NGHỆ THUẬT HẠNH PHÚC TRONG THẾ GIỚI PHIỀN NÃO:
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA BẠO ĐỘNG (TT)
The Art of Happiness in a Troubled World
PHẦN HAI
BẠO ĐỘNG CHỐNG VỚI ĐỐI THOẠI
BẠO ĐỘNG CHỐNG VỚI ĐỐI THOẠI
Chương 7
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA BẠO ĐỘNG
Bây giờ, trước khi tiến hành cuộc thí nghiệm, Milgram đã cho bỏ phiếu cả những sinh viên tâm lý học năm cuối tại Đại Học Yale, cũng như đến rộng rãi những đồng nghiệp chuyên môn, yêu cầu họ dự đoán, có bao nhiêu đối tượng sẽ tiếp tục cho điện giật những người tình nguyện của họ đến tận cùng của dòng điện tối đa 450 volt. Những sinh viên tiên đoán, trong trung bình, chi khoảng một phần trăm. Những nhà tâm lý trị liệu, chuyên gia trong dự đoán thái độ con người, phỏng đoán một phần mười của một phần trăm – giới hạn chỉ một ít cá nhân thật sự tàn bạo, bệnh hoạn, hay “độc ác” như Eichmann[4].
Những dự đoán đã sai. Hai phần ba những Cán Bộ đã tiếp tục cho đến ngay chỗ chấm dứt sau cùng! Hai phần ba đối tượng – những người bình thường, tử tế – đã tiếp tục cho điện giật những người tình nguyện giống như chính họ trong khi nghe đến những tiếng kêu thét của đau đớn quằn quại, rên la về tình trạng tim mạch, và thậm chí trong sự im lặng chết chóc, chỗ mà người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng “người tình nguyện” kia đã chết! Và đây là điều không may mắn gì cả: Trải qua hàng năm, cuộc thí nghiệm này đã tái diễn nhiều lần trong các nước khắp thế giới, và tỉ lệ của những người tuân lệnh trong việc thi hành những cú điện giật đến mức độ “chết chóc” đã duy trì một cách nổi bật tương tự như cuộc nghiên cứu ban sơ của Milgram.
Cuộc thí nghiệm này đã cho nhiều nhà khảo sát cái nhìn thoáng qua vào trong những điều kiện tâm lý học có thể đưa đến những sự diệt chủng đã thực hiện trong Thế Chiến Thứ Hai, vén mở chứng cứ cua việc ngay cả những người tử tế bình thường có thể bị đưa đến gây ra những hành vi “độc ác” của bạo động và tàn nhẫn. Những đối tượng này không thích thú những trò tàn ác, lập dị hay bệnh hoạn: Như Milgram đã kết luận tại thời điểm ấy, “Những người bình thường, chỉ đơn giản thực hiện công việc của họ, và không có bất cứ thái độ thù địch nào trong họ, có thể trở thành một tác nhân hay cán bộ trong một tiến trình tàn phá kinh khủng.”
Thế thì, đâu là “nguyên nhân và điều kiện” đã đưa những đối tượng phục tùng mệnh lệnh đến việc tra tấn một cách cần thiết những đồng bạn tình nguyện của họ? Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Khi hóa ra là, những đối tượng này đã không bất chợt đánh mất tất cả những cảm nhận đạo đức hay trách nhiệm – nó chỉ bị cướp mất trong một lúc. Hay, một cách chính xác hơn, họ chỉ đơn giản trao nó cho người có thẩm quyền. Milgram lý luận rằng hoàn cảnh đã tạo nên những điều kiện mà trong ấy người chủ trì thí nghiệm được nhận thức bởi những đối tượng như là một người “có thẩm quyền hợp pháp”, người nào đấy được cho là đại diện cho sự Tiến Bộ và Tiến Trình Khoa Học – một thứ lương thiện không nghi ngờ gì nữa. Những hoàn cảnh này đã tạo một điều kiện tâm lý mà trong ấy các đối tượng tạm thời trút ý thức trách nhiệm cá nhân lên một người thẩm quyền hợp pháp. Đáng sợ là, tất cả những thứ cần thiết đề hợp pháp hóa người “có thẩm quyền” này như một áo choàng thí nghiệm trắng, tập hồ sơ, và một thái độ lạnh lùng, lãnh đạm.
