Trong thuật ngữ nhà Phật, không có tử tiêu diệt, triệt
tiêu, loạt trừ, khống chế, áp đặt, cấm đoán…
Trước những tập khí, bản chất xấu, nhân xấu, người học
Phật cần nhận thức rõ những tính chất tiêu cực làm cản trở bước thăng tiến tâm
linh, có nhiều hình thức và pháp môn để chuyển hóa những hạt giống đó mà không
sử dụng những ngôn từ hoặc hình thức mang tính bạo lực.
Từng cá thể tự thân có thể hoán chuyển nếu ý thức tầm quan trọng của
năng lượng tiêu cực đưa chúng ta vào môi trường xấu, tất cả những hạt giống xấu
trong tâm thức đều mang năng lượng âm, bản chất trì trệ,bạo động,hủy diệt, lười
biếng, tham dục, sát hại, sân si, kiêu ngạo, ganh tỵ, buồn phiền, tiêu cực…đều
là những chướng duyên cho người cầu tiến tâm linh. Một hành giả tâm linh luôn
buông xả những trạng thái tâm bất định.
Mỗi pháp hành đều có một số nguyên tắc xả tâm, bởi
vì tâm là một tổ hợp của những vọng tưởng. Cái tưởng còn mang thân phàm, ý phàm
đều là vọng, do vọng tưởng mà thân hành, khẩu hành, ý hành biến chúng thành
vòng tròn trôi lăn miên viễn trong sáu cõi ba đường.
Nói một cách thực tiễn, thiền sinh sau khi rời xa
nghi thức tôn giáo, tiến lên một nấc để vào lãnh vực tâm linh hướng đến chân lý
giải thoát, thì mọi sự ràng buộc nghi thức đều được rũ bỏ.Cho dù tham muốn tu tập,
tâm hướng thiện, tâm mong cầu lợi tha thuộc hành thiện trong Tôn giáo, cũng là
một chướng duyên, một rào cản trên bước
đường giải thoát tâm linh và tâm linh giải thoát. Giới luật là phương tiện ngăn
ác tác thiện để thanh tẩy thân tâm trên bước đường hướng thiện, nhưng là một
trong những nhân tố cản trở khi bước vào không gian chân lý; chân lý không còn
tôn giáo dù tôn giáo là phương tiện bước đầu giúp chúng ta tiến đến chân lý giải
thoát.Một khi hành giả thuần thiện thì không cần có giới tướng, vì giới luật đối
trọng việc thất thoát đạo hạnh, phạm điều phi pháp do Tôn giáo quy định, hay
quy ước của xã hội. Khi bản thân thuần thiện thì giới tánh đã là luật nghi tự
thân.
Những pháp hành đi vào chân lý cũng còn tùy thuộc mỗi
cung bậc cá biệt. Có vô số pháp hành, từ
Trường sinh học nhân điện của yoga, đến
pháp Thủy Hỏa ký tế của Tiên đạo, Pháp luân đại pháp của thầy Lý Hồng
Chí, pháp ức chế tâm của thoại đầu, công án đến pháp xả tâm của một bộ môn thuộc
nhánh Vipassana, Tứ niệm xứ, pháp quán tưởng 12 nhân duyên, tứ diệu đế…Có pháp
dùng âm lực chữ “OM” (aum) để tạo chấn động lực vũ trụ tác động khai mở luân
xa; có pháp dùng ánh sáng tác động vào thần nhãn (con mắt thứ ba) xuyên qua tuyến
yên (Vị trí củaTuyến yên hay
còn gọi là tuyến não thùy là
một tuyến nội tiết có kích thước bằng hạt đậu và khối lượng
0.5g (0.018 oz) nằm ở sàn não thất ba, trong hố yên của thân xương bướm.
Đây là một tuyến quan trọng giữ vai trò chỉ đạo hoạt động của hầu hết các tuyến
nội tiết khác. (Vinmec).
Ngoài nhiệm
vụ tiết ra nhiều loại hormon khác nhau, tác động đến các bộ phận khác nhau của
cơ thể.Tuyến yên còn được chuyển hóa bởi năng lượng tâm linh, tác động khai mở
con mắt thứ ba khi công năng tu tập của hành giả đạt đến mức thượng thừa.
Đành rằng Tuyến yên và tuyến tùng liên kết hỗ tương
để quyết định hoạt động và chuyển hóa cơ chế vật lý trong nhân thể, nhưng một
khi tâm thức chủ động hướng thượng và hướng thiện thì tuyến yên và tuyến tùng vẫn
bị tác động ngược, nghĩa là vẫn bị chi phối bởi ý lực để tâm thức được thăng
hoa.
Mọi vật thể kể cả con người đều là dạng năng lượng
quang hợp; năng lượng quang hợp qua hai dạng thức : âm thanh và ánh sáng. Con
người lúc cận tử, nghiệp nhẹ thường xuất
hiện ánh sáng; những người chết lâm sàng khi tỉnh lại thường kể về ánh sáng lúc
thần thức xuất ra khỏi xác.
