Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2021

TRƯỜNG CA NGƯỜI PHỤ NỮ.

Thật bất ngờ, một cuốn sách mang tựa đề: “ Phật Việt Nam – dân tộc Việt Nam”, tưởng chừng khô khốc như vùng đất đầy sỏi đá trong lãnh vực biên khảo, hay ít nữa là luận án triết sử.

Qua ba chương, chỉ dừng lại chương ba nói về Phật Việt Nam, phụ nữ Việt Nam, tác giả lược qua những phụ nữ của Ấn Độ, Trung Quốc để làm nền cho phụ nữ Việt Nam nổi bậc trên nền trời Đông Á.Nếu thế thì chả có gì đáng nói; ngòi bút biên khảo bổng dưng nở hoa trong tâm tưởng của tác giả khi nói về người mẹ. Dù mẹ  của bất cứ nơi đâu, mẹ Mỹ, mẹ Âu, mẹ Ấn, mẹ Hoa hay mẹ châu Phi cũng đều là mẹ, được Việt Nam hóa thân vào mẹ rừng, mẹ núi, mẹ sông biển, mẹ đất đai, mẹ dân tộc…vì thế, ông cha ta đã tôn vinh mẹ “thượng ngàn, mẹ thoải ( thủy),Địa Mẫu Tứ Phủ trong đó đạo thờ Mẫu tồn tại và phổ biến tại miền Bắc, nhạc “chầu văn” được biến tấu vào Thừa Thiên-Huế, vừa mang phong cách hiện đại, vừa duy trì âm điệu truyền thống.

Tứ phủ bao gồm:

  • Thiên phủ, Mẫu Đệ Nhất (Mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng mây mưa, gió bão, sấm chớp. Thần chủ đứng đầu trong Tứ Phủ.
  • Nhạc phủ, Mẫu Đệ Nhị (Mẫu Thượng Ngàn) trông coi miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sinh.
  • Thuỷ phủ , Mẫu Đệ Tam (Mẫu Thoải) trị vì các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước và ngư nghiệp.
  • Địa phủ , mẫu đệ tứ, (Mẫu Địa) quản lý vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống.

Ngoài hệ thống “cộng đồng Tứ phủ” chính thống, còn vô số chi nhánh trực hệ các cô cậu nằm trong Tứ phủ, phần lớn đồng cô.Như vậy, chứng tỏ ông cha ta đã xem “mẫu hệ” là nồng cốt trong cộng đồng xã hội.

Lượt qua quá khứ Việt tộc, Chế độ mẫu hệ tồn tại ở cộng đồng người Chăm và một số dân tộc vùng cao thuộc Tây BắcTây Nguyên. Ở Việt Nam, đã có bằng chứng về sự tồn tại của chế độ mẫu hệ trong văn hoá Bắc Sơn, thuộc sơ kỳ đồ đá mới, niên đại khoảng 8.000 năm trước. Với các di chỉ được phát hiện ở Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Ninh Bình, Quảng Bình…

Trước hết, huyết thống của Lạc Long Quân là được tính theo dòng mẹ. Cho nên mới có chuyện Lạc Long Quân, vốn là cháu ngoại của Động Đình Quân tức Thần Long hay Rồng Thần cai quản vùng hồ Động Đình ở phía Nam Trường Giang, nói với Âu Cơ: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên…”. Kế đó, tất cả các vị vua huyền thoại của thời lập quốc, từ Kinh Dương Vương Lộc Tục đến Lạc Long Quân Sùng Lãm và Hùng Vương, đều được lên ngôi trị vì trên địa bàn của mẹ mình ở phương Nam. Phối hợp các kết quả khảo cổ học, dân tộc học và truyền thuyết, chúng tôi cho rằng có cơ sở để đặt ra giả thuyết: trong giai đoạn đầu từ khi nền nông nghiệp lúa nước ra đời (khoảng hơn 4.000 năm trước) cho đến khi nhà nước Văn Lang thành lập (khoảng 2.700 năm trước), cư dân Việt-Mường là một cộng đồng mẫu hệ;Chế độ mẫu hệ cũng để lại dấu tích trong truyền thuyết họ Hồng Bàng nói về sự hình thành dân tộc Việt và nhà nước Văn Lang. Bóc tách lớp vỏ phong kiến được khoác lên truyền thuyết, hoàn toàn không khó để thấy rằng trước thời đại Hùng Vương, người Lạc Việt có thể vẫn còn theo mẫu hệ. Hiện nay, chế độ mẫu hệ vẫn còn phổ biến ở các tộc người thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian) như Jarai, Êđê, Chăm, Raglai, Churu, cư trú ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, và ở các tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic) như M’nông, K’ho, cư trú ở Nam Tây Nguyên liền kề với các tộc người Nam Đảo.

(TS. LÝ TÙNG HIẾU (Khoa Văn hoá học, Trường Đại học KHXH & NV TP.HCM).

Không riêng Viêt Nam, trên thế giới vẫn có những bộ tộc theo chế độ mẫu hệ như:

CherokeeChoctawSicewaSenecaMinotoan Gitksanngười HaidaHopiIroquoisLenape, người Navajo và Tlingit của Bắc Mỹ; người Kuna của Panama; Kogi và Carib của Nam Mỹ; người Negeri Sembilan, Malaysiangười Kuna của Panama; người Kogi,Minangkabau ở Tây SumatraIndonesia và Negeri SembilanMalaysiaTrobrianders Dobu và Nagovisi của Melanesia; Nairs của Kerala và Bunt của Karnataka ở phía nam Ấn ĐộKhasi Jaintia và Garo của Meghalaya ở đông bắc Ấn Độ; Ngalops và Sharchops của BhutanHồi giáo và Tamils ở phía đông Sri LankaMosuo của TrungQuốcKayah củaĐôngNamÁ, Picti của Scotland, Basque của Tây Ban Nha và PhápAinu của Nhật BảnAkan bao gồm cả Ashanti của Ghana; hầu hết các nhóm này gọi là "vành đai mẫu hệ" của miền trung nam châu Phi; Tuareg ở phía tây và bắc . 

Châu Phi (Bộ tộc Akan của Ghana)  Ấn Độ (Bộ lạc Khasi) Namibia (Quần đảo Owambos) Trung Quốc (bộ tộc Mosuo) Indonesia (Minangkabau)   Đài Loan  (Cộng đồng người Amis)  Thái Lan (Dân tộc Lào) (nguồn Wikipedia)

Trong những năm gần đây, các nhà sinh học tiến hóa, nhà di truyền học và nhà nghiên cứu sinh vật học đã đánh giá lại các vấn đề, nhiều trích dẫn di truyền và bằng chứng khác cho thấy mối quan hệ họ hàng thời kỳ đầu của con người có thể là mẫu hệ. Không phải vô cớ tượng Nữ thần Tự Do tại New York do Pháp tặng Mỹ,vào năm 1886 tại sao không tạc Nam thần mà là Nữ thần?

                                                     ***

 Như vậy từ xa xưa, cha ông ta đã biết tôn vinh phụ nữ; một phụ nữ đã làm nên lịch sử thuở bình minh của dân tộc như  hai bà Trưng.Một phụ nữ đầu tiên trong lịch sử nhân loại chống ngoại xâm, luôn đặc biệt hơn những phụ nữ chấp chính trên ngai vàng xưa kia và tham chính hiện nay như Theresa Mary May, Margaret Thatcher, Thái Anh Văn, kamala Harris, nữ Thủ tướng Indira Gandhi, Võ Tắc Thiên…

So sánh lịch sử  phụ nữ thế giới, tác giả tôn vinh chiến công hiển hách của hai bà, đồng thời đủ luận cứ bênh vực sự thất bại của hai bà sau ba năm chấp chính làm nên công tái tạo.

Từ đó, tác giả suy tôn bản chất phụ nữ Việt Nam: “ Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, có không biết bao nhiêu vị nữ lưu mới hôm qua còn là một phụ nữ đoan trang, thùy mị, mà hôm sau đã trở thành dũng tướng nơi đầu sóng ngọn gió của tổ quốc, xông pha nơi chiến trường, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lấy xương máu của mình tô điểm cho giang sơn Đại Việt.”

“Nơi chiến trường,Mẹ hiện thân thành dũng tướng đi trong gươm đao bom đạn;ở nhà,Mẹ là nội tướng chăm lo cho mái ấm gia đình, cho chồng con.Khi người chồng lên đường bảo vệ tổ quốc, Mẹ ngày đêm mong mỏi, kiên trinh chờ đợi. Dù chồng đã hy sinh,Mẹ vẫn bồng con đứng đợi chồng về, quên thời gian, quên sự hủy diệt của vô thường…Hòn vọng phu là tượng đài về Mẹ Việt Nam…”

Như suối nguồn tuôn chảy, tác giả miên man ca tụng về phụ nữ Việt Nam, ca tụng về Mẹ, nói về Mẹ, chẳng những thế, còn dẫn chứng câu nói của Herman Hersse:”không có mẹ,ta sẽ không biết yêu. Không có mẹ ta sẽ không biết chết”. Từ đó, tác giả nói rằng:” Mẹ sinh ra đời không phải để được yêu mà là để yêu, để thương.Yêu thương tổ quốc, cha mẹ, chồng con”…

Từ những phẩm chất tôn quý của người phụ nữ, đại biểu người Mẹ, hóa thân Mẹ thành những Phật Việt như Phật bà – Phật Phấp Vân trong Tứ Pháp Phật thế kỷ II và Phật Bà chùa Hương thế kỷ XVIII.

…”Với ý nghĩa đó, hệ thống Tứ Pháp Phật: Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi,Phật Pháp Điện: Phật Việt Nam được hình thành…Phật Pháp Vân, vị Phật nữ tính, hay còn gọi là Phật bà, Phật mẫu”…

Nếu xem các nữ Thần là Phật Việt, thì phải hiêu rằng đây là Phật giáo nội sinh hòa nhập tín ngưỡng bản địa, không còn phân biệt trọng Nam khinh Nữ, đó là tính bình đẳng của Phật giáo- không có Phật Nam Phật Bắc thì không có Phật Nữ Phật Nam.

                                                       ***

Trong một thời khắc tổ quốc lâm nguy, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh thì tinh thần trách nhiệm thế tục cũng như tính dẳng giác trong Phật giáo chỉ còn giá trị chung là con người, khả năng con người trước trách nhiệm và khả năng thăng hoa. Tác giả tuôn trào cảm xúc trước đặc tính cao đẹp của phụ nữ Việt Nam, đủ đánh bạt ý tưởng trọng nam khinh nữ ăn sâu trong xã hội, đồng thời nói lên tính bình đẳng trong giáo lý nhà Phật.. Phải chăng, đó là lý do để tác giả dồi dào cảm xúc trong chương III nói đến hai Bà Trưng, và Phụ nữ Việt Nam luôn tồn tại những đặc tính ưu việt?

MINH MẪN                                                                                                       

 27/3/2021

 



 

Thứ Sáu, 26 tháng 3, 2021

HÀNH GIẢ - HÀNH TRẠNG và HÀNH TRÌ

Nếu không xem Phật giáo là một tôn giáo, những ai đến với Đạo Phật, được xem là một hành giả chọn con đường tiến đến giải thoát, bởi vì, ngoài đẳng cấp Nhân-Thiên, là hành trạng tô bồi thiện nghiệp cho quả vị phước báu, vẫn còn trôi lăn trong tam giới.

                                                  ***

Hầu hết, căn cơ đại chúng thường chỉ nương tựa vào tha lực, vì thế, van xin, cầu nguyện, bái vọng… biến Phật giáo thành một tôn giáo nhiều lễ nghi phức tạp; duy chỉ có Phật giáo Bắc tông, ảnh hưởng lễ tục Nho gia và đức tin truyền thống địa phương, dĩ nhiên vẫn tốt hơn “nhất xiển đề”, từ đó biết tạo thiện nghiệp, bố thí, phóng sanh, làm lợi ích cho xã hội; nhân tốt hữu lậu tất sanh phước hữu lậu, không thể cầu toàn giải thoát nếu không thực hiện sâu vào hoán chuyển tâm thức.

“Phước Trí nhị nghiêm” là hạnh nguyện Bồ Tát đạo. Hành thiện mà không tu huệ, đó là quả vị “Nhân Thiên”, kết quả giàu sang, sung túc vật chất, chưa thể đi đến giải thoát. Chuyên hành trì tuệ giác mà thiếu vun bồi gốc rễ phước báu, danh từ chuyên môn gọi là “càn huệ địa”, vùng đất tuệ giác khô khốc như hoa mọc trên đất nắng hạn. Có những hành giả chuyên tu miên mật, ít được cúng dường, đây là kết quả thiên về tu huệ bỏ quên hành phước.

Chúng ta đang nói về những hành giả cưu mang công hạnh Bồ Tát đạo, đang thâm nhập vào thế gian, vừa hành trì mật pháp, vừa tế độ nhân sinh.Phẩm nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm,nói về công hạnh của Thiện Tài đồng tử cầu pháp 53 vị Thánh hạnh, từ Thánh quả đến tục đế, có nghĩa từ hữu hình đến vô hình, từ tục đế đến Thánh đế đều cầu học, thâm nhập mọi lãnh vực; học đủ tất cả về sắc pháp, tâm pháp và phương pháp hành Bồ Tát đạo. Trong đó, có cả ngũ minh:Thanh minh,Công xảo minh, Y Phương Minh, Nhân Minh, Nội Minh.
Hai vị chủ đạo hướng dẫn cho Thiện Tài đồng tử là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho  đại nguyện.

Pháp giới không chỉ là hiện tượng vũ trụ, còn là pháp tánh, là chân như, là bản thể tánh giác, là pháp thân thường tại.Hành giả thâm nhập pháp giới là nhập vào tánh giác, đi từ tục đế tiến đến chân đế. Kinh Kim Cang nói “Như Lai, tức vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.đó là pháp tánh.
“Phóng chi tắc cai la thế giới, thu chi tắc tế nhập vi trần” (Buông ra thì trùm khắp pháp giới, thâu lại thì nhỏ hơn vi trần), nên pháp giới là tâm của vũ trụ, đồng thới cũng là tâm của con người. Theo Kinh Hoa Nghiêm: 1. Sự vô ngại pháp giới: 2. Lý vô ngại pháp giới: 3. Lý sự vô ngại pháp giới.sự sự vô ngại pháp giới. Lý và sự là phản ánh tâm thức, tâm thức căn bản vô hinh vô tướng, do đó lý sự đều vô chướng ngại trên đạo lộ hành trì. Pháp giới là đối tượng phóng tâm của thức, Duy thức gọi là “Tam thế duy tâm, vạn pháp duy thức”

Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam

(Do giả thiết ra ngã và pháp, mà có các hiện tượng sai khác. Tất cả hiện tượng  đó đều do thức chuyển biến phát sinh. Thức năng biến nầy có ba loại: thức Dị thục, thức Tư lương, và thức Phân biệt các đối tượng

Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt

(Ý thức thường hiện khởi, chỉ trừ khi sinh lên cõi trời Vô tưởng, khi nhập vào Vô tưởng định và Diệt tận định, lúc ngủ mê, và khi bị chết giấc (năm trường hợp trên đây ý thức không hiện khởi tác dụng).

 Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức

 (Do các thức chuyển biến sinh khởi ra năng phân biệt và sở phân biệt; chính các pháp nầy đều không, cho nên tất cả là Duy thức.)

Vì thế Thiện Tài đồng tử đầu tiên gặp Bồ tát Văn Thù tức đầu tiên khởi sự hành trì là “căn bản trí, tức trí tuệ .Được hướng dẫn thông qua mọi thể trạng chân và tục đế, sau đó Thiện Tài đồng tử đến bái lễ đức Quán Âm, khởi phát tâm đại bi phổ quát. Đây là tâm từ căn bản của mọi hành giả cũng như chư Thánh giả. Khi hành giả kinh qua mọi cảm nghiệm trong cuộc sống, chọn một pháp hành để hướng nội”nội quang phản chiếu”; dùng trí tuệ hướng vào nội hành để lắng nghe mọi cảm thức, mọi hạt giống tham dục , mọi kiết sử, hóa giải nghiệp thức bằng sóng âm tự tánh hay còn gọi là âm thanh nội tại; khi âm lực phát triển thì mọi cảm thức, mọi chủng nghiệp dần bị bào mòn đến khi căn bản thức biến thành bạch tịnh thức, thì trí tuệ còn gọi là ánh quang minh phát sinh. Ánh sáng của tuệ giác hay âm thanh nội tại cuối cùng là một. Đạo gia gọi là “vạn thù quy nhất bản”, đây chưa phải là điểm cuối khi chúng còn là một; vấn đề đặt ra là “nhất quy hà xứ?” Còn trụ lại một là còn điểm vướng của tâm thức
Kinh Hoa Nghiêm nói đến 10 loại thân là nói đến hiện tượng và bản thể.


1. Chúng sanh thân 
2. Quốc độ thân
3. Nghiệp thân
4. Thanh Văn thân
5. Duyên Giác thân                                                                                                   6. 6 Bồ Tát thân                                                                                                                                  7. Như Lai thân
8. Trí thân
9. Pháp thân
10.  Hư không thân: Thế giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.

Trong tiến trình hành trì của Bồ tát đạo đạt đến giải thoát, phải kinh qua lắm trạng huống là:

Hoan hỷ địa (tâm ý hoan hỷ) 2. Ly cấu địa (xa lìa phiền não) 3. Phát quang địa (trí tuệ chói sáng) 4. Diệm tuệ địa (trí tuệ rực rỡ) 5. Cực nan thắng địa (vô cùng khó khăn mới đạt được) 6. Hiện tiền địa (chân như hiển hiện) 7. Viễn hành địa (đi xa) 8. Bất động địa (không lay động) 9. Thiện tuệ địa (trí tuệ diệu dụng) 10. Pháp vân địa (mây pháp che khắp cả muôn loài chúng sinh).

Sở dĩ Kinh Hoa Nghiêm phân tích tỉ mỉ là biểu thị trạng thái tâm từ tục đế đến chân đế. Từ tướng đi vào tánh. Vì thế Văn Thù là trí tuệ,Phổ Hiền là công hạnh. Tướng tánh viên thông, nhất đa tương dung.

                                                   ***

Hành giả vẫn sống trong đời mà không bị  đời lôi kéo, bởi thế gian pháp tức Phật pháp. Thâm nhập vào đời “nhập pháp giới” của Thiện tài đồng tử là hạnh tu tích cực, vừa độ đời, vừa chuyển hóa nghiệp thân; tiếp nhận mọi thế sự mà không nhiễm sự thế; Phải chăng, đó là pháp hạnh nội quán, luôn lắng nghe nội tại cũng như lắng nghe niềm thống khổ của chúng sanh, sau khi tiếp nhận sự giáo hóa của 53 vị giáo thọ, Thiện Tài đã đến với hạnh Quan Âm là đoạn đường hành trì quyết định của một hành giả để thoát khỏi tam đồ ác đạo, nhân quả luân hồi?

MINH MÂN                                                                                                             26/3/2021





Thứ Ba, 23 tháng 3, 2021

AI VỀ ???


Con đường đó, đất đỏ Bazan dẫn đầu 10% diện tích toàn quốc, cho cây cối xanh tươi và lôi cuốn dân cư miền ngoài chọn nơi đây làm quê hương thứ hai để cuộc sống phong phú hơn, ấm no hơn. Năm tỉnh Tây nguyên, đa phần miền Trung, sau 1975 thêm một số di dân phía Bắc, nhưng riêng Buôn Mê quy tụ giới trí thức Phật giáo một cách tình cờ, lạ kỳ như rồng gặp mây. Chả ai bảo ai, chả ai tìm đến ai, bổng một sớm nắng lên, phủ ấm khí lạnh rừng xanh,nhìn mặt nhau, nhận ra nhau là anh em đồng Đạo cùng sinh hoạt dưới mái chùa đơn độc, mái chùa duy nhất do cư dân miền Trung tạo lập, làm điểm tựa tâm linh, dần sau đó, lô nhô vài thảo am lớn dần thành ngôi Tam Bảo lan tỏa khắp núi rừng Buôn Mê; rồi đoàn thể áo lam,rồi đạo tràng tu tập, rồi văn hóa Phật giáo thành hình bởi những tâm đạo, những trí thức, những nhạc sĩ, văn nhân, làm thành vùng đất văn hóa Phật giáo gương mẫu miền cao Trung nguyên; trong đó, Vô Ưu trở thành tiếng nói đại biểu cho năm tỉnh, có một vị trí xứng tầm suốt hơn 20 năm tồn tại.

                                                ***

Chưa có tạp chí Phật giáo nào trong nước lan tỏa khắp phố thị, nhất là Sài Gòn, đủ sức cuốn hút chư tôn đức, văn nghệ sĩ Phật giáo tại vương quốc “hòn ngọc viễn Đông” để ngày xưa đoàn Trung Tâm VHVNPG Nhất Chi Mai & VNSPG phải lê gót lên dự “18 năm Vô Ưu” năm nào,  tồn tại và phát triển.

Vô Ưu bấy giờ vỏn vẹn BBT đếm trên đầu ngón tay, do anh Tạ Nam Trân “chủ soái”. Giờ đây, Phan Bá Sĩ, Lê Tất Sĩ, Nguyễn Tiến Thảo, Trịnh Dung, Thu Cúc…dưới sự điều hành, chủ biên  TT T Giác Phổ, chung tay cho Vô Ưu trở thành Phù Đổng, vươn vai ngút ngàn tận mây xanh; chả những thế, được TT T Chành Tài, viện chủ tu viện Phước Hoa, Long Thành hậu thuẩn, khích lệ, đôi lúc bao tiêu khi Vô Ưu bị “bội thực”.

Nhân ngày chung thất trai tuần của cố nhạc sĩ Phật giáo Hằng Vang. Kỷ niệm 80 năm của lão tướng chủ soái Vô Ưu, đoàn Trung Tâm VHVNPG Nhất Chi Mai & VNSPG, do TT Huyền Lan tổ chức, lên vùng đất Bazan tỏ tình thâm ân pháp hữu với hai sự kiện lớn, thêm những nghĩa cử đối với nhạc sĩ Phật giáo lão thành Phan Phan Nguyễn, các cộng tác viên Vô Ưu và những thân hữu đạo tình gắn kết Phật sự như đất đỏ Bazan khắn khít với hoa màu nuôi sống dân cư.

Anh chị em miền cao rất ư hiếu khách,  gia đình cố nhạc sĩ Hằng Vang và Tạ gia trang vô cùng hậu hỷ đoàn, chẳng những đầy cái bụng mà còn no lỗ tai do đàn con của cố nhạc sĩ ngẫu hứng vang ca nhạc khúc “gia tài của ba”. Họ say sưa như chưa bao giờ được trổ tài nghiệp dư, ôi, những con công khoe sắc giữa trưa hè…rồi quà cáp đáp đền ân nghĩa; ngỡ chừng quà kỷ niệm từ Sài Gòn lên, sẽ nhẹ xe lúc về, trái lại, xe vẫn đầy không khác lúc đi lên. Gia đình cố nhạc sĩ tặng đoàn bao ca khúc, thì đoàn cũng tặng lại buổi buffet tại Tạ gia trang. Con chim Họa Mi của Vô Ưu (Thu Cúc) với tài nghệ chuyên nghiệp của nhạc sĩ kiêm ca sĩ, nhạc ngoại lẫn nhạc nội đã làm sinh khí bữa tiệc ấm hẳn lên. Thợ Lặn của Phước Hoa  (Tâm Tuệ), ngàn năm một thưở, cao hứng thế nào cũng góp phần nhạc khúc của đứt (đứt khúc) và Võ Lâm Chi (Chi Hải sản) cũng mạnh dạn hơn cả lúc chào hàng cho công ty. Nhà thư pháp Thụy Quang (trung tâm rắc rối) bảo là hai con cóc nay đã khai khẩu, có lẽ đời sắp tới thời Hoàng Kim chăng? Cái anh chàng nhạc sĩ kiêm nhạc công cứ phải rà tông như cua bò đua với rùa trên bãi cát, Giác An không cần nói lái mà phải tội, do tính lề mề chuyên trễ hẹn nên được  bí danh”có gì mà phải vội”. Tuy thân tình với “”đại tướng” Đặng Công Ninh, vẫn bị Đại tướng phê bình cực gắt, thế mà tính nào tật đó, thật dễ thương! Buổi lễ mừng thọ 80 năm của anh Tạ, cô “sữa non” (Đỗ thị Yến Linh) chuồn khỏi cao nguyên đất đỏ ví số đỏ hơn đất cao nguyên khi nghe tin người nhà sớm bỏ trần gian  đoàn tụ với ông bà.Anh chàng “pháp Hoa kinh” ( Chúc Linh), cũng góp vui nhạc phẩm chuyên đề kinh Pháp Hoa mà chàng ta đang đầu tư công sức tán dương. Cây tre miễu nuôi lớn nhờ thơ (Hạnh Phương) mủm mỉm, thỏ the như gái đôi mươi đã làm cộng đồng mạng ngỡ chừng ni cô tuổi tròn trăng, cứ rù rì trọ trẹ đâu đó trên bàn tiệc.Cái anh chàng “nhấp nháy” Quang Hải phải lăng xăng suốt để chớp vài kiểu chuyên nghiệp, không cần ăn, chỉ cần chớp.Còn phu nhân của chàng “nhấp nháy” là cô “yêu meo”, đến nhà Trịnh Dung thấy mèo như vớ phải của, không cần chủ đồng ý hay không, cứ ôm nựng cho đến khi con bé không chịu nỗi, vùng vẫy mới buông tha. Con “bé ròm” (Bich Tiên) say mê muốn thành nhà báo chuyên nghiệp, phải suốt ngày ôm máy quay chỉa về thiên hạ. Đấy, đoàn văn nghệ sĩ Phật giáo thành phố SG, trung tâm văn hóa văn nghệ Phật giáo Nhất Chi Mai đã nổi danh trong chuyến về miền gió hú năm 2021. Chả biết, rồi đây, 2 năm nữa kỷ niệm Vô Ưu 25 năm, đoàn sẽ nổi danh kiểu nào nữa, nhưng dù kiểu nào thì TT viện chủ và nữ thí chủ công ty Hán Linh phải nai lưng gánh nợ.

                                                    ***

Một chuyến đi được TT Huyền Lan hoạch định tỉ mỉ đầy tình nghĩa, không bỏ sót ai trong BBT Vô Ưu, cộng tác viên, nhạc sĩ có công với Phật Giáo. Giao kết với chư Tôn đức trong Giáo hội Buôn Mê, đã gắn kết thâm tình đạo nghĩa người con Phật vùng cao với văn nghệ sĩ PG Sài Gòn, trung tâm văn hóa văn nghệ Phật giáo Nhất Chi Mai. Ngoài thâm tình đạo nghĩa, những món quà vô giá đến từng nơi đều lưu dấu Phước Hoa. Ước gì mỗi tháng có một chuyến đi dài ngày như thế, cho dù phải đem thế chấp sổ đỏ tu viện Phước Hoa, anh em cũng hả dạ, sáng mắt ta, tối mắt người…

MINH MẪN                                                                                                                    24/3/2-21  

  ( KỶ NIỆM CHUYẾN ĐI VỀ MIỀN ĐẤT ĐỎ CÓ GIÓ HÚ QUANH NĂM)

 

TIẾP NHỊP TÂY NGUYÊN


Sao lại phải bốn mươi chín ngày???

Bốn mươi chín ngày, một trăm ngày hay một năm, ba năm…cũng thế thôi, Tây nguyên vẫn lá rừng xanh tươi, cà phê vẫn theo mùa trĩu hạt, tiêu hay điều cũng tùy tiết thay sắc lao xao; nhịp sống vẫn tràn đầy hơi thở rừng núi, và con người, vâng, con người có nhiều lối rẽ trên đoạn đường không dài lắm so với dốc đồi bạt ngàn muôn thuở, Tây nguyên!

                                                           ***

Thoát khỏi vành nôi, lối rẽ vào đời với mầm non nhà trẻ; tuổi đôi mươi vạch lối tìm chữ nghĩa cho bước tiến đời người; ngả ba đường chập chờn hào quang réo gọi tham vọng lợi danh; bên cạnh hơi thở, bao cành nhánh nghiệp quả kéo lôi vào ngõ hẹp; ngả rẽ cuối đời vẫn là lòng đất mẹ. trãi hoa lối rẽ đó là những tiếc thương với hạt lệ thương đau tiển người đi trước. Năm châu bốn bể lối cụt giống nhau, khác chăng là sự tưởng nhớ gắn vào tháng ngày theo tập tục xa xưa.

Phương Tây quan trọng “sinh nhật”, Á đông  “giỗ chạp” nằm lòng. Xã hội thực dụng chết là hết, người nặng tâm tình tính với ngày tháng cúng cơm. Bốn chín ngày tuy không  từ Phật giáo, nhưng truyền thống nghìn đời vẫn chưa nét phôi pha.

Hằng Vang, ôi Hằng Vang, người mà Phật tử xem là đàn anh khả kính, trọn đời chay lạt, phục vụ nghệ thuật âm nhạc cho tuổi trẻ đơm hoa. Là một trong những đàn anh tên tuổi hiếm hoi đi vào sử sách âm nhạc Đạo Phật. Từng  được  lãnh đạo Giáo hội PGVNTN trao tặng khen thưởng; Một thời gian dài chìm lặng theo gió hú Tây nguyên. Như Đông trùng được ấp ủ dưới lòng đất lạnh để trổi dậy khi nắng Hạ ấm lòng. Cũng thế đấy, dưới lòng đất đã bao lần người đời dẫm đạp, khi trồi lên, đón nhận lắm ngưỡng mộ nắng hồng. Ai làm người không từng sai lầm? Toàn vẹn chỉ là bậc Thánh. Cổ nhân dạy:”nghĩa tử là nghĩa tận”; làm người con Phật, tấm lòng nhân hậu, xả ly làm đầu, trước di ảnh ai không ngã lòng bái tiển người thảnh thơi về cõi lạc, huống thay, một tu sĩ trong Đạo chưa gọi là già, tuổi đời không còn là trẻ, đã quan tâm đến giới văn nghệ một cách tận tình, chu đáo; chăm chút từng tánh hạnh, sức khỏe, sở thích mỗi người; quán xuyến, điều hành như một dũng tướng trước thiên la địa võng sự kiện. Người điều hành đáng tin cậy như thế , làm sao bỏ sót ngày chung thất của một nhạc sĩ tên tuổi rạng ngời hơn tám mươi năm thầm lặng chốn đại ngàn!

Thầy Huyền Lan, viện chủ tu viện Phước Hoa Long Thành, đủ phước báu để một đại gia hậu thuẩn trọn gói mỗi khi thầy khởi xướng phật sự. Y báu chánh báu đủ đầy, thầy trò tô bồi thêm phước nghiệp trong lãnh vực văn học nghệ thuật một cách chu đáo mà chưa ai chu toàn như thế. Trong giới tu sĩ Phật giáo không thiếu những vị quý trọng giới văn nghệ sĩ, nhưng trách nhiệm từ A đến Z có một không hai như thầy.

Đoàn người từ Sài Gòn lên Daklak, lễ vật đầy đủ, tiền trạm lên trước chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho đoàn, đến gia thất của nhạc sĩ Hằng Vang sắp xếp trang trí, cho thấy tài tổ chức của người lãnh đạo có khác.

                                                       ***

Từng người niêm hương trước di ảnh cố nhạc sĩ, chín gái bốn trai cung đối linh đường kính thành bái lễ.”Gia tài của ba”, tập nhạc để lại, các con đều hát say sưa như tiếp nối hơi thở mạch máu gia phong. Hằng là con gái đầu trân quý từng nhạc phẩm, gom góp như cóp nhặt những hạt minh châu sáng giá. Quốc Văn trai trưởng cũng từng xuống tu viện Phước Hoa tháng giêng ngày rằm đáp lễ tấm lòng cao quý của thầy viện chủ. Gia đình cháu con tề tựu vào ngày chung thất như trăm sông xuôi  nguồn sôi động truyền thống Phật gia; chẳng những thế, còn nguyện ăn chay có thời hạn như trả nợ Phật Trời; biết đâu đó là hạt giống gieo vào Phật tâm.

Gia đinh cháu con ngoan hiền, một lòng mộ đạo hiếm hoi, thánh thiện. Trai có thể khác khuôn mặt, nhưng gái thì khó phân ai chị ai em, cứ như khuôn đúc công nghiệp, cái chung vẫn là tấm lòng hướng về Tam bảo.Kỷ niệm về ba, các con đều thuộc những gì ba sáng tác, dị khẩu đồng âm, xướng lên say sưa âm điệu du dương ngoài chương trình mong dợi. Ai bảo cố nhạc sĩ chỉ biết tán tụng dưới chân Phật đài bằng những họa tiết đạo ca? cái tên mà thế gian chán chường bộ râu bất trị nằm bên dòng sông Srêpôk (Sêrêpôk) có tên Lê Sa Đà, tiết lộ cố nhạc sĩ khi còn sanh tiền, ngoài nhạc đạo, còn có những tình khúc ngọt hơn mít ướt, mùi hơn sầu riêng, vẫn thấm đượm trong dòng máu cung đàn bảy nốt.Các con đã biết, các con cũng hát…

                                                           ***

Bốn chín ngày của cố nhạc sĩ, không còn là lễ tục truyền thống, trở thành điệp khúc “Nghê thường” sống lại, thầy trò hòa nhập cung điệu cảm rung. Cầu nguyện, dâng quà chỉ là hình thức bắt nhịp nâng cao tình đạo lữ, nghĩa thầy trò, để thấy rằng cả một đời cố nhạc sĩ trọn hiến cho Đạo trở thành quả ngọt để cháu con sống mãi trong sự nghiệp cha ông, chất keo sơn gắn bó thầy trò qua bữa cơm tình nghĩa trong căn nhà chôn sâu kỷ niệm, điểm dừng chân cuối đời sau đoạn đường lưu lạc tha hương cho bầy con khôn lớn thành đạt.

Ôi, vành khăn tang không biêu lộ nét đau thương, bao cặp mắt rạng ngời với niềm tin gửi gấm vào ánh đạo. Bốn chín ngày, vâng, bốn chín ngày chả là đoạn đường giao kết của “trung ấm thân” giữa âm dương đó sao? Hay là nốt nhạc liên khúc tình thầy nghĩa trò, để thấy rõ ý thức sâu sắc của thầy đối với người đã ra đi, còn tiếp tục trách nhiệm dẫn dắt cháu con tiếp đoạn đời còn lại. Bốn chín ngày chỉ là khúc rẽ, Đời người có vô vàn khúc rẽ, cõi âm kia cũng lắm lối đi về…sao chỉ có 49 ngày?

 

MINH MẪN  23/3/2021 ( KỶ NIỆM CHUYẾN VÊ DAKLAK DỰ CHUNG THẤT CỦA CỐ NHẠC SĨ HẰNG VANG DO TT T. HUYỀN LAN TỔ CHỨC)































Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021

NHÓM THIỆN NGUYỆN TỪ HÒA

 

Chiếc xe bán tải xuất phát từ đường Phan Anh, nơi cơ sở giáo dục trẻ em đường phố, con em lao động nghèo, trẻ bán vé số, nhặt ve chai…vào mỗi chiều, được vợ chồng anh Hùng tổ chức lớp học miễn phí, giúp cho các cháu bữa ăn chiều, hỗ trợ các cháu sách vở, thuốc men để cha mẹ bớt phần nào gánh nặng.
Xe bán tải của anh Tấn đón đoàn lúc 6 giờ sáng. Vật dụng cá nhân của các thành viên đã chuẩn bị từ ngày hôm trước, thế mà khi khởi hành độ hơn cây số, người nhà điện báo anh Hùng bỏ quên ba lô áo quần. lương thực chuẩn bị cho ba ngày đường không sót mà lại sót áo quần, đúng là người mang tên Hùng có khác.
Anh Hùng trước đây hơn 6 tháng, nhận sự tài trợ của nhóm anh Tiến về miền Tây lập phòng thuốc từ thiện,Thiện Lành, nay trở lại thăm viếng, cơ sở đã hoàn chỉnh, đi vào hoạt động khá bài bản.Tinh thần anh em đồng đạo, ngoài giờ lao động sinh nhai, phần lớn dành cho nhiều công tác từ thiện. Có những anh em giữ xe ban đêm, bán cà phê hay làm bất cứ việc gì để có đồng tiền lương thiện, đóng góp vào nhiên liệu cho xe tải thương từ thiện hoạt dộng; cũng không thiếu anh em ngoài những đồng tiền mồ hôi nước mắt, còn góp công xây dựng cơ sở thay tiền công thợ. Lần này, anh Tấn lái xe, cũng là thành viên của nhóm thiện nguyện mang tên Từ Hòa, về các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang…để tiếp tục triển khai hệ thống phòng thuốc từ thiện mang tên Thiện Lành. Có những cơ sở như chùa Long Hòa, huyện Vị Thủy, Hậu Giang, hoạt động từ thiện khá tốt.Cũng không thiếu những cơ sở thiếu lương y đủ mọi thủ tục do sở y tế quy định nên chưa đi vào hoạt động. Nói chung, phần lớn các chùa còn nghèo, cơ sở vật chất chưa đủ đáp ứng theo yêu cầu của nhóm Từ Hòa. Thật ra, nhóm từ thiện không yêu cầu gì to tát, chỉ cần anh em địa phương nhiệt tình, năng động, giấy tờ hợp lệ về nhân sự cũng như đất sử dụng hợp pháp, thì nhóm Từ Hòa sẽ tài trợ cơ sở xây dựng cho đến trang thiết bị khám chữa, thế nhưng, khá nhiều chùa vẫn chưa đáp ứng được,Trong ba ngày đi các Tỉnh miền Tây Nam bộ, hình như đoàn gồm anh Tư Mắt kính, anh Hùng, anh Út Tâm, anh Tấn đều chưa đạt được kế hoạch mong muốn. Tương lai, đoàn hướng đến Phú Quốc và những vùng cư dân còn nghèo để khởi động các phòng thuốc Thiện Lành, là một trong vô số hạnh lành mà người con Phật có tâm vị tha đang thực hiện.
Chiều về, đoàn tạm trú qua đêm tại phòng thuốc Thiện Lành của anh Tư Tây ở Cổ Cò, đây cũng là điểm hoạt động phòng thuốc đi vào nề nếp khá chỉnh chu. Chu đáo đến độ, đối diện phòng thuốc là trại hòm miễn phí, có nghĩa sanh phải lão, bệnh có thuốc rồi tử sẽ có hòm, vòng tròn khép kín được tận tình phục vụ. Vì thế, mỗi lần đoàn đi miền Tây làm đạo sự, luôn được anh Tư Tây ân cần đón tiếp đến độ, anh Tấn nói đùa : sau khi đoàn của anh Tư Mắt Kinh ra về, anh Tư Tây sẽ thông báo đóng cửa một tháng để phục hồi kinh tế…..Ôi tình đồng đạo chỉ có thế thôi, vì “trái đất này là của chúng mình”!!!có lẽ phải đợi vài tháng sau để cây trái kịp đâm chồi nảy lộc trở lại chăng? Công tác từ thiện chưa thu hoạch đúng mong ước thì đoàn lại thu hoạch trái cây tại vườn anh Tư Tây ngoài mong ước.
MINH MẪN
01/3/2021











KHOA LUẬT HỌC PHẬT GIÁO.

 


Sáng ngày 03/3/2021, 20 tháng giêng năm Tân Sửu, tại Tu viện Vĩnh Nghiêm, quận 12 SG, khai giảng khóa học đầu tiên của khoa Luật học Phật Giáo, một phân khoa thuộc Học viện Phật giáo hiện nay.

Đáng ra,môn Giám luật cần hình thành sớm hơn khi thành lập Giáo hội gồm 13 ban ngành; mãi đến nay, HT viện trưởng Học viện Phật giáo mới thành lập Ban Giám luật trong năm Canh Tý, TT Thích Giác Dũng, thư ký  trong Ban giám luật, sáng kiến xin thành lập khóa học giáo luật để trang bị kiến thức chuyên ngành Luật học PG cho tu sĩ.

Tu viện Vĩnh Nghiêm gần 11 năm kiến thiết xây dựng trên khuôn viên trước đây thuộc đất an táng cố HT T.Tâm Giác, sau thời gian đình trệ, khu đất đã bị chiếm dụng một phần do dân cư, một phần làm trường học, còn lại trên dưới 20.000m2, được TT T.Giác Dũng tạo thành một tu viện bề thế từ kỷ thuật kiến trúc đến nghệ thuật điêu khắc nói lên cái tâm và cái tầm của TT sau thời gian du học từ Nhật trở về.

Đây là ngôi tự viện vượt hẳn những ngôi được xây dựng trước đây. Do thầy không có Phật tử riêng, nên mọi chi phí kiến tạo đều nương vào gia đình. Tuy kim cổ giao duyên nhưng không hề tương phản phá cách. Chùa xây dựng vừa cổ kính của gỗ theo phong cách miền Bắc, vừa bê tông cốt thép theo phong cách hiện đại, đủ đáp ứng nhu cầu giáo dục đào tạo Tăng tài, một cơ sở không phí công tốn của  giúp cho Phật giáo có một cơ ngơi tín ngưỡng hiện đại, một hệ thống tu viện mang tầm quốc gia; để tương thích với công trình kiến tạo quy mô, TT tọa chủ xây dựng một học trình giáo luật lẫn thế luật trang bị cho thế hệ Tăng trẻ đủ kiến thức đời và đạo; Giới Luật là mạng mạch sinh tồn của Phật giáo,Giới luật còn là Phật pháp còn, chư Phật chư Tổ nhấn mạnh tầm quan trọng đó, thế nhưng, đất nước do quá trình binh biến,việc giáo dục thế hệ kế thừa đã dần mai một, tiếc thay, gần nửa thế kỷ thống nhất Phật giáo, Luật học  chỉ tồn tại trong các cuộc khảo thí giới đàn, thời gian còn lại Tăng ni nghiêng hẳn kinh điển và thế học.

Do ý thức khoản trống cơ bản của một tu sĩ trẻ hiện nay, TT T.Giác Dũng được HT đệ nhất phó pháp chủ kiêm viện trưởng học viện Phật giáo chấp thuận xử dụng tu viện Vĩnh Nghiêm vừa hình thành, làm cơ sở đào tạo Luật học Phật giáo, xem như một phần vừa bổ khuyết trong 13 ban ngành theo Hiến chương, bổ sung chương trình đào tạo học viện Phật giáo hiện tại.

Chương trình khai giảng gọn nhẹ được HT T Trí Quảng, HT thích Đức Nghiệp, HT Thích Giác Toàn chứng minh, với sự tham dự  của một số chức sắc giáo hội trong ngoài quận 12, chư Tăng ni và quan khách trên một trăm vị. TT Giác Dũng đọc văn khai mạc, HT Trí Quảng ban giáo từ, TT Trí Chơn thay mặt nói lời cảm tạ; buổi lễ diễn ra trong vòng 45 phút; đây là một canh cải thủ tục hành chánh mà một số nơi nặng phần nghi thức quá rườm rà.

Hiện tại trên 20 tu sĩ đăng ký tạm trú tham học, tương lai, số lượng Tăng ni sinh sẽ gia tăng theo chương trình bồi dưỡng Luật học Phật giáo ,mà PGVN xem như một bộ môn rất mới trong giáo dục trường lớp, tuy xa xưa từng diễn ra dưới mái chùa gia giáo lâu đời.

MINH MẪN                                                                                                             03/3/2021