Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

sư Sonam Tiệp khắc







VIỆT NAM – TƯƠNG LAI MỘT ĐẠO PHẬT ?


VIỆT NAM – TƯƠNG LAI MỘT ĐẠO PHẬT ?

Lạt Ma SONAM LUNDRUP, một tu sĩ người Tiệp, thuộc giòng truyền thừa Gelug Tây Tạng. Dòng nầy đã hiện diện sau khi sơ tổ Tsongkhapa qua đời vào thế kỷ XIV. Gelug có nghĩa là Hạnh Đức, biểu tượng mũ vàng gọi là Hoàng mão. Do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 lãnh đạo. Theo giáo sử tông môn, Linie Gelug khởi đầu từ Đức Thích Ca Mâu Ni truyền cho Đức Đại Thế Chí và Bồ Tát Di Lạc, cùng nhiều vị Bồ Tát khác, trong đó có Ngài Atisha. Bồ Tát Atisha truyền bá Phật giáo vào Tây Tạng vào thế kỷ thứ X. Từ đó, Tây Tạng xuất hiện nhiều bậc Bồ Tát nổi tiếng như Tsongkhapa vào thế kỷ 14-15.

Ngài Sonam là đệ tử của một hóa thân Rinpoche hiện ngụ tại Cộng Hòa Sec. Đồng thời Ngài là sáng lập viên chùa Rabten Choedarling, tại Kubelikova 86, 460 07 Liberec IX, Janov Dui.

Trước đây, thầy của Ngài trong lúc thiền định, một linh ảnh xuất hiện cho biết tại Việt Nam đang có nhục thân của một vị Phật; tương lai Việt Nam sẽ là quốc gia đứng đầu Phật giáo thế giới. Hai vị sư được cử sang Việt Nam trước đây, vừa tìm nhục thân của Phật, vừa tìm người kế thừa dòng tộc Gelug để phát triển tại Việt Nam, nhưng các vị tiền trạm đã không thành công.

Trong chuyến công du với sứ mạng như trên, ngài qua Việt Nam cùng một gia đình Phật tử Việt kiều đang sinh sống tại Tiệp. Vợ chồng anh Hoàng chị Nguyệt là một Việt kiều Phật tử, đang sinh sống tại Cộng hòa Séc, có người anh cũng là một Tăng sĩ trụ trì một tự viện Bà Rịa- Vũng Tàu. Do duyên lành đưa đẩy, sư Giác Lộc, anh của vợ chồng chị Hoàng, cùng với anh Cường tại TP Hồ Chí Minh, đưa sư Sonam Lundrup về gặp một số danh Tăng và trao đổi nhiều vấn đề Phật sự. Đoàn cũng đã gặp thầy Nhật Từ, thầy Trí Chơn cùng một vài vị Tăng khác.

Sáng nay, 20/01/2012, đoàn đến viếng TT T. Chân Tính tại chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn. Lạt Ma Sonam cũng trình bày mục đích qua Việt Nam; Ngài luôn hỏi thăm các bậc Thiện tri thức, học giả, cao Tăng về nhục thân của Phật tại Việt Nam. Ai cũng xác nhận là không có vấn đề đó, ngoại trừ Ngọc Xá Lợi. Nhưng tôi chợt nhớ đến Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn lưu lại bảo tháp trên Yên Tử. Mọi người đồng thuận, có lẽ vì thế, ba tuần còn lại đoàn sẽ ra Hà Nội.

Ngài ca ngợi về công đức hoằng dương Phật Pháp của TT Chân Tính, ngài cũng chuyển ngữ những băng đĩa của chùa cho Phật tử Tiệp hiểu được sinh hoạt của chùa cũng như của Phật giáo Việt Nam hiện nay. TT Chân Tính trao tặng băng đĩa sinh hoạt của chùa, và đáp lễ, Ngài Sonam cũng tặng TT trụ trì bức ảnh của bồ tát Avalokitesvara. Cũng theo tập quán Tây tạng, Ngài Sonam choàng chiếc khăn lụa màu xanh vào cổ TT Chân Tính, tế nhị hơn – ngài giải thích, đáng ra là tấm khăn màu trắng, nhưng ngài sợ rằng người Việt Nam kỵ màu trắng tang tóc cuối năm.

Hơn nửa giờ giao tiếp, trước khi đoàn xin phép TT ra về, hình kỷ niệm được chụp chung tại nhà khách. TT Chân Tính không quên mời đoàn sẽ đến lần nữa trước khi lên máy bay trở về cố hương.

Nước da trắng, gương mặt trong sáng như ẩn hiện ánh hào quang của bậc chân tu sau cặp kính trắng, Ngài vui vẻ hồn nhiên- Lạt Ma Sonam để lại một ấn tượng khó phai cho người gặp gỡ. Theo tiết lộ của anh Hoàng, Ngài Sonam có những hành tung cứu giúp nạn nhân rất vi diệu, không những tại Tiệp mà ngay cả vừa đặt chân đến Việt Nam.

Những năm gần đây, các Lạt Ma thường xuyên đến Việt Nam, đó là một dấu hiệu an lành cho một dân tộc. Mong rằng, qua tháng năm đau thương của một dân tộc như Việt Nam và Tây Tạng, Phật pháp sẽ đem lại nguồn an lành hạnh phúc cho một dân tộc luôn hướng thiện tu tập.

Đoàn mời tháp tùng đi viếng một số nơi, nhưng những ngày cuối năm khó rỗi, đành chia tay, hẹn ngày tao ngộ.

MINH MẪN

20/01/2012

Hương gió Đông tàn


Sáng 21 tháng chạp  năm Tân Mão, nhằm 14/01/2012 trên dưới 30 anh chị em khiếm thị hội tụ tại Thiên Quang ni tự thuộc thị xã Dĩ  An, tỉnh Bình Dương, thăm viếng sư cô Hương Nhũ.

Cơ sở gọi là chùa, vì cổng Tam quan in rõ hàng chữ: "Thiên Quang Ni Tự", nhưng vào nơi thờ Tam Bảo còn lưu dấu mờ nhạt “Thiên Quang tịnh thất”. Có lẽ xưa kia, đây là ngôi tịnh thất.
Sư cô về được gần một năm, xây vòng thành và cổng Tam quan nên có chữ Thiên Quang Ni Tự để chuẩn bị tương lai nơi đây sẽ là một ngôi chùa cho xứng với vị trí rộng thoáng của khu đất không xa thành phố, còn mang không khí của vùng ngoại ô yên tĩnh.
Anh chị em khiếm thị đến bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ những quận huyện khác nhau. Một số phật tử của đạo tràng chùa An Lạc, quận I, TP Hồ Chí Minh cũng có mặt.
Sân chùa phủ rộng những tàn cây tạp không lớn lắm, nhưng đủ đùa lá vàng bay theo làn gió Đông theo khách thập phương muốn viếng cảnh. Không khí thật trong lành, không xa hơn một km đầy khói bụi của nhịp sống vội vã trên những con đường cuối năm của Dĩ An.
Chùa thật đơn sơ như cuộc sống đơn sơ của sư cô tọa chủ. Trên chiếc bàn ghép đôi ngoài sân, bốn chú cún cưng buồn bã nằm vật vờ vì không được tự do rong ruổi; vài mươi chiếc ghế nhựa sắp sẵn trên sân cát chuẩn bị một cuộc đón tiếp thật thân thiết.
Ni chúng có 4 vị, tập sự có đến 9 cô, đặc biệt cô Diệu Định tuổi ngoài 20, mặt mũi sáng sủa, đang tập sự để hy vọng xin gia đình xuất gia, có giọng hát rất hay, cũng góp vui cho buổi gặp gỡ.
Quý cô tập sự bận tay rối rít phục vụ cà phê sữa cho khách. Sư cô Hương Nhũ cũng không giấu được niềm cảm xúc khi các anh chị em khiếm thị từ xa đến thăm. Không chỉ đơn giản là đi viếng chùa,  một số anh chị khiếm thị đã có duyên ân tình với sư cô những ba năm về trước.
Thật vậy, sau 1990, hàng trăm tăng ni sinh du học ở Ấn, khi tốt nghiệp về, chỉ có vài vị lăn xả vào công việc hoằng pháp, từ thiện, riêng sư cô Hương Nhũ, đến với người khiếm thị bằng công hạnh lạ lùng: - ngoài việc giảng dạy, in kinh chữ nổi cho người mù đọc tụng.
Ba năm về trước, sư cô tặng cho ba vị khiếm thị  bộ kinh Pháp Hoa, chi phí hoàn thành mỗi bộ trên 700 ngàn đồng lúc bấy giờ do cô Trang Thị Ngọc Phượng (Canada) hỷ cúng. Người hân hạnh nhận lãnh bộ kinh lúc bấy giờ là Phương Trâm, Kim Nga và chị Thảo. Cũng từ đó, sư cô tiếp tục làm những bộ kinh  Đại thừa khác.
Kỷ niệm ba năm trôi qua, đài truyền hình đến phóng sự việc tu tập của những anh chị em khiếm thị, đã phỏng vấn sư cô về việc làm nầy. Sư cô xúc động biết các em tinh tấn tụng đọc đến độ giấy đã ố, chữ đã mòn; và qua thời kinh hôm nay tại Thiên Quang, anh chị em đọc tụng nhuần nhuyễn kinh Vu Lan mà không cần phải dùng đến kinh như hồi mới học.
Trong số nguời khiếm thị, cũng đã có vị theo lớp giáo lý ở chùa Giác Lâm, quận Tân Bình suốt nhiều năm. Họ nắm vững giáo lý, kinh điển không thua người bình thường.
Một số anh chị trong nhóm thiện nguyện khiếm thị Hốc Môn cũng đã trường trai cả gia đình. Họ đóng góp để cứu trợ thiên tai, in băng đĩa kinh giảng của các giảng sư, và bằng nhiều cách, họ cũng hoằng pháp theo cách riêng của họ để giúp những bạn khiếm thị khác đến với Phật Pháp. Chẳng những thế,  một số băng đĩa do họ làm đã chuyển hóa được một số người dân khi xem qua.
Với tinh thần như thế, một phần nào đó đã đáp ứng xứng đáng sự quan tâm của quý thầy quý cô, trong đó, sư cô Hương Nhũ đã đến với họ bằng tấm chân tình thật hữu hiệu, vì thế, niềm cảm xúc đã đến với nhau trong ngày hôm nay.
Phải hãnh diện những người con Phật thiếu ánh sáng cặp mắt nhưng tỏ sáng cả tấm lòng. Đồng thời, Phật giáo Việt Nam ngày nay cũng hãnh diện, tuy rất ít,  đã có những tu sĩ trẻ thể hiện tài năng trên nhiều lãnh vực, được trang bị một kiến thức vững chắc và một tấm lòng phụng sự: văn hóa – xã hội – từ thiện – hoằng pháp. Sự thành công phật sự trong hoàn cảnh nghèo khó nói lên giá trị to lớn.
Trong số những tu sĩ trẻ như thế, không thiếu những vị có đời sống thật đơn giản và khiêm tốn. Có những vị vào chốn lao tù để cảm hóa, có những vị đồng hành với thế hệ đàn em trong học viện thì cũng có vị đến với thế giới mù lòa khát khao niềm tin Tam bảo.
Trong hành lang dùng làm “quá đường”, anh chị em khiếm thị được sư cô chủ lễ hướng dẫn thời kinh Vu Lan để hồi hướng công đức cho cửu huyền thất tổ cuối năm; văn nghệ bỏ túi do Diệu Kim, Diệu Cung và Diệu Khai cũng đem lại không khí vui tươi, ấm cúng và nhiều cảm xúc.
Theo chương trình dự định, sư cô sẽ có thời pháp cho đại chúng, nhưng quá cảm xúc, sư cô thổ lộ tâm tình trước những tấm lòng của anh chị em khiếm thị dành cho sư cô, và niềm tin thâm sâu đối với Phật Pháp của họ.
Thật bất ngờ, thầy Minh Trí, trụ trì và chủ quản web chùa Phúc Lâm, cũng có mặt. Cuộc hội ngộ không hẹn chưa đủ thời giờ bộc lộ những tâm tư người làm báo, trên bàn ăn đã kết nối và nói lên nhiều tình cảm của những người con cùng một đấng cha lành.
Mọi người ra về trên tay nặng trĩu quà cáp thì trong tâm cũng chan chứa niềm vui. Ngoài sân, gió Đông nhộn nhã đùa từng cánh lá  thay cho hoa trời tống tiển năm cũ để chồi non nghinh tiếp mùa Xuân đang đến.
Nếu chỉ có Hương đức hạnh mới bay ngược gió, thì chỉ có tấm lòng mới gắn kết mọi người đến với nhau trong không gian của Thiên Quang ni tự hôm nay.
Sư cô và anh chị em đều chúc tụng nhau bằng những gì tốt đẹp nhất – đó là chất liệu hương thơm của đất trời!!!
Minh Mẫn (14/01/2012)



Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012

TỰ TÁNH DI ĐÀ (1)

Khởi đầu cho một tâm linh

Tất cả kinh điển Phật giáo nói chung và kinh điển Phật giáo Bắc truyền nói riêng, đều xoay quanh vấn đề sống và chết, nhất là Phật giáo Tây Tạng, để mở ra con đường giải thoát. Sống như thế nào để hiện tại được an lạc, hạnh phúc và chuẩn bị cho cái chết tốt đẹp, chết như thế nào cho cuộc sống tương lai thanh thoát nếu không nói là được giải thoát.

Sự diễn dịch của kinh điển đều hướng hành giả đi vào chọn lựa cách sống và rèn luyện thân tâm. Nhất là kinh tạng Bắc tông chứa đựng triết lý uyên thâm dưới dạng truyền tích. Thêm vào đó là những luận giải của chư tổ, các hành giả, học giả và thiện tri thức giúp cho nội dung kinh điển thêm phần sáng tỏ.

Kinh điển Bắc truyền, trên cơ sở Nikaya, sau 6 thế kỷ, triển khai sâu rộng qua nhiều triết luận và pháp hành, đến độ diện mạo nguyên thủy không còn nhận dạng rõ nét. Nhưng tinh túy vẫn không xa tôn chi của Tam pháp ấn. Nhờ thế, Phật giáo Bắc Tông đã lan tỏa sâu rộng hơn Phật giáo Nam truyền, cũng từ đó, tinh thần “Phật giáo phát triển” thấm sâu vào mọi sinh hoạt xã hội châu Á: – âm nhạc- hội họa – kịch nghệ - phim ảnh – chính trị - văn hóa – tập quán – ngoại giao….Riêng pháp hành cũng đa dạng. Mỗi thời đại, tùy căn cơ tín chúng mà chư tổ triển khai một pháp môn tương thích. Khi Phật giáo Trung Hoa bàng bạc pháp môn Tịnh độ, chốn già lam gắn kết với nông nghiệp, việc trì bình khất thực không còn thích ứng; Từ vua quan đến thứ dân quen nghe đến việc hành thiện cầu phước, việc tạo tượng xây chùa đúc chuông là tiêu điểm để lập công bồi đức thì việc hướng nội tham thiền trở nên xa lạ, dành cho những bậc thượng căn trí tuệ. Từ đó, có sự phân cách giữa hành trạng tu tịnh và hành thiền, cứ như hai lãnh vực nầy không liên quan đến nhau. Do vậy, khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa, phủ nhận việc tạo 72 cảnh chùa của Lương Võ Đế thuộc về công đức, liền bị nhà vua xem Ngài là bọn ngoại đạo, vì không tương thích với truyền thống Phật giáo bản địa. chứng tỏ vua chưa hiều giữa phước đức và công đức, cũng có nghĩa Phật giáo lúc bấy giờ chú hướng đến ngoại tướng và cầu phước báu nhiều hơn chiều sâu của con đường giải thoát.

Sau kỷ nguyên Bồ Đề Đạt Ma, chư tổ triển khai Thiền phái qua nhiều dạng thức: Tổ sư thiền- khẩu đầu thiền – công án – đại thừa thiền – tối thượng thừa thiền – phản văn văn tự tánh – nhĩ căn viên thông, một số giòng phái như Liễu Quán, Thiên Thai, Trúc Lâm, Thảo Đường…và hiện nay có “Tri vọng chỉ vọng” – “ Hiện pháp lạc trú” của những Thiền sư đương đại. Một số cố chấp kinh văn, xem những loại Thiền tự phát đều là ngoại giáo, bởi lẽ không có sự miên tục bắt nguồn từ khởi thủy. nhưng quên rằng: Thế gian pháp tức Phật pháp – vô lượng pháp môn tu. Nghĩa là bất cứ pháp môn nào hiện tại, đưa hành giả đến an lạc – trí tuệ và lòng từ phát triển đều là chánh pháp. Giáo lý Bắc truyền linh động uyển chuyển tùy đối cơ mà sanh pháp. Nếu chỉ duy nhất “ Minh sát tuệ” thì làm gì có “ Tu Bụi” ra đời làm gì có trạng thái “Thỏng tay vào chợ” !

Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linh và pháp tánh, đương vi giáo chủ một cỏi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng, làm điểm tựa cho niềm tin quảng đại quần chúng. Thế nhưng, lý tánh của A Di Đà vẫn biểu thị tự tánh trong mỗi chúng sanh, đó là tự tánh hay còn gọi là Pháp thân Vô Lượng Thọ- Vô Lượng Quang. Tử Thư Tây Tạng đi sâu vào chi tiết qua từng trạng thái cỏi trung giới khi mà thần thức chưa quyết định việc tái sanh. Một vị thầy hướng dẫn linh thức trãi qua những kinh nghiệm về bardo, cho đến khi linh thức rơi vào tình trạng vô thức, bấy giờ ánh quang minh tự tánh xuất hiện. Có nghĩa trong mọi linh thức đều ẩn tàng ánh sáng chơn như. Tùy ánh sáng trong đục, mờ tỏ mà thần thức đầu thai vào cảnh giới đó. Ai Cập cũng có nói về Tử Thư, nhưng không chuyên sâu như Tạng Thư. Bằng kinh nghiệm và kỷ thuật hướng linh, một Guru có thể chuyển linh thức vượt thoát Tam giới.

1/ Hiện tượng lâm sàng: Y khoa ngày nay không còn lạ về hiện tượng chết lâm sàng. Người chuyên môn ngành y bảo đó là trạng thái giữa sống và chết. Trạng thái lâm sàng như thế, có thể vài giờ, vài ngày, thỉnh thoảng có những trường hơp hy hữu, người chết nhiều năm sống lại, trạng thái đó coi là hôn mê. Thường những cảnh trạng như thế người ta đo thân nhiệt, xác định điện tâm đồ ngưng họat động, riêng điện não đồ còn chút dấu hiệu yếu ớt chập chờn. Quyết định cuối cùng của y học, xác định một người thật sự chết là lúc toàn bộ cơ năng không còn hoạt động. Nhưng khoa học vẫn chưa giải thích được một người chết lâm sàng, sau khi sống lại, diễn tả những cảnh tượng khi thần thức lìa khỏi xác; có thể họ bảo đó là trạng thái ảo giác mà người chết nhìn thấy từ thế giới bên kia, nhưng làm sao giải thích cái thấy của nạn nhân những hoạt cảnh trong bệnh viện, nơi thân thể nạn nhân đang nằm, các y bác sĩ và những gì diễn ra chung quanh lúc nạn nhân vẫn còn hôn mê. Khoa học chưa giải thích được mặc dù hiện tượng chết lâm sàng đã có từ ngàn xưa. Về lãnh vực tâm linh, nhất là đối với tôn giáo cổ Ai cập cũng như Tây Tạng, chúng không phải là vấn đề xa lạ thiếu kiểm soát. Điều chúng ta muốn đề cập đến không phải vấn đề hồi sinh hay hồi dương, mà là trạng thức khi thần khí ra khỏi xác.

2/ Ánh sáng cuối đường hầm: Một số trường hợp chết lâm sàng, thường thấy mình chui qua đường hầm hẹp và tối đen, sau đó bềnh bồng trong không gian mênh mông hoặc vụt đi với một tốc độ kinh hãi không thấy đâu bờ bến. Một số vừa thoát khỏi đường hầm, gặp những người thân quen đã chết trước hoặc gặp cảnh trí tươi mát thanh thản. Cũng có người vừa thoát con đuòng hầm hẹp tăm tối, ra đến vùng sáng chói chang hoặc êm dịu. Những dạng hồi sinh như thế đều bị tác động tâm lý và thay đổi tính tình, cư xử tốt hơn, cuộc sống an phận và đạo đức hơn. Nơi đây, chú ý đến hai dạng hồi sinh, một, qua vùng tăm tối, gặp cảnh vật hoặc người thân quen, sống lại sẽ biết chan hòa hơn, hướng nội và có đức tin thầm lặng. Dạng khác, người hồi sinh sẽ phát kiến nhiều hiểu biết hơn, trí tuệ khác thường hoặc có năng khiếu đặc biệt nếu không rút mình vào ốc đảo tự thân để chiêm nghiệm thể nghiệm tâm linh sau khi trở lại từ vùng ánh sáng.

Dĩ nhiên một linh thức mang nặng ác nghiệp, khi xuất ra khỏi thân thể, khó mà nhận được ánh sáng ngay. Nghĩa là ánh sáng tự tâm bị ác nghiệp che khuất, vì trường năng lượng nhuốm màu ô trược đen tối bao phủ. Ánh sáng tâm thức tỏa sáng được gọi là hào quang. Ánh sáng đó, trường năng lượng đó mang điện tích âm, được duy trì bởi một phần tâm thức mà tín ngưỡng nhân gian gọi là vía, đây không phải là linh hồn. Thần thức gồm cả vía và phách. Vía nằm giữa Thần và Phách, Phách là âm tính của Thức. Đây là cái nhìn của Đạo học. Riêng Phật giáo, không chủ hướng đến Phách và Vía. Thần khí là dạng năng lượng của tâm thức. Tâm thức tồn tại thì sự sống tồn tại, sự sống tồn tại nhờ năng lượng vật chất sản sanh huyết và khí. Huyết là dạng vật chất thô, Khí là dạng năng lượng vi tế. Khí sung thì Thần mãn, Thần khí sung túc thì trí tuệ phát sinh. Năng lượng có hai dạng, một, từ vật chất phát sanh, hai từ năng lượng ngoại biên hỗ trợ tác thành. Do tiếp nhận và tiêu hóa vật chất trược thì sản sanh năng lượng ô trược, khó tiến hóa, có khuynh hướng xấu. Tiếp nhận và tiêu hóa vật chất thanh như thực vật dương tính thì thanh khí phát triển, tâm hồn trong sáng, có khuynh hướng đạo đức và lòng từ ái dồi dào. Tuy nhiên, tâm chủ đạo, nếu được rèn luyện hoặc tu tập, tâm có thể tác động đến khí huyết, phát sanh một trường năng lượng trong sáng, tột đỉnh của trường năng lượng sinh học của chư Phật, chư Thánh là trí tuệ phát quang. Đạo gia chú trọng luyện tinh để hóa Khí, luyện Khí để hóa Thần, luyện Thần để huờn Hư, Hư đây là chân tánh, là Tuệ tri. Ánh sáng của trí tuệ và ánh sáng của năng lượng sinh học khác nhau. Ánh sáng bức xạ của trường năng lượng vật chất thuộc loại vô cơ. Ánh sáng tâm thức hay năng lượng nghiệp thức thuộc loại hữu cơ. Thần thức lìa khỏi xác dù tạm thời hay vĩnh viễn đều mang theo năng lượng hữu cơ và vô cơ. Năng lượng vô cơ tồn tại trong một thời gian ngắn nếu thân xác có thể hồi sinh. Khi thân xác hoàn toàn mất sự liên kết với thần thức thì năng lượng vô cơ chan hòa vào vũ trụ, năng lượng hữu cơ tiếp tục đi theo sự dẫn dắt của nghiệp lực đối với một thần thức bình thường. Năng lượng hữu cơ của một bậc cực thiện sẽ là tuệ giác. Ánh sáng trí tuệ đó tồn tại vĩnh viễn, phủ trùm khắp không biên giới. Chư Phật, chư Bồ Tát Thánh Tăng là ánh sáng tuyệt đối của một tâm thức toàn giác. Đó là Pháp thân Vô Lượng Quang.

*

* *

Yoga, Tiên gia, Đạo học, huyền linh thần bí học, Cao Đài Tiên giáo và những phép luyện công đều tiến đến đẳng cấp thăng hoa tâm linh. Bởi Đạo Học Đông phương quan niệm “Nhất Bản tán vạn thù” theo thuật ngữ Phật giáo khởi niệm “vô minh sanh ra vạn pháp”, nghĩa là từ một gốc mà sanh ra vạn loại, muốn quy về nguồn cội, “vạn thù phải quy nhất bản”, tức là vạn pháp khởi xuất từ vô minh, phải quy về vô minh để hóa giải vạn pháp. Nhưng khi quy về “ Nhất Bản” rồi thì “ Nhất quy hà xứ”? Cái một sẽ về đâu? Đây là vấn đề mà hầu hết các bộ môn huyền linh tâm pháp cố gắng lập thành từng bước hóa giải. Đạo gia dụng tâm chuyển hóa kinh mạch lạc, bằng cách luyện đơn, kết Thánh thai với phương thưc phổ dụng là “Thủy hỏa ký tế” hoặc “Tiểu châu Thiên” hòa nhập với “ Đại châu Thiên”; Yoga cũng kết hợp âm dương như khí công. Cổ thư Bà La Môn giáo tương thích là Atman và Bhraman. Tiểu ngã trở về hòa hợp với Đại ngã. Dĩ nhiên bộ phái như thế đều có pháp hành và quá trình trãi nghiệm cùng thể nghiệm. Trong khi đó, Kito giáo phổ truyền thì sau khi lìa đời, trở về hầu cạnh chúa nơi Thiên quốc mà không trao cho tín hữu chìa khóa của bí pháp rèn luyện thân tâm, hoặc kết hợp cùng Chúa làm một. Tuy nhiên, một số rất ít Giám mục tiếp cận được bí pháp bế quan để hòa nhập cùng Thánh thể là chuyện ngoại lệ do có duyên gặp những bí pháp từ các chân sư trao truyền. Yoga từ Hatha cho đến Raja trãi qua 11 cấp, nghĩa là từ loại thể dục đến hoạt dụng tâm linh đưa đến giải thoát đều theo một chuẩn mực nhất định, chuyển hóa thể chất đến tâm linh một cách nhịp nhàng:

1-HathaYoga.
2-KarmaYoga.
3-JnanaYoga.
4-BhaktiYoga.
5-LayaYoga.
6-MantraYoga.
7-KriyaYoga.
8-ShivaYoga.
9-YantraYoga.
10-MudraYoga.
11-RajaYoga


MINHMẪN

16/10/2011



Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2012

TỰ TÁNH DI ĐÀ (2)

Đạo tính tương đồng

Điểm gặp gỡ chung giữa các pháp thuật của Tôn giáo Phương Đông như Lão gia, Tiên Thiên Đại Đạo, một bộ phận của Yoga và mật pháp Ấn Tạng, đều lấy nội thể làm đối tượng tu luyện.

Những pháp cổ, truyền thống dùng Tam bửu nội thân ( Tinh-Khí-Thần) để thăng tiến, thì vài thập niên của tiền bán thế kỷ 20, một số pháp môn được cải biên hoặc sáng tạo để đưa hành giả đến trình độ xuất hồn, đây không phải là pháp tối thắng để giải thoát, chỉ đáp ứng tính hiếu kỳ như một trò chơi tâm linh trong cỏi tam giới. Lục tự Di Đà là hồng danh của giáo chủ Tịnh Độ, thế mà vẫn có tông pháp kết hợp giữa Lục tự để luân chuyển qua các đại huyệt châu thân, họ gọi là “Pháp luân thường chuyển”, tuy vậy, vẫn có vị đắc pháp, phát huệ với pháp hành nầy. Thuật ngữ Yoga gọi các đại huyệt đó là luân xa (chakra). Võ thuật – y học Trung hoa gọi là đại huyệt. Những đám rối thái dương nầy có công năng thu – phát năng lượng để nuôi cơ thể, đạo thuật dùng nó để thăng tiến tâm linh. Luồng chơn khí luân lưu từ mạch nhâm qua mạch đốc vận sinh lực chạy dọc xương sống nuôi trí não. Các pháp thuật cũng dùng nguồn sinh lực đó chạy ngược từ luân xa 7 vòng xuống để xuất ra yết hầu hoặc kích thích kundalini bò theo cột sống khai mở huyệt bách hội thông qua tuyến tùng. Những vận hành pháp thuật đều có kết quả nhất định, nhất là chữa được bệnh thân và đem lại sức khỏe dồi dào, thế nhưng, theo nhà Phật, vẫn chưa thoát khỏi tam giới. Có những vị học lóm pháp thuật Đạo gia, lạm dụng “Khí Hải”, không biết chuyển hóa, lâu ngày tích khí phát cuồng dâm nộ, luôn hoang tưởng đạt được Thánh quả, hàng đêm lên cỏi trời học pháp rồi đem xuống dạy cho trần gian, ai cũng biết đó là ma giới, hẳn nhiên họ đã hành xử của một ma dâm.

Tóm lại, cho dù bất cứ pháp hành nào cũng có một sở chứng nhất định trong cỏi tam giới, đều mang thân ánh sáng của cảnh giới đắc pháp đó, loại ánh sáng như thế chưa phải Pháp thân thanh tịnh Vô lượng quang mà chỉ là vòng hào quang của năng lượng sinh học được nâng cấp. Cái tương thích giữa Yoga và Phật giáo trong quá trình tu dưỡng đều “phục vụ vô ngã” lợi tha và tự tâm phải diệt ngã. Tuyệt đỉnh Yoga là hòa nhập với Chân ngã, như một loại chân như Phật tánh. Vậy tiến trình chuyển hóa của Tự Táng Di Đà là gì?

Theo Mật giáo, A Di Đà là mật chú AMITA, Trí tánh của ngũ bộ Phật:

Tỳ Lô Giá Na Phật- A Súc Bệ Phật – Bảo Sanh Phật – A Di Đà Phật – Bất Không Thành Tựu Phật. Đã là Trí tánh phải là ánh quang minh vĩnh hằng không giới hạn nên gọi là Vô Lượng Quang.

“Khi Đức Pháp Tạng Tỳ kheo đang hành trì tu tập, muốn thiết lập cỏi Tịnh như chư Phật mười phương, xin thầy ( Đức Thế Tự Tại Như Lai) chỉ giáo và hiện tướng 210 ức Phật độ, từ đó, ngài Pháp Tạng phát nguyện sẽ xây dựng một cảnh Tịnh Độ như chư Phật để giáo hóa hỗ trợ chúng sanh liễu sanh thoát tử, nương vào y báo của Ngài mà tiến tu đạo nghiệp giải thoát.”

Tạng là kho chứa, Pháp hữu vi lẫn vô vi là tâm hành. Hạnh nguyện tục đế để chuyển hướng đến chơn đế đều do tâm hành. Khác nhau tâm hành tục đế bị vô thường hoại diệt. Tâm hành chơn đế của bậc đại giác, thoát khỏi vọng tưởng, mọi hỉện tướng có công năng duy trì miên tục, vì thế ngoài Vô Lượng Quang còn là Vô Lượng Thọ. Một hành giả trong quá trình chuyển hóa Ý thức- mạt na thức- a lại da thức- và năm thức trở thành: - Diệu Quan sát Trí – Bình đẳng tánh trí – Đại viên cảnh trí và Thành sở tác trí, là những diệu dụng để phổ hóa chúng sanh của một A la Hán, một Bồ Tát, một vị Phật. Hỷ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục được chuyển hóa thành bảy loại quý tính như sen mọc từ bùn nhơ. Thất giác chi phần là những vòng đai bảy lớp lưới giăng cây quý, không những biểu thị cảnh giới của Phật mà còn là cảnh giới của tâm thanh tịnh giải thoát hoàn hảo. Chấn động lực của tâm thức thanh khiết là sóng âm trang trí nhạc điểu. Một cỏi Tịnh Vô Lượng Quang như thế đều được chư Phật mười phương tán dương hoan hỷ, cũng có nghĩa tâm giải thoát hoàn toàn thì vạn vật muôn loài trong không gian đều mang sắc màu tươi nhuận giải thoát. Vì vậy “ Nhất thiết duy tâm tạo” trong cảnh giới huyền môn của Hoa Nghiêm xác định được “nhất đa tương dung” để minh chứng cảnh cực lạc có đủ mọi hiện tướng cỏi tục nhưng bản chất phi tục khi ánh sáng tâm thức được chuyển hóa phủ trùm vô tuyến tính. Vậy hiểu thế nào khi Phật giáo không chấp nhận một linh hồn tồn tại? Cái gì hòa nhập với cỏi Tịnh độ?

1/ Phải chăng có một linh hồn ? Khoa học ngày nay cũng như một số quan điểm thế tục đều chấp nhận một linh hồn trường cửu sau khi lìa khỏi xác. Phật giáo không thừa nhận như thế, nhưng tập khí nghiệp lực là một dạng sóng giao động. BS Camille Flammarion sau 60 năm nghiên cứu qua 4.800 bức thư, dùng pháp thực chứng khoa học, kết luận rằng ngoài xác thân còn có phần hồn mà mắt thường không nhìn thấy, ngoại trừ tần sóng giao động của người chết có cùng tần số giao động của người sống như các nhà ngoại cảm, họ mới thấy hoặc cảm nhận sự hiện hữu của thế giới vô hình. Tuy sự tồn tại hoàn toàn khác với thế giới vật chất, nhưng họ có khả năng tác động lên tâm thức của người sống để chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu của họ sau khi thân xác đã chết.

Ánh sáng của một sinh động vật nói chung và của con người nói riêng, biểu lộ ra bên ngoài quanh thân thể, mang nhiều thông tin của sức khỏe và bệnh hoạn trong ngũ tạng. Cọng hưởng với tâm thức cho màu sáng, tối, thanh, đục tùy tâm thức khởi niệm. Huyền bí học phương Tây gọi là thể phách. Khoa học gia người Nga, Semyon Kirlian chụp được phim, đặt tên là Bioplasmic energy. Nó lưu giữ những ký ức những tư tưởng của đương sự. Đông phương huyền học gọi nó là ngoại Khí, ngày nay gọi là năng lượng sinh học ngoại biên. Như thế , nó không phải là linh hồn, từ việc chẩn đoán bệnh qua ánh sáng đó, thầy thuốc chữa bằng y dược hoặc trường sinh học chữa bằng Nhân điện; cách chữa đó đã điều chỉnh, bổ sung từ trường nội tạng. Khác nhau cách chữa của Đông y là dùng dược liệu kết hợp ngũ hành âm dương trong thang thuốc Quân-Thần-Tá-Sứ. Trường sinh học nhân điện chữa theo khu vực trách nhiệm nội tạng. Mỗi đại huyệt phụ trách một cơ phận, ví dụ luân xa ba phụ trách vùng bụng, luân xa hai chịu tác động thận…Dĩ nhiên Đông y Tây y, pháp thuật, tôn giáo mỗi lãnh vực có một quan niệm khác nhau về bệnh lý nên việc chữa trị cũng khác nhau; như thế thể xác và linh hồn không thể là một. Linh hồn nào chịu trách nhiệm về bệnh thân? Nếu bệnh thân tùy thuộc vào quyết định của linh hồn thì phải trực tiếp chữa linh hồn mà không phải chỉ duy nhất chữa bệnh thân! Linh hồn có sứ mạng gì với cơ thể con người? Khoa học thực dụng ngày nay, kể cả duy vật, không thể quyết đoán con người sống chỉ thuần vật chất và vật chất quyết định tất cả, nhưng khoa học vẫn chưa chứng minh sự hiện hữu của linh hồn mặc dù họ vẫn chấp nhận ngoài thể xác phải có một linh hồn. Họ mơ hồ hiểu rằng linh hồn là một dạng sóng có khả năng tồn tại biệt lập hoặc đôi khi tác động được thể chất của người sống nếu cùng tần số giao động.

Saint Augustine từng bảo: “ Điều kỳ diệu xẩy ra không ngược với tự nhiên mà chỉ ngược với cái ta biết trong tự nhiên”.

Một linh hồn thuần túy là một linh hồn, có chức năng điều khiển sự sống của một động vật, thì mỗi sinh vật là một ốc đảo tự cô lập, không hề có sự liên hệ nghiệp thức lẫn nhau mà Phật giáo gọi là cộng nghiệp. Thực tế cho thấy sự hiện hữu gần hay xa đối với một sinh vật đều ít nhiều có tính tương tác cộng đồng. Sự tương tác như thế không thể có một linh hồn độc lập của một cá thể độc lập. Và một linh hồn được tạo dựng sẳn như một khối cố định thì linh hồn đó không có khả năng chuyển đổi cũng như không có khả năng chịu trách nhiệm với việc làm chính mình. Các nhà tâm linh huyền bí đều nhận thức rất rõ về nhân và quả của một sinh động vật qua trường lực ánh sáng. Trường lực đó có thể tăng hoặc giảm, có thể tồn tại hoặc hủy diệt tự thể mà không do tác động bởi ngoại lực, như thế không thể xem nó là một linh hồn tồn tại độc lập. Năng lượng sóng từ của một sinh vật, khoa học vật lý gọi là viba. Khoa học có cái nhìn tiến bộ hơn khi xác định cấu tạo con người không chỉ đơn thuần bằng phân tử. Trường năng lượng bao phủ mọi thể chất của mọi sinh vật. Tùy theo lưu hoạt nội tại mà trường năng lượng lưu xuất ra ngoại biên. Thực vật lưu hoạt hạn chế, động vật hạ đẳng lưu hoạt bất định, con người văn minh lưu hoạt năng động hơn con người bộ tộc cổ xưa, và người trí xuất phát từ trường khác hẳn người chậm phát triển. Cũng thế, hành giả chuyên chính và cao cấp thì trường lực cũng phát triển rộng hơn người không tu luyện. Màu sắc trường năng lượng thông tin cho biết đẳng cấp tâm linh của một người và từ đó, chúng có thể thay đổi thăng tiến hoặc thụt lùi. Cái mà khoa học gọi là thế giới vật chất tĩnh, thực ra là dạng năng lượng cô đặc, hào quang hay ánh sáng sinh học là dạng năng lượng vi tế, tất cả đều là sóng, hạt sóng và sợi sóng. Sự tiến bộ của khoa học chế tạo ra điện não đồ, điện tâm đồ, và xa hơn nữa là thiết bị đo từ trường con người gọi là superconducting Quantum Interference Device ( Thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn ) nghĩa là khoa học chỉ đo được xung lực điện trường phát ra từ con người mà chưa biết rõ gì về một linh hồn. Nhận thức, hiểu biết không phải là một linh hồn, đó chỉ là cái dụng của một tâm thức. Tâm thức không là linh hồn, nó là kết tinh từ nhiều tập khí, tập khí không phải là linh hồn, nó là thói quen thâm nhập bởi vô minh vọng niệm…Nói đúng ra, bẹ chuối không phải là thân cây chuối.

BS Leonard Ravitz trường đại học tổng hợp William and May xác định trường năng lượng giao động theo tâm lý và nhận thức của mỗi người. Ông xác định thay đổi tư duy sẽ gây hiệu ứng tâm thể. Như vậy không thể có một linh hồn cố định bị tác động bởi bất cứ điều kiện nào. Bs Robert Becker cũng xác định hình thù và cường độ của hào quang con người thay đổi tùy thuộc tâm-sinh lý của con người.

Năm 1950, bs người Nga cũng tách bạch được yếu tính của trường năng lượng với cơ chế thể chất tĩnh: “trường năng lượng bioplasmic” gồm có ion-proton- và electron tự do khác biệt với trạng thái : rắn-dịch-khí và plasma của vật chất. Bioplasmic quá trình vận động chuyển hóa bởi hóa học trong té bào. Nhưng ông không nói đến sự liên hệ trực tiếp của chuyển đổi đó ảnh hưởng từ tâm thức, nói cách khác, có sự liên hệ chặt chẽ giữa tâm-sinh lý.

MINH MẪN

20/10/2011