“Pam kể, cô thấy mình bị cuốn về một con đường đầy
ánh sáng, nơi cô nhìn thấy người thân đã khuất của mình. Trường hợp “thoát
xác”
của Pam Reynolds là một ví dụ điển hình cho hàng nghìn mô tả về hiện tượng bí
hiểm này “ (https://khoahocdoisong.vn/)
Nó xảy ra trong thời gian ngắn, thường bắt đầu với cảm
giác đi vào đường hầm tối đen với ánh sáng rực rỡ phía cuối, giống trạng thái cận
kề cái chết.
“Bà Sương,ngày 2/7, vào khoảng 8 giờ tối, đột nhiên
trong người cảm thấy khó chịu, bà vội vào giường nằm, bỗng thấy chân tay lạnh dần.
Lúc đó bà có cảm tưởng máu trong người đặc lại, tim đập loạn, hơi thở nặng nhọc,
đầu tê dần, lưỡi cứng lại không còn cử động được nữa.
Trong lúc đau đớn, hấp hối ấy, bà bỗng thấy một vầng
sáng tròn đường kính khoảng 2 thước hiện ra trên đầu như chong chóng, có một sợi
dây nhỏ màu xám, nối liền vầng sáng đến đỉnh đầu bà, vầng sáng càng quay nhanh,
bà càng mệt, hơi thở gần như đứt đoạn, rồi vầng sáng và sợi dây bỗng biến mất.
Lúc ấy, bà thấy tự nhiên khỏe lại, liền đứng dậy nhẹ nhàng, ngó thấy xác mình
đang nằm bất động. Bấy giờ, bà mới biết mình là một chơn linh đã xuất khỏi xác.” (doanh
nghiệp việt nam).
Nghĩa là, mỗi cá nhân đều thủ đắc một quang lực, người
bình thường là một vầng sáng không rõ
ràng, tâm thức, sức khỏe tác động hệ năng lượng sinh học tỏa nhiệt quanh cơ thể.
Bậc minh sư, hành giả chứng đắc, thường tỏa ánh sáng quanh cơ thể; thiền sinh
trong quá trình hành trì miên mật cũng có một năng lượng tương tự nhưng nhạt
hơn, đôi khi quang năng ngắn hơn do tâm thức hành trì gián đoạn hoặc nghị lực yếu
kém.
Một khi quang năng sinh học tỏa sáng thì năng lượng
âm bị giảm thiểu, đến khi năng lượng sinh học tiến đến năng lượng sinh thức thì
quang năng đã chủ động phần lớn ý tưởng, thân hành, mọi hành động, lời nói, ý
tưởng đều thanh tịnh, hạt giống bất thiện sẽ không còn hoặc tối thiểu như bóng
dáng của ảo ảnh bất chợt.
Một hành giả nhập vào đại định, lúc bấy giờ hành giả
thủ đắc một năng lượng siêu thức, thân hành, khẩu hành và ý hành thoát khỏi quy
luật nhân quả; làm mà không làm, nói mà không nói…vượt mọi ý niệm pháp chấp,
ngã chấp. Năng lượng siêu thức là một quang năng tự thân, là ánh sãng tuệ giác,
là năng lực từ bi, trí tuệ và từ bi là một.
Mọi pháp hành dù thấp hay cao, mục tiêu đều tiến đến
giải thoát; do trình độ bất đồng, hành trì bất đồng đưa đến kết quả bất đồng,
quả vị bất đồng. Hạt giống nghiệp thức tiềm ẩn trong tạng thức vẫn phải được
chuyển hóa do năng lực hành trì.
Trình độ sơ cơ, dùng pháp sám hối, chuyên trì danh
hiệu, mật niệm thần chú, bố thí trì giới, đúc chuông tạc tượng, xây chùa…để
tăng trưởng thiện nghiệp, hóa giải chướng duyên, tránh phạm nghiệp xấu.
Trình độ hành giả chuyên sâu, nội quán thiền định,
phát triển năng lượng dương, tức năng lượng tich cực, năng lượng khẳng định sẽ
chiêu nạp năng lượng thanh khiết từ vùng ngoại biên, hệ thần kinh được nguồn
sinh lực nội thân dồi dào hỗ trợ, ánh sáng trí giác càng phát triển dần đưa đến
tuệ giác, tự tánh vô lượng quang là nguồn trí tuệ vô biên, là minh sư nội tâm,là
nguồn sáng nội tại sẽ chuyển hóa mọi nghiệp lực vô thủy.
***
Bản chất tự tánh là một quang năng hiệu ứng hai dạng
âm thanh và ánh sáng. Tâm giao động hướng đến năng lượng âm thường bị kích động,
đau buồn, phiền muộn, bất mãn, tiêu cực, chiêu cảm nhiều bất trắc; người có hệ
thần kinh yếu , thường bị ám ảnh những âm lưu tạp loạn, phát ra những âm lực tà
khí sai khiến xúi dục hành động, lời nói, ý nghĩ tiêu cực làm hại bản thân hoặc
bạo lực với người chung quanh, họ bị ám ảnh ai đó hại họ hoặc; họ cũng thấy xuất
hiện ánh sáng thuộc diện ảo ảnh ma quái.
Người có năng lực Thiền định chuyên sâu, âm lưu nội
tại là suối nguồn thanh tẩy nghiệp thức; những hạt giống lưu trữ trong tạng thức đều do ảo tưởng kết thành trong thế giới nhân
quả. Hành giả chứng đắc Tứ thánh quả vượt khỏi sự chi phối nhân quả, xem hạt giống
trong tàng thức là những ảo ảnh của tưởng thức; âm lưu tác động vào hệ thần
kinh siêu thức xóa tan các chủng tử ảo ảnh, chuyển hóa mọi cảm thức vào trạng
thái thanh tịnh tuyệt đối.
Hành giả thủ đắc trí tuệ phát sinh thì lòng từ cũng
là tuệ giác. Từ bi và tuệ giác không hai. Những hạt giống tiêu cực hay gọi là
năng lượng âm cũng dần được chuyển hóa sang trạng thái tích cực. Tính tham, cho
dù tham dưới mọi dạng thức, mệnh danh tham thiện hay tham ác,tham ái cũng sẽ được
chuyển hóa sang trạng thái buông bỏ, xả ly; cũng thế, sân hận cũng nguội dần
chuyển sang trạng thái từ bi, thương xót, các kiết sử cũng thế, đều được chuyển
hóa sang trạng thái tâm trong sáng, thoát khỏi nhị nguyên nhân quả mà không nhọc
công quán xét từng trạng thái tâm để trừ diệt. Dùng tâm để diệt vọng tâm cũng đều
rơi vào vọng tưởng.
Như vậy, nghiệp lực dẫn dắt chúng sanh trôi lăn vô số
kiếp được cắt đứt bằng nhiều cách, dù cách nào cũng đều chuyển hóa chứ không áp
đặt,ức chế, trốn tránh hay phủ nhận.
Trong cuộc sống thực tế đến phạm trù tâm linh, mọi
ách tắt đều phải giải quyết bằng phương chuyển hóa để đưa đến thành công. Bởi
trấn áp, trốn chạy, áp đặt biến chúng thành đối tượng phản ứng, chủ thể và đối
tượng đều xoắn vào nhau thành bánh xe trôi lăn mãi khó dừng.
Tâm vô thường, cho dù sơ tâm xuất gia là một động lực
cực mạnh, nhưng thời gian do giao tiếp, lợi dưỡng, cung phụng nhiều thuận lợi dẫn
tâm lệch hướng, thiếu kiểm soát đôi khi đi ngược lại mục đích ban đầu. Người xuất
gia là người: “xuất thế tục gia – xuất
phiền não gia – xuất tam giới gia”, sau thòi gian, có vị về sống chung với nhà
Phật tử; có vị pháp sự đa đoan chiếm hết thời gian tu tập, sanh lắm phiền não
giữa lúc bận tâm làm tiền, lo kinh doanh để xây dựng Tam bảo, thì việc xuất tam
giới gia là việc không thể. Chư Tổ từng nói: “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên
Phật trung thiên, tam niên Phật xuất thiên”, nghĩa là năm đầu vào chùa đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng thấy Phật trước
mặt,năm thứ hai thấy Phật lững lờ giũa trời lúc nhớ lúc quên, năm thứ ba thì Phật
không còn thấy nữa. Người phát tâm cầu đạo luôn giữ tâm kiên cố đòi hỏi phải
lánh xa mọi nhu cầu lợi dưỡng tham ái mới khỏi chệch hướng.Xã hội ngày nay cũng
thế, cuộc sống đảo lộn do tâm bất thường, từ nếp sống hưởng thụ, trang phục đôi
khi không nhận ra con trai hay con gái. Phật tử thay chư Tăng đắp y lên pháp
tòa giảng đạo trong khi chư Tăng bận rộn toan tính thay tín đồ làm kinh tế, chẳng
những thế, còn có nữ hộ pháp phía sau quản lý tài chánh, khuynh loát Tăng chúng
trong chùa.
Chuyển hóa là pháp hành giúp xóa tan mọi kiết sử nếu
hành giả chuyên tâm hành trì miên mật, ngược lại, tâm lơ đểnh thì chuyển hóa cuộc
sống “Thiên nhân chi đạo sư” biến thành “thiên nhân chi tà sư” mà mình không hề
biết.
MINH MẪN
04/62020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét