và ổn định sinh hoạt xã hội; Trong khi đó, Constantinope dùng tôn giáo như lưỡi gươm và cây thập giá để bành trướng vương quyền, mở mang bờ cỏi, tạo bao chết chóc, máu đổ đầu rơi.
Một tinh thần bất bạo động, khoan dung của Phật giáo đã tránh được bao cuộc xô xát đẫm máu vì tranh giành ảnh hưởng giữa tôn giáo với tôn giáo, đồng thời, với tinh thần đó, cũng đã kích thích tăng trưởng tính ổn định trong mọi xã hội mà Phật giáo là chủ đạo. Những dân tộc nhạy bén về dân trí, Đạo Phật cũng giúp phát triển những tinh hoa văn hóa, nghệ thuật, ngay cả khoa học và các bộ môn tâm lý.

Tuy nhiên, nếu Phật giáo được hỗ trợ để phát triển thuần túy về xã hội và hình thức tín ngưỡng, dễ đưa đến sự lạm phát và lạm dụng mà Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Hoa…những trang giáo sử cũng từng bị hoen ố, đến độ Quang Trung phải ra lệnh thanh lý tu sĩ, có những triều đại phải cấp độ điệp và kiểm tra nội điển để kiểm soát tình trạng thừa cung thiếu cầu!
Việc tạo lập Tam bảo và tiếp Tăng độ chúng không phải là thừa, nhưng đó cũng không là cần thiết nếu lượng số tu sĩ quá mức cần thiết mà nội lực hành trì không được triển khai, và quần chúng chỉ biết lễ lạy mà không hiểu biết giáo lý để áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Một số sai lầm của những nhà cầm quyền trong quá khứ ở những nước Đạo Phật là quốc giáo, đã yểm trợ hình thức mà không chú trọng nội dung, thay vì làm lợi cho xã hội, biến thành tệ hại cho đất nước, và số tu sĩ gần bằng phân nửa dân số đó, là gánh nặng kinh tế cho quốc dân. Tuy nhiên, Đài Loan, Nam Triều Tiên ngày nay, tuy Phật giáo không là chủ đạo của một dân tộc, nhưng biết chuyển mình hợp cách với trào lưu tiến hóa xã hội. Các tu sĩ đã xã hội hóa hoạt động pháp sự như Phật giáo Viên của Nam Triều Tiên và hội Từ Tế Đài Loan do ni sư Cheng yen khởi lập vào ngày 14/5/1966, đã có nhiều chi nhánh trên thế giới vừa giúp xã hội, trên phương diện từ thiện, y tế, giải quyết cuộc sống cho quần chúng Phật tử và hỗ trợ viện phí cho bệnh nhân nghèo! So với dân số Nam Triều Tiên là 45.182.000 người, Phật giáo chiếm 25,3%; Đài Loan 23 triệu dân, Phật giáo chỉ 35.1% thì Việt Nam 86 triệu dân, đã có 45 triệu tín đồ, tức 55%, thế mà mãi đến ngày nay, về mặt nổi, chùa am phát triển gần 15 ngàn, tu sĩ có 44.500 vị, vẫn chưa có một cơ sở xã hội mang tầm vóc quốc gia chứ chưa nói đến quốc tế như Đài Loan và Nam Triều Tiên. Tuy vậy, một bộ phận khác của Phật giáo, Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã đóng góp thiết thực cho xã hội bằng những phần cơm chay miễn phí mỗi ngày lên đến 10 ngàn suất ăn cho các bệnh nhân nằm viện từ TP HCM đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Một vài quán chay từ thiện miễn phí trong thành phố do lòng hảo tâm của những thiện tín giúp đỡ người lao động có thu nhập thấp.

Những cố gắng trên đây do tự phát của quần chúng. Phật giáo Việt Nam tuy thống nhất một khối, nhưng vì cơ chế chưa thông thoáng, bản thân Giáo hội chưa thể hiện tính chủ động, nên tầm vóc hoạt động còn hạn chế; Phật giáo là cội cổ thụ Bồ Đề, cần một không gian thoáng đạt và gốc rễ tự bám sâu vào lòng đất mẹ, có như thế mới phủ mát cho xã hội; ngược lại xem Phật giáo là loại bonsai làm đẹp hoa kiểng, tự thân nó bị tiêu hao sinh lực, chẳng những không thành công của loại cây kiểng vì bị sâu mọt đục khoét, mà còn chướng ngại, vướng bận cho cảnh trí chung quanh.

Tinh Thần vô ngã: Trên thế giới không thiếu những vị lãnh đạo đất nước tài ba, sau chiến tranh , một thời gian ngắn đã đưa đất nước từ kiệt quệ lên hàng phát triển quốc tế mà mọi quyền lợi của người dân vẫn không bị hạn chế. Sau hai quả bom nguyên tử tàn phá Hiroshima và Nagasaki, trong vòng 30 năm, các nhà lãnh đạo Nhật và Minh Trị Thiên Hoàng đã đưa nước Nhật đứng hàng thứ nhì trong các các quốc gia phát triển. Sau thế chiến thứ hai và sau cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa kỳ, không những đất nước cờ hoa giải phóng được chế độ nô lệ mà còn là đất nước tuyên dương dân chủ qua bản tuyên ngôn nhân quyền. Suốt thế kỷ 17 – 18, Mỹ luôn trong tình trạng tranh chấp chiến tranh, thế mà, một đất nước non trẻ thoát thai từ Anh, không lâu sau đó, nền dân chủ làm cơ sở cho sự phát triển vượt bực, dẫn đầu thế giới về nhiều mặt tiến bộ, nhất là khoa học kỷ thuật.

Tuy nhiên, tùy tình hình địa lý và thời cuộc mà giới lãnh đạo một số quốc gia đã giữ vững độc lập, tuy không phát triển nhiều. Và dĩ nhiên cũng có những lãnh đạo yếu kém trong một giai đoạn của một quốc gia nào đó. Riêng những nước chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Phật giáo, đã có một thời sản sanh ra những minh quân biết áp dụng đạo Phật vào pháp trị, vừa chấn hưng Phật giáo, vừa thạnh trị quốc gia. Một Asoka đại đế của Ấn Độ, một Trần Nhân Tông và các đời vua Lý Trần tại Việt Nam. Người ta tự hỏi lý do nào những quốc gia chịu ảnh hưởng Phật giáo có những nét đặc thù về sự đoàn kết, tính tự chủ, tinh thần độc lập và lòng ái quốc?

Một Thái tử Si Đạt Đa từ khước vương vị để truy cầu chân lý cho nhân sinh thì cũng đã có một Trần Nhân Tông Việt Nam nhường ngôi vua cho con để làm nhà sư hạnh đầu đà, vừa phát triển Phật giáo vừa mở mang bờ cỏi và bảo vệ tổ quốc
Thế thì cũng không lạ một Lý Công Uẩn, xuất thân từ nhà chùa, áp dụng Phật giáo vào quản trị đất nước để đoàn kết toàn dân. Một vị vua không tham cầu vương vị, không hưởng thụ vật dục, xem phú quý vinh hoa như cỏ rác, biết hy sinh cho dân cho nước thì lòng dân nào không hậu thuẩn cho vua? Mọi người dân được tôn quý và quyền lợi không bị xâm phạm, xem tình tự dân tộc như ruột thịt một nhà, không sở hữu những báu vật bất chánh, không làm giàu trên xương máu kẻ khác vì hiểu rõ luật Nhân quả công bằng. Đượm nhuần tinh thần Vô Ngã vị tha của đạo Phật thì xã hội bấy giờ không lượm của rơi, nhà không đóng cửa…Từ vua quan đến thảo dân đều hiểu đời là giả tạm. Quyền lợi tập thể, quyền lợi quốc gia là quyền lợi chung cho mọi cá nhân, họ sẳn sàng xả kỷ hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Một tinh thần tập thể vô ngã như thế, Phật giáo cung ứng cho xã hội những Bồ tát hạnh và sản sanh cho đất nước những minh vương như Lý công Uẩn, mở đầu cho những thời đại thạnh trị cho đất nước là chuyện dễ hiểu.

Lịch sử đã nói nhiều đến những chiến công hiển hách của dân tộc chống ngoại xâm. Phạt Tống bình Chiêm; Quân Mông cổ từng làm cỏ những đất nước vó ngựa đi qua, quân Nguyên và những triều đại ấp ủ tham vọng lấn chiếm phương Nam đều bị các triều đại Lý Trần cho chui vào ống đồng thoát thân hoặc phơi thây nơi trận địa; thế nhưng, cũng với tinh thần dĩ hòa vi quý của Đạo Phật, sau khi đánh bại quân xâm lược, vua quan nước ta vẫn triều cống ngoại giao để vững an bờ cỏi. Tuy triều cống, nhưng cha ông ta chưa hề để mất một tấc đất. Lê Thánh Tôn ( 1460-1497), vị anh quân tài giỏi của Đại Việt vào cuối thế kỷ 15 đã dạy ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của đất nước ‘

Tuy hậu Lê như Thánh Tôn ưu đãi Nho gia, lập thể chế phong kiến giúp cho xã tắc có nề nếp quy củ, nhưng tinh thần Phật giáo đã ngấm vào xương tủy suốt nhiều thế kỷ trước đó trong mọi tầng lớp, vì thế, lòng ái quốc và đức hy sinh cho đại cuộc luôn nuôi dưỡng dân tộc; Đến ngày nay sau hơn 20 thế kỷ, tinh thần theo giáo lý Vô Thường- giả tạm- nhân quả- vị tha vẫn bàng bạc trong dân ta. Ai đó có thể không bao giờ đi chùa, chưa bao giờ biết đến giáo lý nhà Phật, nhưng vẫn có thể nói: kiếp trước vụng tu, nhân nào quả đó, oan gia nghiệp báo…Chính vì thế, lòng vị tha, thương người cứu vật sẵn có trong mọi người, biến dân tộc thành một đất nước hiếu hòa độ lượng.

Nếu chỉ có Nho giáo thì xã hội đưa vào giai cấp phong kiến bị trị bởi tinh thần Tam cương ngũ thường, Tam tùng tứ đức. Xã hội bị ràng buộc trong một khuôn khổ cố định, chỉ biết chấp hành; Đạo gia chỉ thích hợp với tầng số tâm linh vô vi siêu nhiên, xem như thụ động trong một xã hội hoạt náo.Nho giáo và Đạo gia là hai thể trạng Nhân giáo và Tiên giáo, khó mà dung hòa hai trong một; Phật giáo mang đủ tính chất nhân thừa thiên thừa, ngay cả Phật thừa, có thể dung dị những cá biệt trong cuộc sống một cách linh động hài hòa. Tinh thần hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn đã giúp hành giả thỏng tay vào chợ, lăn xả hy sinh mà không cần lợi dưỡng, không sợ nhiễm ô. Đó là một trong 10 điều tâm niệm của nhà Phật: Thi ân bất cầu báo.
Tinh thần cộng đồng và tính dân chủ có rất sớm trong giáo đoàn thời Phật còn hiện tiền, để bảo tồn tính cộng đồng mà Phật dạy Lục hòa; để giải quyết phạm quy trong đoàn thể tu sĩ, Phật dạy Yết ma, tôn trọng ý kiến tập thể. Những sinh hoạt như thế nói lên tính vô ngã vị tha, không xây dựng và hành sự trên nền tảng cá nhân mà là tập thể cộng đồng, đó là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách của xã hội dân chủ ngày nay!
Ngay cả cách bố thí Ba la Mật cũng nói lên tính vố chấp, không thấy có người bố thí và kẻ được bố thí. Những tinh thần vô ngã vị tha như thế, Phật giáo đã giúp cho Lý Trần xuyên suốt 4 thế kỷ hiên ngang trước họa xâm, hy sinh cá nhân và đoàn kết tương trợ trong xã hội. Một đất nước mạnh không phải có nhiều vũ khí tối tân hay kinh tế dồi dào, mà là lòng dân được thống nhất một khối. Hội nghị Dziên Hồng đã minh chứng châu chấu đá xe!

Xuất thân từ nhà chùa, Lý Công Uẩn đã học được tính dân chủ và tinh thần tự giác, giác tha. Sinh khí nhà Phật đã phủ trùm trong cung viện đến xã tắc thứ dân; Xây dựng tinh thần Phật giáo bàng bạc trong dân chúng là đã xây dựng được bức tường thành vững chắc cho một chế độ lẫn chế ngự gót chân xâm lược từ mọi phía. Tinh thần Phật giáo nghiễm nhiên là chính sách thân dân, chính vì thế trong cơ quan, công ty xí nghiệp, trong quân ngũ, những Phật tử chân chánh luôn tạo được sự tôn kính với đồng nghiệp, niềm tin với kẻ trên và thân thiện với người dưới.

Một đất nước giàu sang vì kinh tế, vững mạnh phải là lòng dân. Lý Thái Tổ không dùng uy quyền để xây dựng thể chế, không dùng bạo lực để giáo dục nhân sinh. Cả Lý lẫn Trần đều lấy Đạo Phật làm nền tảng cho đất nước vững mạnh về ngoại giao, phồn vinh trong kinh tế và tình thương đối với muôn dân như giảm thuế. Nhà Lý mở đầu cho kế sách chiến lược xây dựng tổ quốc bằng tâm linh để những thế kỷ sau đó phát triển vững mạnh, từng làm cho kẻ nuôi mộng bá quyền phải kiêng dè trước tinh thần uy vũ bất năng khuất của một dân tộc. Đồng thời, Lý Thái Tổ đã củng cố kỷ cương quốc pháp mà thời gian dài tao loạn đã không còn tồn tại .

Lý Thái Tổ và các vua đời Trần đã biết kích thích cho cây Bồ Đề phát triển và phủ bóng tự nhiên trong lòng dân tộc. Tuy nhiên, nếu dùng đạo Phật như một khí cụ mưu đồ chính trị, tự thân Phật giáo bị tàn lụn mà ngay cả thế lực lạm dụng Phật giáo cũng bị một kết quả tương phản bởi ý đồ thiếu trong sáng và thiếu tôn kính. Tuy sách sử chỉ nêu việc xây chùa đúc chuông tạo tượng của Lý Thái Tổ mà Nho gia từng phê phán, đố kỵ, nhưng không nói rõ sự phát triển của đạo Phật thời bấy giờ về mặt tâm linh, sở chứng như thế nào. Nhưng chắc chắn Phật giáo đương thời không thể thiếu vắng nội lực mà có thể làm linh hồn cho một dân tộc. Bằng chứng một Vạn Hạnh, một Lý Khánh Vân, một khuông Việt…đủ nói lên khả năng tâm linh của cộng đồng tu sĩ lúc bấy giờ để Phật giáo cắm sâu vào xã hội quần sanh, vực một đất nước thoát khỏi nội loạn ngoại xâm mà giặc Phương Bắc phải xem tổ quốc Việt Nam ngang hàng với đế vương Hán tộc.

Lý Thái Tổ không chỉ có óc chiến lược về địa hình khi dời đô về Đại La, (Thăng Long nằm giữa sông Nhĩ Hà và Tô Lịch, có cả Kim Ngưu, sông Nhuệ và sông Cà Lồ, Nhất là sông Hồng đã đem phù sa bồi đắp cho ruộng đồng màu mỡ và nới rộng vùng châu thổ); mà còn mưu lược về chính trị khi lấy Phật giáo làm sinh lực cho dân tộc. Người ta không còn lạ gì khi đặt câu hỏi: Tại sao Phật giáo thịnh, dân tộc thịnh, Phật giáo suy thì tổ quốc nguy!!!
Hãy tạo điều kiện cho cây Bồ đề phát triển tự nhiên, đừng biến cây Bồ đề theo dạng bonsai một cách vô ích. Lý Thái tổ nói riêng và các vua chúa LÝ Trần nói chung đã làm được việc đó, một bài học lịch sử cho dân tộc mãi mãi về sau.


MINH MẪN

23/6/2010

(1) nhân vật lịch sử VN trang 471

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2010

CƠ SỞ AM TỰ VIỆN PHẬT GIÁO


Những thập niên 60 về trước, khi nhà Ngô chưa gây khó khăn cho Phật Giáo, Tu sĩ Phật giáo chưa bị xã hội hóa, lúc bấy giờ sinh hoạt Già Lam được bao bọc bởi Thiền môn quy củ, các cơ sở am tự viện là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh truyền thống, một nét đẹp văn hóa nuôi dưỡng mầm sống dân tộc mà quá khứ đã chứng minh tiềm năng hộ quốc an dân của một tôn giáo như Đạo Phật .

Cho dù không được tinh tuyền như thời Lý Trần, những năm tháng Bắc thuộc và Pháp thuộc, Phật giáo phía Bắc và Trung bộ vẫn còn giữ được nét chuyên chính của một tôn giáo hướng nội, chuyên tu; Không thủ chứng sở đắc rộng rãi thì kiến thức Phật học và giới đức vẫn được duy trì cơ bản trong hàng tu sĩ tập sự cũng như Tăng sĩ hành hóa. Những phong cách đó, tạo một ấn tượng đẹp cho quần chúng và là niềm hãnh diện cho tín đồ. Tuy không duy trì tam y nhất bát như thuở Phật sinh tiền, tu sĩ vẫn không sở hữu một tài sản vật chất giá trị nào để làm vướng bận con đường mà hành giả đã chọn để thoát ly sanh tử. Lúc bấy giờ am tự viện được xem là chùa làng, của công, hoặc ít nữa là của hội, do quần chúng thành lập và bảo trợ để chư Tăng an trú tu tập và hành đạo.

Một thời quá khứ của Phật giáo Việt Nam cũng như Phật giáo Nam truyền của các quốc châu Á, chùa là cơ sở sinh hoạt văn hóa cho thôn làng, nơi giải trí, học tập cho quần chúng mỗi khi lễ hội diễn ra, đồng thời tu sĩ là một chuyên gia tâm lý giải tỏa những phiền não trong cuộc sống của quần chúng. Khi đất nước bị ngoại thuộc, chư Tăng rút sâu vào trong phạm vi tôn giáo thuần túy, dần dà cách ly mọi sinh hoạt xã hội, vì thế quần chúng cũng ít tiếp cận với Đạo Phật, sự hiểu biết về Phật giáo ngày càng vơi dần. Một số chùa có ruộng đất cũng tự lập kinh tế. Chư Tăng đã bị chi phối trong kế sinh nhai, thời giờ cho việc tu tập cũng giới hạn.

Sau 1966, Phật giáo chính thức nhập cuộc với sinh hoạt xã hội và sinh hoạt chính trị khi đất nước chìm trong chiến tranh, các am tự viện và cơ sở vật chất trở thành sở hữu riêng của chư Tăng mà đứng đầu là vị trụ trì. Phía Bắc từ 1954, Phật giáo đã không còn tập thể tu sĩ trong các già lam, tu viện. các chùa do địa phương quản lý, biến thành kho lẫm của Hợp tác xã nông nghiệp hoặc trưng dụng cho những công ích khác. Phía Nam trung bộ, một số chùa tuy của công, nhưng vẫn được tu sĩ sinh hoạt bình thường, quần chúng có bổn phận giám sát tu bổ, hỗ trợ kinh tế, giúp đỡ một số mặt xã hội như giao tế, từ thiện xã hội…

Cơ sở vật chất: Vào thời Phật giáo cực thịnh, được xem là quốc giáo, vua chúa và quan chức thường tạo lập tự viện, cung thỉnh chư Tăng tọa trú. Trong cung viện, cao Tăng làm quốc sư, xây dựng Tam bảo tại Hoàng cung để vua quan tiện bề tham vấn tu tập. Mỗi làng mạc thị trấn đều có đình chùa miếu mạo. Tinh thần Tam giáo dung thông tạo một tiềm lực cho dân tộc và sinh lực tâm linh cho quần chúng, tuy nhiên, Phật giáo vẫn là chủ đạo sinh động làm cho quốc gia cực thịnh, đến khi các Nho gia chiếm vị thế ưu đãi chính trị, Phật giáo lui vào thế giới tĩnh lặng chuyên tu. Thế kỷ thứ 16, Kyto giáo thâm nhập vào đất nước qua bước chân xâm lược của Pháp, tôn giáo nầy suốt nhiều thế kỷ vẫn bị co cụm vì quần chúng chưa sẵn sàng tiếp nhận, do giáo lý và tín điều đi ngược lại tập quán truyền thống của dân tộc, một phần bị vua chúa ngăn cấm khi bắt được những văn bản và bản đồ tình báo của các cố đạo cung cấp cho Pháp và Vatican. Tuy nhiên, Vatican rút kinh nghiệm những khó khăn do không thích ứng với tập quán của những quốc gia Châu Á, công đồng Vaticano II đã tháo gỡ rào cản của những tín điều vô lý, đồng thời Pháp đã thiết lập được các vua chúa Lãnh đạo xuất xứ từ Kito hoặc thân thiện với Kito, đã nâng đỡ Giáo Hội Kito giáo Việt Nam dần thoát khỏi những trì trệ. Khi luồng gió lạ từ tôn giáo mới thâm nhập, xã hội tiếp cận những sinh hoạt thông thoáng của tư tưởng phương Tây mà quân đội viễn chinh Pháp đem đến, quần chúng thị thành và lớp trẻ tiến bộ đón nhận nhanh loại văn minh tiến bộ của khoa học vật chất mà từ lâu thế giới tâm linh không cung ứng kịp thời; Tam giáo bắt đầu chựng lại và chỉ duy trì trong các làng mạc, quần chúng thành thị xa dần tín ngưỡng truyền thống khi ngả hẳn sang xu thế tiện nghi vật chất, lúc bấy giờ, suốt nhiều thế kỷ, Phật giáo chỉ là chiếc bóng mờ giữa lòng dân tộc. Đến khi tinh thần quật cường của các nhà ái quốc muốn khôi phục chủ quyền đất nước, Phật giáo được các chí sĩ chọn làm sinh lực cho phong trào như Cần Vương, các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Đông A…và một số nhân sĩ trí thức cổ súy chấn hưng Phật giáo; Các tờ báo ra đời như Đuốc Tuệ, Từ Quang, Từ Bi Âm…dùng mẫu tự La tinh để phổ biến giáo lý vào mọi tầng lớp. Thập niên 1930 cũng từ đó các Thiền môn Tăng lữ chấp nhận lối giáo dục mới, văn tự mới để tiếp nhận và truyền bá giáo lý Đạo Phật.

Các tỉnh miền trung Nam bộ và phía Bắc, Phật giáo chấn hưng có hiệu quả. Song song việc cung ứng kiến thức cập nhật cho Tăng Tín đồ, Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, ĐĐ Minh Châu và một số vị đã thành lập đội ngũ Thanh niên nam nữ cư sĩ, một tập thể gọi là Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân Gia Đình Phật Tử Việt Nam hiện nay, đi vào sinh hoạt có tổ chức, có kỷ luật vừa tiếp thu kiến thức Phật học, vừa rèn luyện nhân cách, vừa học tập thích ứng với môi trường sống, một mẫu tín đồ đạo đức và hữu dụng.qua bao biến thiên của xã hội, ngày nay vẫn còn hình bóng sinh hoạt các đơn vị thanh thiếu niên như thế, cả trong và ngoài nước!

Sau khi đất nước chia đôi từ vĩ tuyến 17, phía Bắc theo Chủ Nghĩa Xã Hội, mọi sinh hoạt trong xã hội đều nằm trong sự quản lý của Mặt trận, kể cả tôn giáo, có bổn phận đóng góp, phát huy XHCN và theo định hướng CNXH. Và mục đích thống nhất hai miền, các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng phải lột xác để cùng nhà nước thực hiện ước mơ giải phóng. Phía Nam, các cao Tăng thạc đức cố gắng phục hoạt chấn hưng Phật giáo từ hạ tầng, phong trào chấn hưng từ thập niên 1930 đã gây tiếng vang và kết quả khả quan, đào tạo những Tăng sĩ có năng lực và có kiến thức, chính vì thế mà quần chúng được củng cố đức tin và sinh hoạt từ khuôn, vức trở lên Tỉnh Thành hội khá ổn định. Nhờ hiệu quả đó mà Phật giáo đương đầu với bạo quyền nhà Ngô để bảo vệ Đạo Phật trước ý đồ kito hóa dân tộc, một cách có hiệu quả.

Sau 1981, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thành hình, các tổ chức giáo hội riêng lẻ trước đây giải thể, một tổ chức Phật giáo duy nhất và quyền hạn của vị trụ trì mỗi am tự viện cũng thể hiện rõ nét được sự hỗ trợ pháp lý của chế độ hộ khẩu, chuyển hệ thống sinh hoạt truyền thống thiền môn, già lam , tự viện sang một nét mới. Ban hộ tự, ban bảo trợ, ban quản trị không còn quyền hạn như trước, biến thành thừa sai của vị trụ trì, nghĩa là mỗi cơ sở thờ tự của Phật giáo biến thành tài sản riêng tư của vị tọa chủ đương nhiệm. Chế độ hộ khẩu đã hợp thức hóa quyền hạn của vị trụ trì; những Tăng chúng không được lòng trụ trì thì khó mà xin nhập hộ. Lúc bấy giờ tu sĩ một cổ hai tròng, vừa gặp khó khăn về hành chánh chuyển khẩu, vừa qua ải của vị trụ trì. Vì thế, đa số Tăng ni sinh các tỉnh về Thành phố tu học phải ở tư gia hoặc nhà trọ. Những cơ sở tự viện còn dính líu đến sở hữu của vị tiền nhiệm đã bỏ nước ra đi, tọa chủ đương kim bằng mọi cách hợp thức hóa quyền sử dụng đất và giấy bổ nhiệm trụ trì khi đã là chủ hộ, những môn đệ của vị tiền nhiệm không thể nhập hộ cho dù họ ở trước đó khá lâu, ngược lại những đồ đệ của vị đương nhiệm sẽ dễ dàng được nhập hộ với sự đồng ý và bảo lãnh của đương kiêm tọa chủ trụ trì. Đó là nội tình, ngoài ra các vị trụ trì chạy theo phong trào tái thiết xây dựng theo đồ án quy mô, cho dù cơ sở còn xử dụng vài mươi năm nữa. Có những chùa vừa xây dựng, nhưng không tương xứng với những chùa khác, lại đập bỏ! cứ như thế mà thi đùa xây chùa to Phật lớn tốn bạc tỷ trong khi quần chúng, trong đó có những Phật tử đói ăn thiếu chỗ ở! Và những chùa to Phật lớn như thế đôi khỉ nhất Tăng nhất tự, một sự hoang phí vô lý! Giáo hội tỏ ra bất lực trước việc phân bố cơ sở am tự viện. Rất nhiều nơi chùa sát vách, đâu mặt hoặc gần nhau không tới 100m, chính vì thế mà có nơi gọi là xóm chùa. Có lẽ Phật giáo là tôn giáo duy nhất có sự phân bố am tự viện không tương xứng với mật độ quần chúng tín đồ tại Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng tùy tiện như thế kèm theo thiếu mỹ quan đô thị;

Phần lớn quần chúng ngày càng xa cách với đạo Phật; Một người lạ hỏi thăm một ngôi chùa, biết là cách đó không xa lắm, thế mà người dân không biết, vì chẳng ai quan tâm. Một Việt Kiều hỏi thăm tượng đài Bồ Tát Thích Quảng Đức trên đường Cách Mạng Tháng Tám, cách một ngã tư mà người dân tại đó cũng không rõ; Điều đó chứng tỏ Phật giáo không được phổ cập, quần chúng không được gần gủi với nhà chùa, như thế chư Tăng và Ban Hoằng pháp đã làm được gì cho những nơi vùng sâu vùng cao? Việc giáo dục, đào tạo nhân sự đã bị xem nhẹ và làm việc kém hiệu quả thì tạo dựng chùa cao Phật lớn để làm gì nếu không là mục đích thu hút khách du lịch? Quần chúng Phật tử rất cần học hỏi giáo lý và hướng dẫn tu tập chứ không hãnh diện tôn giáo mình có nhiều chùa to Phật lớn. Có những chùa một năm tổ chức hai ba cuộc lễ huy động hàng ngàn tín đồ về tham dự để buôn bán băng đĩa kinh sách mà không mở những khóa tu học để họ hiểu đạo, không dám mời các giảng sư về giảng trong khi chính vị trụ trì đó cũng hiểu giáo lý một cách lệch lạc. Những trụ trì có năng lực, tổ chức các đạo tràng để hậu thuận cho danh vị, tự xem là giáo chủ một tông môn biệt lập, dĩ nhiên đi kèm theo là lợi nhuận đổ về từ những tín đồ nhẹ dạ, nhiệt thành…

Một khi cơ sở tôn giáo được xem là tư hữu của vị tọa chủ thì kéo theo nhiều động thái cậy quyền, xem nhẹ tín đồ, vì đó là cơ ngơi riêng chứ không phải trung tâm tu học của tôn giáo. Và có đôi khi, nơi thờ tự biến thành kinh doanh bất động sản vì quyền hạn và quyền lợi của một trụ trì đã được bảo chứng hợp pháp.

Quyền lực: Khi trụ trì nắm toàn bộ quyền lực về tài sản Tam bảo, biến thành cơ ngơi riêng; nếu là bậc chân tu thì lấy luật Đạo mà cư xử trên tinh thần công bằng và tương kính, nếu vị tọa chủ quên mình là một bậc xuất trần, cách cư xử sẽ nhuốm màu thế tục, kéo theo nhiều tính toán hoàn toàn thế tục mà đại chúng nội trú cũng như quần chúng Phật tử sẽ ngán ngẫm, xa lìa và cách ly. Có những vị tế nhị hơn, biết bao bọc bằng lớp sơn mỹ miều, có thể đánh lừa được một số quần chúng nhẹ dạ cả tin, nhưng rồi lúc nào đó cây kim trong bọc lâu ngày cũng cũng lộ ra!

Tình trạng sang nhượng mua bán chùa chiền hiện nay, trở thành thị trường bất động sản phổ biến. Dưới danh nghĩa chuyển nhượng lấy lại vốn để xây dựng nơi khác và giúp cho những vị có nhu cầu về cơ sở hành đạo; Vị thừa kế không những tốn kém để có một cơ sở thờ tự hợp pháp mà còn phải chi phí một khoản riêng để lo giấy “quyết định bổ cử trụ trì và làm lễ nhập tự”; hẳn nhiên mọi chi phí đều do quần chúng Phật tử cúng dường. Cũng có trường hợp một vị có quyền lực trong Ban Trị sự, có thể truất quyền trụ trì để bổ nhiệm vị khác nếu vị đó đủ khả năng đáp ứng trị giá ngôi chùa mà xét thấy có thể thu nhập khá về sau! Bằng biện pháp hành chánh và pháp chế, họ có thể làm được mọi thứ mà chỉ có những ai chân thật và cô thế mới bị thiệt thòi. Trụ trì có quyền của một trụ trì, Ban Trị sự hay Ban đại diện có quyền trong phạm vi chức năng của mình, đôi khi có sự câu kết để ảo thuật mọi vấn đề; Nhưng hạ tầng cơ sở vẫn là trụ trì. Một trụ trì chân chánh thì quần chúng ủng hộ, hậu thuẩn, những trụ trì thiếu trung thực, quần chúng không những tẩy chay mà ngay cả nội tự cũng không có đạo chúng, và hình như họ cũng không cần phải sống nhờ vào hậu thuẩn đó mà họ có những cách làm ăn khác như tổ chức hành hương hoặc những thương vụ mang tính thế tục;

Trong tổ chức Phật giáo Việt Nam hiện nay có quá nhiều kẽ hở và có quá nhiều biệt đãi cho những quan chức, chức sắc Phật giáo; họ nương tựa lẫn nhau để củng cố quyền lực và sẳn sàng gây khó trấn áp những ai không đứng về cùng phía với họ; Một Liên đoàn Thanh thiếu niên, hậu thân của câu lạc Bộ Hoằg Pháp trẻ, do ĐĐ T. Nhật Từ sáng lập, hoạt động được ba năm, gặp không it khó khăn, chỉ vi trâu cột ghét trâu ăn, người bất tài thường đố kỵ kẻ làm được việc.Một vài nhân sự trong văn phòng 2, bất tài cậy thế đã thao túng cả một guồng máy Giáo hội, cản trở Tăng ni trẻ có khả năng hoạt động xã hội. Họ chỉ biết thể hiện tính đố kỵ và quyền lực mà không thấy mối đe dọa ngày càng phát triển của ngoại giáo; chính vì thế, những bậc chân tu ngán ngẫm, rút lui về ẩn cư tĩnh lặng và những tài năng thường bị thui chột. Đây là những độc trùng phá hoại Phật giáo.

Cơ sở 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa tức thiền viện Quảng Đức đường Công Lý cũ, nay là văn phòng 2 TW GHPGVN. Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo cũng là một bộ phận của Giáo Hội, do Giáo Hội chỉ định tọa lập v/p tạp chí VHPG tại góc lầu một, thế mà cách cư xử đối với Tạp chí VHPG cứ như kẻ ăn nhờ ở đậu, thiếu tôn trọng và không lắng nghe nguyện vọng chính đáng của một bộ phần công tác văn hóa cho Phật giáo. Mỗi người có chức danh là có quyền hạn, cho dù quyền hạn trong phạm vi tôn giáo, cũng mang tính thế tục, tranh chấp, phe nhóm, đè ép lẫn nhau để củng cố hư vị của mình. Tuy đất nước thái bình, nhưng từ xã hội đến tôn giáo đều mang mầm móng loạn quyền. Thực trạng trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ngày nay còn nhiều vấn đề không đủ thì gian để nêu lên chỉnh đốn.

Đến bao giờ Phật giáo là một tổ chức nghiêm chỉnh và trong sáng, chuyên về tu học hơn nặng về hư danh, để làm điểm tựa và niềm tin cho quần chúng! Phật giáo mạnh thì đất nước mạnh. Phật giáo mạnh không phải cơ sở vật chất phát triển nhiều hay quyền lực tu sĩ mạnh, mà nội lực chuyên tu phát triển , trí tuệ trong sáng và uy tín được quần chúng chấp nhận. Đòi hỏi tu sĩ có giới đức tinh ngiêm, thân giáo và khẩu giáo song hành, đó là cơ sở phát triển của Phật giáo xưa nay.

MINH MẪN
22/6/2010

Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2010

KHÓA TU MÙA HÈ CHÙA HOẰNG PHÁP – HỐC MÔN


Khóa tu mùa Hè dành cho Thanh thiếu niên tuổi từ 13 đến 25, lần thứ 6 tại chùa Hoằng Pháp, Hốc môn, chưa đến ngày chính thức nhận đăng ký mà đã phải khóa sổ, vì quá tải!

Trước một tuần đã có lắm em đến không phải để đăng ký nữa, vì số đăng ký khóa một đã chấm dứt từ lâu, khóa hai cách khóa một một tuần, sau tết cũng đã hết chỗ; Thời gian quy định đăng ký là 20/5/2010, nhưng mới vào đầu năm đã vượt con số 3.000 em. Bốn gia đình thuê xe 16 chỗ, đưa con từ phía Bắc vào xin được đăng ký, văn phòng đưa ra danh sách dư thừa sau hai khóa trên 1700 em. Số nầy sẽ được ưu tiên cho khóa tu lần thứ bảy vào năm 2011. Dự định hai khóa thu nhận 6.000 em, mỗi khóa 3.000; nhưng một số em ở các tỉnh xa xôi cố năn nỉ chùa, không muốn ôm thất vọng trở về, ban tổ chức một lần nữa lại bị động trước số lượng và lòng nhiệt thành của các em quá mức dự liệu, vì thế có thể tăng mỗi khóa thêm 500 em nữa.

Thầy Trụ trì tâm sự: muốn khóa tu thu đạt kết quả tốt, chùa không dám nhận nhiều, sợ lo không xuể. Năm đầu tiên 2005 có 300 em, qua năm thứ hai tăng 700, năm thứ ba 1.600, khóa thứ tư 3.000; năm vừa rồi 6.000 hơn, và năm nay trên 7.000. Nếu chùa nhận thoải mái có thể trên 10.000 em sẳn sàng tham dự. Như vậy cứ mỗi năm số lượng khóa sinh đều tăng gấp đôi. Điều nầy nói lên sự uy tín của chùa Hoằng Pháp và kết quả đạt được qua một tuần tu tập của tuổi trẻ; Anh Thành, phụ huynh của em Luân bộc lộ:Tuy chúng tôi ở mãi miền Trung, phải mang cháu vào xin chùa giáo dục, vì cháu có nhiều tật xấu như ích kỷ, tham lam, trây lười; năm vừa rồi sau khi tham dự khóa tu, cháu về thay đổi rất nhiều; Roi vọt không thay đổi được cháu mà quý thầy đã giúp cháu nên người, chúng tôi cũng như những gia đình có con em tham dự khóa tu đều biết ơn nhà chùa rất nhiều.

Hỏi đến chi phí cho mỗi khóa tu như thế, không ai đủ khả năng trả lời chính xác. Tính trung bình mỗi cháu ăn một ngày 20.000đ ( giá tối thiểu) x 3.500 em sẽ = 70.000.000đ và số lượng Phật tử công quả cho riêng khóa tu cũng trên dưới 100 vị. Nếu mỗi ngày trên dưới 100 triệu thì một tuần hết 700 triệu. hai khóa gần một tỷ rưỡi. Tính toán theo kinh tế, sau hai tuần lễ tốn một tỷ rưỡi để được 7.000 em nên người, vẫn rẻ hơn nuôi lớn một người con ngoài 20 tuổi chưa chắc đã hiền thiện!

Các trại hè khắp nơi tổ chức thiên về giải trí, giao lưu, thi vấn đáp giáo lý, kết quả sau khi về lại, cũng chỉ tồn đọng một ít kỷ niệm và tình cảm với nhà chùa mà không chuyển hóa được nhiều về nội tâm như một khóa tu, mà chi phí cũng tốn kém không ít.

Tuổi trẻ sống theo tập quán xã hội, ăn nói đi đứng tự do nghinh ngang, thế mà chịu tự nguyện ghép vào khuôn khổ tu tập suốt một tuần trong chùa kể cũng lạ! Một trong những quy định của khóa tu, khóa sinh không được xử dụng Điện thoại di động, không hút thuốc, áo quần nghiêm túc kín đáo, không nhuộm tóc, đi đứng ăn nói nhỏ nhẹ, không ra khỏi chùa…

Có những em háo hức được tham gia thì cũng không ít em, tới giờ phút chót lại bị giao động, nhớ nhà, xin trở về. Quý thầy phải tiếp xúc từng em, lắng nghe và giải bày khuyên nhủ; Quý thầy tại chùa Hoằng Pháp đã qua những lớp tâm lý giáo dục chăng, khi mà ánh mắt, nụ cười và cách tiếp chuyện với thanh thiếu niên cứ như bạn bè trang lứa, tạo cho các em không có cảm giác cách biệt. Ngay cả những vị công quả, tập sự, đẩy xe thức ăn ra mời khách có mặt trong sân chùa, hoặc thức ăn dư, đem ra cho quần chúng trong xóm, cũng nói năng rất ư từ tốn dịu dàng. Phải nói hiện nay, chùa Hoằng Pháp đã tạo được niềm tin và duy trì niềm tin cho quần chúng khá thành công, trong khi đó, một số nơi cũng từng nổi tiếng vài năm rồi lại tai tiếng không ít bởi việc hành xử không chân chính.

Hy vọng mỗi tỉnh thành sẽ có những khóa tu như vậy để quần chúng khỏi phải đi lại quá tốn kém, mất thời gian, đồng thời, chùa Hoằng Pháp giảm bớt áp lực vì luôn bị động trước lòng nhiệt thành của các em và các phụ huynh.

Những khóa hè hữu ích như thế đã biểu hiện sự thích nghi với xã hội mà Phật giáo Việt Nam đang chuyển hướng đóng góp trên nhiều mặt: Từ Thiện, văn hóa, giáo dục, xã hội… đó là khả năng và tiềm lực của các tu sĩ trẻ đã và đang thể hiện ngày một linh hoạt hơn.Một lối thoát mới cho các tu sĩ trẻ tài năng và sự chuyển mình cho một tổ chức Phật giáo trong thời đại hội nhập.

MINH MẪN
20/6/2010

Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2010

HỘI TRẠI LÝ CÔNG UẨN


Sáng mồng 3 tháng 6 năm 2010, trại hè Lý Công Uẩn được tổ chức tại Đại Nam Lạc Cảnh, Bình Dương, do liên đoànThanh Thiếu Niên Phật Giáo Việt Nam kết hợp với Giáo hội, được sự hỗ trợ từ các mạnh thường quân.

Đây là hội trại hè lần thứ ba được tổ chức bởi Câu Lạc Bộ Hoằng Pháp trẻ (tiền thân của Liên đoàn Thanh Thiếu Niên Phật Giáo Việt Nam) mà ĐĐ Nhật Từ từng khởi xướng. Trại hè lần nầy lượng số tham dự viên lên đến ba ngàn người, gấp đôi số trại viên năm đầu tiên tổ chức. Với sự tham dự của 23 tỉnh thành trong cả nước. Có tất cả 47 đơn vị; TP Hồ Chí Minh có 7 đơn vị tham gia, Đồng Tháp có 6 đơn vị, trong khi Bình Dương địa bàn chủ nhà chỉ có mặt một đơn vị, Tiền Giang 5 đơn vị, Vĩnh Long 4 đơn vị, các tỉnh thành còn lại từ một đến ba đơn vị.
Trại sinh năm nay gồm hai phân ban: - phân ban La Hầu La gồm các em Thanh Thiếu Niên tuổi từ 12 đến 25, có 2.200 trại viên. Phân ban A Nan gồm các đạo tràng tu học Bát Quan Trai và phụ huynh các em trại viên, được 990 vị có mặt. chủ đề trại được mang tên Chắp Cánh Ước Mơ.
Nội dung sinh hoạt trại, nhằm khích lệ tinh thần yêu nước và phụng sự Đạo trong giới trẻ noi theo gương đức vua Lý Thái Tổ, một vị vua anh minh của dân tộc, từng đánh thắng quân Phương Bắc, xây dựng và phát triển đất nước, đem lại hòa bình cho dân tộc trong nhiều thế kỷ sau đó. Các bộ môn sinh hoạt trại “giúp các em rèn luyện nhân cách, giao lưu văn hóa, trao đổi kỷ năng sống, trải nghiệm đời sống đạo đức tâm linh, góp phần xây dựng một môi trường xanh, không có thói quen tiêu cực, từ bỏ thuốc lá hướng đến lối sống lành mạnh, biết hiếu thảo, làm lợi mình lợi người…”

Khác với khóa tu mùa hè của chùa Hoằng Pháp từng trên 6 ngàn em đăng ký tham gia, chương trình chuyên về tu tập mà không có các tiết về giải trí, kỷ năng sống; bù lại trại sinh chùa Hoằng Pháp được quý thầy cô diễn giảng thường xuyên về đời sống thực tế, phương hướng hội nhập, ngưỡng cửa vào đời và đạo đức cá nhân…Một số trại hè các nơi do quý thầy tổ chức cũng xen lẫn văn nghệ, vui chơi và tu tập. Riêng hội trại Lý Công Uẩn, trại sinh còn được tư vấn cho mùa thi. Viết về kiế thức Phật giáo…

Những năm gần đây, các trại hè cho thanh thiếu niên rộ nở, góp phần xây dựng đạo đức, kiến thức Phật học và định hướng tương lai cho giới trẻ, một việc làm rất thiết thực.
Hội trại Lý Công Uẩn cũng không ngoài mục đích đó, tuy nhiên, trại viên chưa thỏa mãn một sân chơi với thời gian quá ngắn như vậy. Đại Nam là một quần thể với nhiều kiến trúc kim cổ, mặt bằng đủ đáp ứng cho hàng ngàn trại sinh, nhưng, thầy Phước Huệ cho biết – chi phí mỗi ngày một trăm triệu, làm sao dám kéo dài một tuần! Tổng chi phí cho hội trại là tám trăm triệu, chưa nói mặt bằng, điện nước, vé vào cổng phương tiện đi lại trong khuôn viên do Đại Nam hỗ trợ. Được 6 đơn vị tài trợ: Hội Khai Tâm tài trợ túi xách; công ty áo mưa ủng hộ 1.000 áo thun, ĐĐ Chỉnh Tuệ hiến 10.000.000đ, nhóm Phật tử Diệu Quang 5 triệu; Đạo tràng Pháp Hoa cho ba buổi ăn sáng và cty in Hùng Khang ủng hộ 3.000 quyển “nhật ký của mẹ”
150 em tình nguyện viên đến từ 10 trường đại học trong Thành phố; các em vừa nhiệt tình, nhạy bén có kiến thức, có tâm đạo nên giúp ban tổ chức khá hiệu quả. Các Tăng ni sinh trẻ cũng tỏ ra linh hoạt, hòa nhập và năng nỗ;

Hội trại có sáng kiến lập kỷ lục thiết kế cây Bồ Đề cao 5m với ba ngàn chiếc lá ký tên cầu nguyện Hòa bình, và một đại kỳ Phật giáo bề ngang 14m, dài 26m có hàng trăm chữ ký lưu niệm lên giáo kỳ. Đêm đầu tiên đốt lửa trại, thi văn nghệ thì đêm thứ hai thắp nến dọc lối đi giữa các trại và thả hoa đăng. Trại viên cũng được giảng sư nổi tiếng Thích Trí Chơn nói chuyện với chủ đề Tin và Hiểu.
Hội trại Lý Công Uẩn có sự hiện diện của chư tôn Đức chức sắc TW cũng như Thành hội và một số tỉnh thành quang lâm. Đặc biệt có ông Bùi Hữu Dược, vụ trưởng vụ Phật giáo thuộc Ban Tôn Giáo chính phủ, ông Võ Hoàng Cương, phó chủ tịch UBMTTQ tỉnh Đồng Tháp cùng tham dự.
Năm nay, Phật giáo có nhiểu lễ hội ngoài các chẩn đàn bạt độ. Tuần Văn Hóa Phật giáo tại Thừa Thiên Huế; đại hội Hoằng Pháp tại Kiên Giang, các trại hè trong nước đang và sắp tổ chức, riêng hội trại Lý Công Uẩn có một tầm vóc khá quy mô với sự chung tay của các BTS trong cả nước.

Hội trại là nét văn hóa hướng tuổi trẻ đến tương lai, tuy sinh hoạt và tổ chức không nằm trong Hiến chương như GĐPTVN, nhưng nét sinh hoạt nổi cộm đó, đã quy tụ phần lớn tuổi trẻ hướng về Phật pháp; Các em hy vọng sẽ tiếp tục cho mùa hè năm sau để được tận hưởng sinh khí vui tươi thoải mái sau một năm học vất vả. Ban tổ chức tuy mệt nhọc, nhưng quý Tăng ni trẻ vẫn hiện nét hoan hỷ giữa giòng sống cuồng nhiệt của tuổi thơ.

Trại hè không chỉ giúp cho giới trẻ có sân chơi lành mạnh và đi vào nề nếp đạo đức, góp phần cho cha mẹ bớt nổi lo cám dỗ rình rập thường xuyên trong cuộc sống, mà còn là dịp để Tăng ni trẻ thể hiện tài năng tháo vác trong vai tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và hòa nhập, đó là lối thoát cho tất cả hiện nay. Hy vọng các tỉnh thành đều có những trại hè bổ ích để quần chúng biết rằng Phật giáo luôn có mặt và có mặt thiết thực lợi ích cho xã hội.

MINH MẪN
04/6/2010