Trong thực tế, những đối tượng vâng lời không phải đột nhiên trở thành những cá nhân thờ ơ không có lòng lương thiện. Tất cả các người ấy đã trải qua những mức độ nào đấy của đau khổ, thường biểu lộ những dấu hiệu cực kỳ căng thẳng, băn khoăn, và miễn cưởng. Nhưng một khi họ đã chuyển ý thức trách nhiệm đạo đức của họ sang người chủ trì thí nghiệm, tại thời điểm ấy họ thấy chính họ đơn thuần là một tác nhân hành động cho người có thẩm quyền. Một cách tâm lý, giống như họ chỉ đơn thuần là một người thay thế, ở đấy thực thi ý thức đạo đức trách nhiệm của người chủ trì, chứ không phải của chính họ.
Thí nghiệm vâng lệnh của Milgram thật không ngờ và quá bận tâm đã gây nên một làn sóng của những nghiên cứu và thí nghiệm mới, bắt đầu vào những năm 1960, tìm kiếm để nhận dạng những nguyên nhân và điều kiện đa dạng đã tạo nên những hành vi bạo động và xấu ác. Milgram và những người khác đi đến nhận ra nhiều điều kiện hoàn cảnh và biến số khác có thể tác động đến thái độ của đối tượng và bằng lòng để giật điện [Học Viên tình nguyện]. Thí dụ, Milgram thấy rằng việc cung cấp một mô hình xã hội tích cực – một “Cán Bộ tình nguyện” khác (trong trường hợp này là một đồng mưu của cuộc nghiên cứu) người chống đối – đã giảm thiểu sự ưng thuận của đối tượng xuống còn ít hơn 10 phần trăm. Mặt khác, việc làm cho đối tượng là một bộ phận của “đội ngũ” thí nghiệm, một bộ phận của nhóm tiến hành cuộc thí nghiệm, kết quả là 90 phần trăm đối tượng chỉ đạo “Cán Bộ” (một lần nữa là người đồng mưu) thực hiện những cú giật điện tối đa.
Bên cạnh việc vâng lệnh giới thẩm quyền, những nhà nghiên cứu đã đi đến xác định nhiều nhân tố khác có thể tác động sự bằng lòng của một người để giáng sự tổn hại lên những con người đồng loại của họ – những nhân tố khác này, thí dụ, có thể được liên hệ đến bản chất của việc xếp đặt, vai trò của cá nhân trong một hoàn cảnh, hay sự phù hợp với những áp lực của nhóm.
Ngày nay, sau gần năm mươi năm nghiên cứu, bộ phận của chứng cứ minh chứng quyền lực và các điều kiện của những hoàn cảnh xã hội để thay đổi sự suy nghĩ hay thái độ của các cá nhân, những nhóm, và các quốc gia là tràn ngập, át hẳn hay không thể cưởng lại được. Tràn ngập như thế nào? Trong tài liệu lưu trử trình độ ủng hộ khoa học, giáo sư Đại Học Princeton, Susan T. Fiske tiết lộ rằng, “Năng lực của phạm vi xã hội ảnh hưởng những hành động đã từng được chứng minh trong khoảng 25.000 nghiên cứu bao gồm 8.000.0000 người tham dự.” Với chứng cứ rộng rãi như vậy, những nhà tâm lý học hàng đầu dường như ở trong sự đồng thuận chung với Stanley Milgram, người kết luận rằng, “Tâm lý học xã hội của thế kỷ này đã khám phá ra một bài học quan trọng: thường thường không có nhiều loại người cùng như loại hoàn cảnh mà trong ấy người ấy tự thấy mình quyết định phải hành động như thế nào.”
Qua sự phong phú của những nghiên cứu có thẩm quyền, hầu hết những nhà tâm lý học xã hội hàng đầu ngày nay đã tiếp nhận một quan điểm mạnh mẽ “về hoàn cảnh” cho thái độ xấu ác ban đầu. Về mặt khác, khái niệm rằng “con người xấu ác” – những người bản chất bẩm sinh là hoàn toàn tệ hại – là nguyên nhân độc nhất của xấu ác vẫn khó ghi vào trong trí tưởng tượng, sáng tạo phổ thông ở phương Tây. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nói, khi những sự kiện tệ hại xảy ra, thường có khuynh hướng lựa chọn một số ít những cá nhân và đổ vấy tất cả trách nhiệm cho họ. Đây là ý kiến đơn giản – rằng những người xấu ác là “nguyên nhân” của bạo động hay điều tệ hại – không thể giúp chúng ta thật sự thấu hiểu về bản chất của bạo động và điều tai họa hay tìm ra những giải pháp thật sự. Quan điểm này cũng hữu ích như lý thuyết cho rằng có một người tí hon xấu ác đồng thời sinh trưởng bên trong hộp sọ của người xấu ác cho đến khi nó vọt ra lỗ tai của một người vào buổi tối, phát âm trọn vẹn, sẳn sàng gieo rắc những hạt giống xấu ác của nó vào thế gian.
Tuy nhiên, trong khi không nghi ngờ gì những hoàn cảnh tình thế có thể tác động đến thái độ của chúng ta, ý kiến cho rằng điều xấu ác chỉ đơn thuần là kết quả của những năng lực hoàn cảnh tạm thời hay những điều kiện hoạt động trên những con người lành mạnh bình thường có thể là một cực đoan khác, với một phạm vi giới hạn của hiểu biết. Những năng lực và điều kiện hoàn cảnh tình thế, là những nhân tố trên một trình độ. Nhưng khi Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ra, cũng có thể có những nguyên nhân của những trình độ khác. Thí dụ, trong thời gian sự diệt chủng người Do Thái xảy ra, có thể có những biến thể quan trọng trong việc tiến hành điều “độc ác”: Một số cai ngục trại tập trung nào đấy được biết như đập một cách có chủ tâm những đứa bé vào tường đến chết trong khi bắt những bà mẹ phải xem những cảnh ấy, bắt những đứa con gái làm tình với cha nó, bắt phụ nữ làm tình với những con ngựa, quẳng bạn tù vào nhà vệ sinh, và nhấn họ trong phẩn,… những cảnh kinh khủng là vô giới hạn. Nhưng không phải tất cả các cai ngục đều làm những hành vi tàn nhẫn như vậy. Những hành động như vậy rõ ràng đã đi quá xa sự vâng lệnh giản dị, vượt khỏi những gì người ta tiên liệu về những sức mạnh của hoàn cảnh hành động trên một người lương thiện bình thường.
Để thấu hiểu trọn vẹn nguồn gốc của xấu ác trong những trường hợp đó, chúng ta phải nhìn vượt khỏi những điều kiện tình thế đơn thuần và cũng nhìn vào trình độ cá nhân, nhận ra vai trò của những sức mạnh nội tại đầy quyền năng đã thúc đẩy những hành vi như vậy: sự thù hận thuần túy. Dĩ nhiên, những người không sinh ra với thù hận, những điều kiện xã hội rộng rãi hơn có thể đóng một vai trò ở đây – như chủ nghĩa độc ác bài Do Thái[5] trong trường hợp này đòi hỏi từ những điều kiện xã hội, tuyên truyền, giáo dục, và những nguồn gốc khác [6].
Tuy nhiên, khi nhìn vào những nguyên nhân của bạo động trên những trình độ khác nhau, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu sự thảo luận bằng việc chỉ ra rằng tại nền tảng căn bản nhất người ta có thể truy ra gốc rể của bạo động đến tâm thức loài người, đến những cảm xúc tàn phá và những tư duy điên đảo đã liên kết với những cảm xúc này. Đây là chủ đề mà bây giờ chúng tôi tiếp tục phát biểu.
***
[1] Hijab (Khăn che đầu) và Burka (áo trùm từ đầu đến chân) của những phụ nữ Hồi Giáo.
[2] Còn vụ diệt chủng ở Campuchia dưới thời Polpot thì thế nào?
[3] The Banality of Evil – Luận điểm cho rằng những kẻ độc ác tầm cở trong lịch sử nói chung, và vụ diệt chủng người Do Thái nói riêng không phải được tiến hành bởi những kẻ cuồng tín hay rối loạn nhân cách chống đối xã hội (sociopaths), nhưng đúng hơn là bởi những người bình thường chấp nhận những tư tưởng tiền đề của quốc gia, tôn giáo hay đàng phái của họ và tham gia với nhận thức rằng những hành động của họ là bình thường.
[4] Adolf Eichmann (sinh 19 tháng 3 1906– tử hình ngày 31 tháng 5 1962) là trung tá lực lượng vũ trang SS Đức Quốc xã. Vì ông có đầu óc tổ chức và có lý tưởng quốc xã sâu đậm, Eichmann được cấp trên là Reinhard Heydrich trao trách nhiệm chính trong kế hoạch thủ tiêu người Do Thái ở Châu Âu. Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, ông bị Đồng Minh truy lùng gắt gao, phải giả giấy thông hành hội Chữ thập đỏ chạy trốn sang sinh sống tại Argentina với cái tên giả là Ricardo Clemento. Đến năm 1960, nhân viên cục tình báo Mossad của Israel bắt được Adolf Eichmann, đưa về Israel xét xử. Năm 1962Eichmann bị tòa án Israel kết án và xử tử hình.
[5] Chủ nghĩa bài Do Thái (tiếng Đức Antisemitismus) là sự thù địch hoặc thành kiến đối với người Do Thái với danh nghĩa một nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo. Nó có thể ở nhiều mức độ, từ sự căm ghét cá nhân cho đến các hành động khủng bố bạo lực được thể chế hóa. Ví dụ cực đoan nhất của hiện tượng này là hệ tư tưởng của chủ nghĩa Phát xít của Adolf Hitler – cái đã dẫn đến cuộc diệt chủng người Do Thái ở châu Âu.
[6] Một người Tích Lan bị bắt do đảnh lễ Đức Phật tại Saudi Arabia
20.07.2012 07:55. Một thanh niên Tích lan được mướn làm người phục vụ trong nhà bị bắt tại Saudi Arabia vì đã lễ bái tượng Phật, là điều được xem là tội hình sự theo luật Shariah.Theo tổ chức Bodu Bala Senaa, thanh niên này mang sổ thông hành số 2353715 và được nhận dạng là Premanath Pereralage Thungasiri, đã bị cảnh sát Umulmahami bắt giữ. Theo tin tức tổ chức Bodu Bala Senaa nhận được về vụ án này thì thanh niên Tích lan này sẽ bị chém đầu. Mặc dù bản kháng án đã được đưa lên văn phòng Nhân sự ngoại quốc tại Battaramulla, cho đến nay vẫn chưa có điều gì được thực hiện.Cho dù thanh niên này là một Phật tử, ông bị kết án là đã tôn kính Đức Phật tại ngôi nhà mà ông được mướn. Tổ chức Bodu Bala Senaa nói thêm những ai được mướn làm việc tại các quốc gia Hồi giáo đều bị ngăn cấm thực hành các tôn giáo khác và nếu bị bắt được làm như thế, họ sẽ bị trừng phạt nghiêm trọng. Mới đây một phụ nữ Tích lan đã bị bắt vì nhìn một đứa trẻ tại một nơi mua sắm, nơi mà bà bị buộc tội là phù thủy do bà đeo một sợi dây đen nơi cổ tay. Tuy nhiên, tổ chức đã lên án nhân viên văn phòng nhân sự ngoại quốc đã không giáo dục công nhân Tích lan đến Saudi Arabia về các luật lệ tại các quốc gia liên quan đến các quyền hạn về tôn giáo. Do vậy, nhiều công nhân di dân đến Saudi Arabia đã gặp phải những tình huống như thế này do sự kém hiểu biết về các điều luật của quốc gia. Trong những tình huống trước đây nhiều phụ nữ Tích lan đã bị buộc phải theo Hồi giáo và mặc y phục truyền thống của họ và tính đến nay đã có 4 thanh niên Tích Lan bị chém đầu tại quốc gia này.
20.07.2012 07:55. Một thanh niên Tích lan được mướn làm người phục vụ trong nhà bị bắt tại Saudi Arabia vì đã lễ bái tượng Phật, là điều được xem là tội hình sự theo luật Shariah.Theo tổ chức Bodu Bala Senaa, thanh niên này mang sổ thông hành số 2353715 và được nhận dạng là Premanath Pereralage Thungasiri, đã bị cảnh sát Umulmahami bắt giữ. Theo tin tức tổ chức Bodu Bala Senaa nhận được về vụ án này thì thanh niên Tích lan này sẽ bị chém đầu. Mặc dù bản kháng án đã được đưa lên văn phòng Nhân sự ngoại quốc tại Battaramulla, cho đến nay vẫn chưa có điều gì được thực hiện.Cho dù thanh niên này là một Phật tử, ông bị kết án là đã tôn kính Đức Phật tại ngôi nhà mà ông được mướn. Tổ chức Bodu Bala Senaa nói thêm những ai được mướn làm việc tại các quốc gia Hồi giáo đều bị ngăn cấm thực hành các tôn giáo khác và nếu bị bắt được làm như thế, họ sẽ bị trừng phạt nghiêm trọng. Mới đây một phụ nữ Tích lan đã bị bắt vì nhìn một đứa trẻ tại một nơi mua sắm, nơi mà bà bị buộc tội là phù thủy do bà đeo một sợi dây đen nơi cổ tay. Tuy nhiên, tổ chức đã lên án nhân viên văn phòng nhân sự ngoại quốc đã không giáo dục công nhân Tích lan đến Saudi Arabia về các luật lệ tại các quốc gia liên quan đến các quyền hạn về tôn giáo. Do vậy, nhiều công nhân di dân đến Saudi Arabia đã gặp phải những tình huống như thế này do sự kém hiểu biết về các điều luật của quốc gia. Trong những tình huống trước đây nhiều phụ nữ Tích lan đã bị buộc phải theo Hồi giáo và mặc y phục truyền thống của họ và tính đến nay đã có 4 thanh niên Tích Lan bị chém đầu tại quốc gia này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét