Thứ Tư, 24 tháng 6, 2020

HỘI NGỘ CỐ HƯƠNG


.
Huế ngọt ngào, Huế yêu thương, Huế dịu dàng âm ba vang vọng của người con sông  Hương núi Ngự; cho dù người ấy là ai, bồng bềnh sóng tóc bạc đầu hay mượt mà xanh đen dậy thì, âm điệu chảy nhẹ như hơi thở, làm sao phân biệt được tiếng nói hay dòng chảy của con nước lặng lờ!

Mùa an cư truyền thống như lớp ngủ Đông động vật Bắc cực, chư Tăng hội tụ trầm lắng dưới mái cổ tích “không môn”, một Phật Ân chưa phải là cổ, nhưng cũng không gọi là mới tuy chưa tròn 20 năm với tuế nguyệt phong ba; Mãnh đất cằn cổi cho nhiều cây trái mật ngọt, cho ra đời lắm đệ tử nhân cách trượng phu; xây dựng trên công lao của một bậc từng vào tù không tội, từng chết lâm sàng trên nương rẫy sắn khoai  bởi đọt mỳ chống đói. Đôi tay trắng thuở đất trời phân kỳ, với trí tuệ un đúc nghị lực kiên cường để xuất hiện nét cổ kính mái chùa không tường không vách, không cửa đóng then cài; vườn tượng ẩn minh dưới rừng cây ủ bóng. Vùng hoang sơ thổ mộ biến thành Già lam kính cẩn.

Huế từ đâu vọng về lũ lượt ríu rít mượt mà các cô các cậu, các ông các bà như từng quen nhau từ thuở đất trời chưa ly dị. Nhộn nhã chào hỏi tình đồng hương trên đất khách. Cúng dường trường Hạ vẫn là tập quán cưu mang của những người sâu nặng Tam bảo, nữ sỹ sông Hương tha phương lập nghiệp, nghiệp bệnh toàn thân mà vẫn thân chinh cẩn bái các tôn sư trong mùa mít chín. Tuy là cọng bún thiu nhưng ai bảo âm giọng kia thiếu nhựa sống? Ôi thôi, trên 60km đường trường, xe lăn bánh thoăn thoắt bao nhiêu, giọng hồ hởi phấn khởi được dịp tràn ngập bấy nhiêu, như chưa từng được nói, 6 người còn lại bị lấn sân tắt đài, chìm sâu vào mộng mị.

Trùng vào dịp tiên thường của đại lão Hòa thượng vừa viên tịch 49 ngày, chư Tăng câu hội nhộn nhịp khác thường, trong không khí khác thường vẫn xuất hiện cái bình thường của đoàn cúng dường trường Hạ hàng năm, các cây mít sau chùa bị khuấy động bởi những bàn tay búng khẽ từng em, bao bì được nữ sỹ chuẩn bị sẵn thật chu đáo. Việc bình thường hàng năm mùa an cư mít, vẫn ẩn tàng không bình thường khi thu hoạch chưa đầy ba bao như mọi năm, thế nhưng, vẫn có những múi mít thơm lừng khi xe lăn bánh.

Phu quân nữ sỹ có tên thật đen nhưng cuộc đời chưa bao giờ đen; Luôn là chuyên gia kiểm tra mít như từng kiểm tra bệnh nhân trước khi gây mê theo nghề nghiệp, ấy thế mà có những em mít non đánh lừa kinh nghiệm của chàng “đen”, lặng lẽ nằm im trong bao đến khi bị phát hiện về đến nhà.
                                                       ***
Bạn đồng hành nhìn vị tu sỹ như vừa phát hiện một quê hương thuở bé; đồng hương, đồng bạn, cùng xóm…bao kỷ niệm ấu thời tràn ngập trên hai khuôn mặt của hai cuộc đời trái ngược, họ kéo nhau vào chỗ cách biệt để hàn huyên ôn cố. Chuyến xe tình cờ đưa họ đến với nhau thật tình cờ; cũng chuyến xe này năm xưa, đưa nữ sỹ gặp nhau một kẻ từng yêu thơ nữ sỹ trên cao nguyên Lâm Đồng; như hai thỏi nam châm,tuy chưa từng biết mặt, họ riu rít ôm chầm lấy nhau, xô giạt mọi người ngẩn ngơ giữa sương lạnh vùng cao. Người “môi giới” chưa nhận được lời tri ân “môi giới”, họ vờ quên như cố quên con nợ đời thường. Chiêc xe  bảy chỗ thật có duyên kết hợp, nếu là xe hợp đồng cưới hỏi lẽ nào không phát đạt làm ăn!
                                                  ***
Món ăn Huế do nguời Huế nấu, người Huế ăn trầm trộ khen ngon. Không phải vì óc địa phương, nhưng chùa Huế vẫn quy tụ dân Huế, tu sĩ Huế, Phật tử Huế, cũng thế, chùa Bẵc hay chùa Nam như gạo nếp tẻ rặt mùi nếp tẻ, không lẫn vào đâu. Món bánh canh điểm tâm sáng, bánh bèo, chè đậu xanh cơm trưa, đậm đà hương vị cố đô, đám lữ khách  hảo hương vị như từng hảo“hảo mít”.

Đoàn chia tay lão Hòa thượng như chia tay người anh thân thiết, lão ta có một phong thái phóng khoáng lạ thường, có lẽ bao năm nhuốm tình đồng đội của Gia Đình Phật Tử, Hướng đạo Phật tử, biết hòa nhập, biết xóa nhòa ranh giới giữa tu sĩ và tín đồ; Có người xa lạ đến tìm, đối diện mà không tin ngài là HT;đôi lúc lo cho chư Tăng và phật tử điểm tâm, lão xuống bếp tìm thức ăn còn lại, chễm chệ như ông vua Táo bên bếp lửa hồng, thật vô tư  bình dị. Tuy chùa đã có trụ trì, lão tu sỹ vẫn đích thân kiểm tra đốc thúc từng nhân sự khi chùa có tang đám ma chay.Hình ảnh của lão đậm nét trong mọi giới đã từng đến chùa, các đoàn thể GĐPT không xem ngài là vi Hòa thượng mà xem là đàn anh trong cùng  màu áo lam sương khói.
                                                           ***
-Anh có đi chung với chị NGTC?
-Dạ, không, chị ấy đi, ngồi sau.
Giọng trả lời ởm ờ hàng hai làm nữ sỹ NGTC phát điên, thầy trụ trì tu viện Phước Hoa cũng tưởng nhầm xe đi hai chiếc.
- Anh có đến chùa?
- Dạ đang đến cúng dường tượng Di Lạc bằng gỗ xá xị cho tu viện.
- Vậy tôi đợi – thầy trụ trì tu viện Phước Hoa nói.

Tội trời đến thế, mùa an cư mà để thầy trụ trì bỏ nghỉ trưa đón đoàn. Chả hiểu thế nào cho đúng cái đoàn trời thần đất lỡ này, không như những tín đồ đến bái lễ cung kính ra vẻ ngôi thứ; chưa đến ngày đi mà đã điện ra điều kện xin ăn món khoái khẩu.Mọi khi sư bà thường cho ăn bún, giờ xin đổi món bánh xèo. Người tính không bằng trời tính, bánh xèo chả có mà có cả nồi cháo nấm mối ngọt lịm,loại thổ sản quý hiếm đắc hơn vàng, một ký 500 ngàn nhưng đâu phải lúc nào cũng có.Đến để ăn, đi còn mang về những đặc sản do công sức điệu chúng canh tác. Thầy vẫn chu đáo như sự chu đáo quà cáp hàng năm vào những dịp lễ, hàng chục anh chị em văn nghệ sỹ được thầy quan tâm, hiểu từng tâm tánh, từng nhu cầu mỗi người. Một tu sĩ trung niên với tâm hồn nghệ sỹ, làm bóng mát hàng năm cho anh chị em văn nghệ quy tụ, vẫn điều hành điệu chúng trong tu viện  rập khuôn nề nếp. Có ba điêm trong thiền môn ươm mầm cho hồn thơ, văn. nhạc, họa… Phật giáo tồn sinh. Một Hòa thượng trên 80 vẫn muợt mà văn bút cùng anh chị em văn nghệ, chùa Phi Lai Biên Hòa. Một bóng mát, tụ điểm sinh hoạt tại tu viện Phước Hoa Long Thành; một thầm lặng nhưng kiên cố như núi Ngũ hành tại chùa Quán Thế Âm, Đà Nẵng, vùng đất thiêng làm điểm tựa cho du sỹ mỏi cánh ẩn thân,điểm ghi dấu lễ hội văn hóa mỗi độ Xuân về để Nguyễn Nhã Tiên và anh em vung bút dệt thơ.
                                                         ***
Ai bảo tu hành cách ly nhân thế như sâu ẩn mình trong tổ kén? nhập thế là vậy, cốt cách hạnh tu vẫn chưa từng phai mờ trong giới luật; đóng góp hương vị cho đời mà vẫn ngọt lịm hương thơm. Xuất thế hay nhập thế đều là diệu dụng của Phật pháp. Mùa mít chín đi cúng dường trường Hạ cũng là một diệu dụng. Khi ra về, trên tay từng người nặng trĩu quà của đất trời bao tháng ngày ấp ủ nở hoa, cũng là một diệu dụng chơn thường – thế gian pháp tức Phật pháp!

Hội ngộ cố hương hay hội ngộ mùa mít năm sau, cũng thế thôi?

MINH MẪN
24/6/2020

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2020

RA MIỀN TRUNG TẮM NẴNG – VÀO SÀI GÒN GỘI MƯA



Một tối đẹp Hạ, vị tu sĩ tọa đàm với dăm ba anh em lún phún tóc tiêu, có gã bồng bềnh sương pha che khuất cặp kính lão, có gã  dấu kín hồn thơ chảy mượt tóc thề dưới cái mũ ngàn năm ghi dấu, có gã nhạt hòa nét bút pha sơn không lộ diện trong ánh mắt ngẩn ngơ từ kiếp lạ…mỗi gương mặt phưởng phất một giòng sống sung mãn nội tâm, nhưng riêng vị tu sĩ, một vị thế y báo của Tiên giới, nhưng nhân cách của người chịu chơi “lục diệu pháp môn” hòa quang đồng trần nhi bất đồng vị.Trần không phải trụi, ngữ ngôn như hạt sương tụ trên cánh sen, biểu đạt cho đối tượng hiểu ý mà không vướng lời. Giao bôi vài tuần trà, vầng mây vô tình vướng lại hình ảnh một đối tượng phương xa, mượn sóng âm kỷ nghệ, vị tu sỹ dạt dào tình cảm, mượn mây trời đón khách viễn phương trở về “cố quận”.

Những văn nghệ sỹ Quảng Đà luôn nhiệt tinh như ruộng nước cho lúa đơm bông, dù nắng Hạ, màu xanh cỏ cây vây quanh ruộng đồng ấp ủ dòng tươi mát cho cuộc sống, cũng thế, góp mặt khách viễn phương không làm cho phố phường thêm chật hẹp, nhưng giúp hồn người rộng mở thêm vui bên tách cà phê  Cố Quận – Sơn Trà – Đà Nẵng, của nàng thơ Vô Biên từng vướng chân một lãng tử Nhã Tiên.
 Núi Ngũ Hành, ngôi chùa Quán Thế Âm khiêm tốn nép sát thân đá được đất trời che chở nguồn sinh lực, vùng linh địa giành cho lễ hội hàng năm,tĩnh mịch lạ thường.Nơi kia, bốn ngọn núi dập dìu lữ khách ngao du. Đâu đó nói rằng, chùa Quán Thế Âm ướp từng mầm sen văn hóa cho hồn nghệ sỹ nở hoa, làm sao chào đón các bước chân du khách háo hức tìm tòi làm giao động nguồn suối tâm linh diệu vợi.Khác lạ hơn nhiều nơi,các quý ông đông hơn quý bà siêng năng phủ phục dưới bệ Tam Bảo chân thành hành trì miên mật.Địa linh chỉ dung chứa dòng hướng thiện tâm linh và văn hóa, nghệ thuật phục vụ cho Phật pháp. Hoa có hương có mật thì ong mới tề tựu, cùng thế, hương giới đức đã rộng đón những tín tâm và nghệ sỹ cho hồ sen ngát hương hạnh đức; mạnh thường quân, kẻ tâm phúc, người tài năng tự nguyện quy phục góp tay cho cảnh giới thêm hương.
                                                       ***
Như dòng chảy truyền thống, tiếng kẻng rề rè báo hiệu công phu khuya, chim chóc cũng phải thức hòa nhịp tiếng gáy chim cu,tiếng gù bồ câu, tiếng than thở ngàn đời của tắc kè núi cố kéo cảnh vật về lại thuở ban sơ. Màu xanh núi non không chìm khuất màu vàng y hậu chư Tăng”trú dạ lục thời” trong mùa kiết Hạ. Thợ thầy vẫn tô xây, chư Tăng vẫn nghiêm trang hành hoạt như đàn ong kiên nhẫn làm nhiệm vụ.Chùa Ni  gần núi Duy Xuyên, sáng sớm như hiu quạnh bị lãng quên nơi góc quê buồn, thanh vắng, yên tĩnh được vây quanh cây trái xanh mượt; Mặt trời chưa về đỉnh, tiếng kẻng “thu quân” các ban bệ lao tác từ đâu hội tụ, chuông mõ âm điệu du dương trên quả đường; chư Ni cũng hòa nhập đời sống nông Thiền của Tổ Bách Trượng. Dù là Ni quê, hayNi cầm mãnh bằng tốt nghiệp Cao đẵng Phật học, đều hoan hỷ như gương mặt chưa từng nhiễm bụi, thu mình với nề nếp Thanh quy.Quên ngày tháng như quên thế sự. Cây mè cây mít cây mơ đợi mùa bội thu lúa mới, thầy trò nói chuyện vụ mùa như mây tâm sự với mưa; biển Đông, chiến tranh, dịch bệnh là những điều xa lạ trong tâm hồn trắng trong của những nữ tu miền núi.
                                                             ***
Đoàn Quý Toàn,  Bùi Toàn, Hồ Công Khanh, Nguyễn Nhã Tiên, Xuân Sơn, Phạm thư  Cưu,Tâm Nhiên..còn bao nhiêu cánh thơ, hồn nghệ sĩ phủ mát bầu trời Quảng Đà chưa đủ duyên hộ ngộ, nhưng đã hội ngộ dưới bóng mát của một tu sỹ Đạo Đời viên dung; Trung niên, nhiệt tình,bao dung, im lặng, tầm nhìn rộng, tay với xa, chân đi các nẻo tinh cầu để thu ngắn nền văn hóa nhân loại vào tàng thư các , bảo tàng cổ vật, đem niềm đam mê cho những tâm hồn ngưỡng vọng.Bên cạnh đó, một nhân cách kỳ đặc được mệnh danh là tự điển sống, kim cổ dung thông, một sư huynh của ngài trụ trì, trên ba mươi năm chưa ra khỏi chùa, luôn trầm mặc đối diện với chính mình, như một hư vô trầm mịch,  được gọi là Tuyết sơn, khác hơn một Đạt Ma cửu niên diện bích; Thiền sư gầy nhưng nội lực sung mãn, mắt sáng, nhận thức uyên áo, ngôn ngữ vượt rào cản lý luận thường tình.Chùa Quán Thế Âm có hai trụ cột vững vàng, một ngoại giao, một nội ứng làm thế tựa cho tứ chúng đồng tu.Còn bao cái đặc sắc tàng ẩn mà chưa được biết! khác với những đặc sắc Thành phố Đà Nẵng lộ diện hiển nhiên một bộ mặt đổi mới hoàn toàn, dáng vẻ thanh lịch nhộn nhã, kết nối hai bờ bởi cầu rồng thế kỷ.Hội An, Duy Xuyên, Hòa Vang đều trở thành phố thị nhộn nhịp, còn lưu chút gió núi hương  đồng từ Trường sơn mờ xa.
                                                                   ***
Một tuần an trú mùa Hạ, được nhiều mãn túc an lành. Niềm ưu ái của thầy trụ trì như được gội nhuần tươi mát giữa cái nắng vàng hanh Đà thành. Về lại nơi chôn nhau cắt rốn trên nửa thế kỷ xa cách; thơm gió biển, thơm núi xanh, thơm đồng lúa làng mạc còn vương vấn hồn quê; thơm cả tình người, rồi cũng phải chia tay cái nẵng miền Trung về gội mưa mùa Hạ miền Nam Tổ quốc.

MINH MẪN
17/6/2020

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2020

CHUYỂN HÓA



Trong thuật ngữ nhà Phật, không có tử tiêu diệt, triệt tiêu, loạt trừ, khống chế, áp đặt, cấm đoán…

Trước những tập khí, bản chất xấu, nhân xấu, người học Phật cần nhận thức rõ những tính chất tiêu cực làm cản trở bước thăng tiến tâm linh, có nhiều hình thức và pháp môn để chuyển hóa những hạt giống đó mà không sử dụng những ngôn từ hoặc hình thức mang tính bạo lực.

Từng cá thể tự thân có thể  hoán chuyển nếu ý thức tầm quan trọng của năng lượng tiêu cực đưa chúng ta vào môi trường xấu, tất cả những hạt giống xấu trong tâm thức đều mang năng lượng âm, bản chất trì trệ,bạo động,hủy diệt, lười biếng, tham dục, sát hại, sân si, kiêu ngạo, ganh tỵ, buồn phiền, tiêu cực…đều là những chướng duyên cho người cầu tiến tâm linh. Một hành giả tâm linh luôn buông xả những trạng thái tâm bất định.
Mỗi pháp hành đều có một số nguyên tắc xả tâm, bởi vì tâm là một tổ hợp của những vọng tưởng. Cái tưởng còn mang thân phàm, ý phàm đều là vọng, do vọng tưởng mà thân hành, khẩu hành, ý hành biến chúng thành vòng tròn trôi lăn miên viễn trong sáu cõi ba đường.

Nói một cách thực tiễn, thiền sinh sau khi rời xa nghi thức tôn giáo, tiến lên một nấc để vào lãnh vực tâm linh hướng đến chân lý giải thoát, thì mọi sự ràng buộc nghi thức đều được rũ bỏ.Cho dù tham muốn tu tập, tâm hướng thiện, tâm mong cầu lợi tha thuộc hành thiện trong Tôn giáo, cũng là một chướng duyên, một rào cản  trên bước đường giải thoát tâm linh và tâm linh giải thoát. Giới luật là phương tiện ngăn ác tác thiện để thanh tẩy thân tâm trên bước đường hướng thiện, nhưng là một trong những nhân tố cản trở khi bước vào không gian chân lý; chân lý không còn tôn giáo dù tôn giáo là phương tiện bước đầu giúp chúng ta tiến đến chân lý giải thoát.Một khi hành giả thuần thiện thì không cần có giới tướng, vì giới luật đối trọng việc thất thoát đạo hạnh, phạm điều phi pháp do Tôn giáo quy định, hay quy ước của xã hội. Khi bản thân thuần thiện thì giới tánh đã là luật nghi tự thân.

Những pháp hành đi vào chân lý cũng còn tùy thuộc mỗi cung bậc cá biệt. Có vô số pháp hành, từ  Trường sinh học nhân điện của yoga, đến  pháp Thủy Hỏa ký tế của Tiên đạo, Pháp luân đại pháp của thầy Lý Hồng Chí, pháp ức chế tâm của thoại đầu, công án đến pháp xả tâm của một bộ môn thuộc nhánh Vipassana, Tứ niệm xứ, pháp quán tưởng 12 nhân duyên, tứ diệu đế…Có pháp dùng âm lực chữ “OM” (aum) để tạo chấn động lực vũ trụ tác động khai mở luân xa; có pháp dùng ánh sáng tác động vào thần nhãn (con mắt thứ ba) xuyên qua tuyến yên (Vị trí củaTuyến yên hay còn gọi là tuyến não thùy là một tuyến nội tiết có kích thước bằng hạt đậu và khối lượng 0.5g (0.018 oz) nằm ở sàn não thất ba, trong hố yên của thân xương bướm. Đây là một tuyến quan trọng giữ vai trò chỉ đạo hoạt động của hầu hết các tuyến nội tiết khác. (Vinmec).     
                     
  Ngoài nhiệm vụ tiết ra nhiều loại hormon khác nhau, tác động đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.Tuyến yên còn được chuyển hóa bởi năng lượng tâm linh, tác động khai mở con mắt thứ ba khi công năng tu tập của hành giả đạt đến mức thượng thừa.                                                                                                                                                                          
Đành rằng Tuyến yên và tuyến tùng liên kết hỗ tương để quyết định hoạt động và chuyển hóa cơ chế vật lý trong nhân thể, nhưng một khi tâm thức chủ động hướng thượng và hướng thiện thì tuyến yên và tuyến tùng vẫn bị tác động ngược, nghĩa là vẫn bị chi phối bởi ý lực để tâm thức được thăng hoa.

Mọi vật thể kể cả con người đều là dạng năng lượng quang hợp; năng lượng quang hợp qua hai dạng thức : âm thanh và ánh sáng. Con người lúc cận tử,  nghiệp nhẹ thường xuất hiện ánh sáng; những người chết lâm sàng khi tỉnh lại thường kể về ánh sáng lúc thần thức xuất ra khỏi xác.
“Pam kể, cô thấy mình bị cuốn về một con đường đầy ánh sáng, nơi cô nhìn thấy người thân đã khuất của mình. Trường hợp “thoát xác” của Pam Reynolds là một ví dụ điển hình cho hàng nghìn mô tả về hiện tượng bí hiểm này “ (https://khoahocdoisong.vn/)

Nó xảy ra trong thời gian ngắn, thường bắt đầu với cảm giác đi vào đường hầm tối đen với ánh sáng rực rỡ phía cuối, giống trạng thái cận kề cái chết.
“Bà Sương,ngày 2/7, vào khoảng 8 giờ tối, đột nhiên trong người cảm thấy khó chịu, bà vội vào giường nằm, bỗng thấy chân tay lạnh dần. Lúc đó bà có cảm tưởng máu trong người đặc lại, tim đập loạn, hơi thở nặng nhọc, đầu tê dần, lưỡi cứng lại không còn cử động được nữa.

Trong lúc đau đớn, hấp hối ấy, bà bỗng thấy một vầng sáng tròn đường kính khoảng 2 thước hiện ra trên đầu như chong chóng, có một sợi dây nhỏ màu xám, nối liền vầng sáng đến đỉnh đầu bà, vầng sáng càng quay nhanh, bà càng mệt, hơi thở gần như đứt đoạn, rồi vầng sáng và sợi dây bỗng biến mất. Lúc ấy, bà thấy tự nhiên khỏe lại, liền đứng dậy nhẹ nhàng, ngó thấy xác mình đang nằm bất động. Bấy giờ, bà mới biết mình là một chơn linh đã xuất khỏi xác.”   (doanh nghiệp việt nam).

Nghĩa là, mỗi cá nhân đều thủ đắc một quang lực, người bình thường là một vầng sáng  không rõ ràng, tâm thức, sức khỏe tác động hệ năng lượng sinh học tỏa nhiệt quanh cơ thể. Bậc minh sư, hành giả chứng đắc, thường tỏa ánh sáng quanh cơ thể; thiền sinh trong quá trình hành trì miên mật cũng có một năng lượng tương tự nhưng nhạt hơn, đôi khi quang năng ngắn hơn do tâm thức hành trì gián đoạn hoặc nghị lực yếu kém.
Một khi quang năng sinh học tỏa sáng thì năng lượng âm bị giảm thiểu, đến khi năng lượng sinh học tiến đến năng lượng sinh thức thì quang năng đã chủ động phần lớn ý tưởng, thân hành, mọi hành động, lời nói, ý tưởng đều thanh tịnh, hạt giống bất thiện sẽ không còn hoặc tối thiểu như bóng dáng của ảo ảnh bất chợt.

Một hành giả nhập vào đại định, lúc bấy giờ hành giả thủ đắc một năng lượng siêu thức, thân hành, khẩu hành và ý hành thoát khỏi quy luật nhân quả; làm mà không làm, nói mà không nói…vượt mọi ý niệm pháp chấp, ngã chấp. Năng lượng siêu thức là một quang năng tự thân, là ánh sãng tuệ giác, là năng lực từ bi, trí tuệ và từ bi là một.
Mọi pháp hành dù thấp hay cao, mục tiêu đều tiến đến giải thoát; do trình độ bất đồng, hành trì bất đồng đưa đến kết quả bất đồng, quả vị bất đồng. Hạt giống nghiệp thức tiềm ẩn trong tạng thức vẫn phải được chuyển hóa do năng lực hành trì.

Trình độ sơ cơ, dùng pháp sám hối, chuyên trì danh hiệu, mật niệm thần chú, bố thí trì giới, đúc chuông tạc tượng, xây chùa…để tăng trưởng thiện nghiệp, hóa giải chướng duyên, tránh phạm nghiệp xấu.

Trình độ hành giả chuyên sâu, nội quán thiền định, phát triển năng lượng dương, tức năng lượng tich cực, năng lượng khẳng định sẽ chiêu nạp năng lượng thanh khiết từ vùng ngoại biên, hệ thần kinh được nguồn sinh lực nội thân dồi dào hỗ trợ, ánh sáng trí giác càng phát triển dần đưa đến tuệ giác, tự tánh vô lượng quang là nguồn trí tuệ vô biên, là minh sư nội tâm,là nguồn sáng nội tại sẽ chuyển hóa mọi nghiệp lực vô thủy.
                                                               ***
Bản chất tự tánh là một quang năng hiệu ứng hai dạng âm thanh và ánh sáng. Tâm giao động hướng đến năng lượng âm thường bị kích động, đau buồn, phiền muộn, bất mãn, tiêu cực, chiêu cảm nhiều bất trắc; người có hệ thần kinh yếu , thường bị ám ảnh những âm lưu tạp loạn, phát ra những âm lực tà khí sai khiến xúi dục hành động, lời nói, ý nghĩ tiêu cực làm hại bản thân hoặc bạo lực với người chung quanh, họ bị ám ảnh ai đó hại họ hoặc; họ cũng thấy xuất hiện ánh sáng thuộc diện ảo ảnh ma quái.

Người có năng lực Thiền định chuyên sâu, âm lưu nội tại là suối nguồn thanh tẩy nghiệp thức; những hạt giống lưu trữ trong tạng thức  đều do ảo tưởng kết thành trong thế giới nhân quả. Hành giả chứng đắc Tứ thánh quả vượt khỏi sự chi phối nhân quả, xem hạt giống trong tàng thức là những ảo ảnh của tưởng thức; âm lưu tác động vào hệ thần kinh siêu thức xóa tan các chủng tử ảo ảnh, chuyển hóa mọi cảm thức vào trạng thái thanh tịnh tuyệt đối.

Hành giả thủ đắc trí tuệ phát sinh thì lòng từ cũng là tuệ giác. Từ bi và tuệ giác không hai. Những hạt giống tiêu cực hay gọi là năng lượng âm cũng dần được chuyển hóa sang trạng thái tích cực. Tính tham, cho dù tham dưới mọi dạng thức, mệnh danh tham thiện hay tham ác,tham ái cũng sẽ được chuyển hóa sang trạng thái buông bỏ, xả ly; cũng thế, sân hận cũng nguội dần chuyển sang trạng thái từ bi, thương xót, các kiết sử cũng thế, đều được chuyển hóa sang trạng thái tâm trong sáng, thoát khỏi nhị nguyên nhân quả mà không nhọc công quán xét từng trạng thái tâm để trừ diệt. Dùng tâm để diệt vọng tâm cũng đều rơi vào vọng tưởng.

Như vậy, nghiệp lực dẫn dắt chúng sanh trôi lăn vô số kiếp được cắt đứt bằng nhiều cách, dù cách nào cũng đều chuyển hóa chứ không áp đặt,ức chế, trốn tránh hay phủ nhận.

Trong cuộc sống thực tế đến phạm trù tâm linh, mọi ách tắt đều phải giải quyết bằng phương chuyển hóa để đưa đến thành công. Bởi trấn áp, trốn chạy, áp đặt biến chúng thành đối tượng phản ứng, chủ thể và đối tượng đều xoắn vào nhau thành bánh xe trôi lăn mãi khó dừng.

Tâm vô thường, cho dù sơ tâm xuất gia là một động lực cực mạnh, nhưng thời gian do giao tiếp, lợi dưỡng, cung phụng nhiều thuận lợi dẫn tâm lệch hướng, thiếu kiểm soát đôi khi đi ngược lại mục đích ban đầu. Người xuất gia  là người: “xuất thế tục gia – xuất phiền não gia – xuất tam giới gia”, sau thòi gian, có vị về sống chung với nhà Phật tử; có vị pháp sự đa đoan chiếm hết thời gian tu tập, sanh lắm phiền não giữa lúc bận tâm làm tiền, lo kinh doanh để xây dựng Tam bảo, thì việc xuất tam giới gia là việc không thể. Chư Tổ từng nói: “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật trung thiên, tam niên Phật xuất thiên”, nghĩa là năm đầu vào chùa  đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng thấy Phật trước mặt,năm thứ hai thấy Phật lững lờ giũa trời lúc nhớ lúc quên, năm thứ ba thì Phật không còn thấy nữa. Người phát tâm cầu đạo luôn giữ tâm kiên cố đòi hỏi phải lánh xa mọi nhu cầu lợi dưỡng tham ái mới khỏi chệch hướng.Xã hội ngày nay cũng thế, cuộc sống đảo lộn do tâm bất thường, từ nếp sống hưởng thụ, trang phục đôi khi không nhận ra con trai hay con gái. Phật tử thay chư Tăng đắp y lên pháp tòa giảng đạo trong khi chư Tăng bận rộn toan tính thay tín đồ làm kinh tế, chẳng những thế, còn có nữ hộ pháp phía sau quản lý tài chánh, khuynh loát Tăng chúng trong chùa.

Chuyển hóa là pháp hành giúp xóa tan mọi kiết sử nếu hành giả chuyên tâm hành trì miên mật, ngược lại, tâm lơ đểnh thì chuyển hóa cuộc sống “Thiên nhân chi đạo sư” biến thành “thiên nhân chi tà sư” mà mình không hề biết.


MINH MẪN
04/62020