Nếu không xem Phật giáo là một tôn giáo, những ai đến với Đạo Phật, được xem là một hành giả chọn con đường tiến đến giải thoát, bởi vì, ngoài đẳng cấp Nhân-Thiên, là hành trạng tô bồi thiện nghiệp cho quả vị phước báu, vẫn còn trôi lăn trong tam giới.
***
Hầu hết, căn cơ đại chúng thường chỉ nương tựa vào
tha lực, vì thế, van xin, cầu nguyện, bái vọng… biến Phật giáo thành một tôn
giáo nhiều lễ nghi phức tạp; duy chỉ có Phật giáo Bắc tông, ảnh hưởng lễ tục
Nho gia và đức tin truyền thống địa phương, dĩ nhiên vẫn tốt hơn “nhất xiển đề”,
từ đó biết tạo thiện nghiệp, bố thí, phóng sanh, làm lợi ích cho xã hội; nhân tốt
hữu lậu tất sanh phước hữu lậu, không thể cầu toàn giải thoát nếu không thực hiện
sâu vào hoán chuyển tâm thức.
“Phước Trí nhị nghiêm” là hạnh nguyện Bồ Tát đạo.
Hành thiện mà không tu huệ, đó là quả vị “Nhân Thiên”, kết quả giàu sang, sung
túc vật chất, chưa thể đi đến giải thoát. Chuyên hành trì tuệ giác mà thiếu vun
bồi gốc rễ phước báu, danh từ chuyên môn gọi là “càn huệ địa”, vùng đất tuệ
giác khô khốc như hoa mọc trên đất nắng hạn. Có những hành giả chuyên tu miên mật,
ít được cúng dường, đây là kết quả thiên về tu huệ bỏ quên hành phước.
Chúng ta đang nói về những hành giả cưu mang công hạnh
Bồ Tát đạo, đang thâm nhập vào thế gian, vừa hành trì mật pháp, vừa tế độ nhân
sinh.Phẩm nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm,nói về công hạnh của Thiện Tài đồng
tử cầu pháp 53 vị Thánh hạnh, từ Thánh quả đến tục đế, có nghĩa từ hữu hình đến
vô hình, từ tục đế đến Thánh đế đều cầu học, thâm nhập mọi lãnh vực; học đủ tất cả về sắc pháp, tâm pháp và phương
pháp hành Bồ Tát đạo. Trong đó, có cả ngũ minh:Thanh minh,Công xảo minh, Y Phương Minh, Nhân
Minh, Nội Minh.
Hai
vị chủ đạo hướng dẫn cho Thiện Tài đồng tử là Bồ Tát Văn Thù tiêu biểu cho trí
tuệ và Bồ Tát Phổ Hiền tiêu biểu cho
đại
nguyện.
Pháp giới không chỉ là hiện tượng vũ trụ, còn là
pháp tánh, là chân như, là bản thể tánh giác, là pháp thân thường tại.Hành giả
thâm nhập pháp giới là nhập vào tánh giác, đi từ tục đế tiến đến chân đế.
Kinh
Kim Cang nói “Như Lai, tức vô sở tùng lai, diệt vô sở khứ, cố danh Như Lai”.đó
là pháp tánh.
“Phóng chi tắc cai la thế giới, thu chi tắc tế nhập vi trần” (Buông ra thì trùm
khắp pháp giới, thâu lại thì nhỏ hơn vi trần), nên pháp giới là tâm của vũ trụ,
đồng thới cũng là tâm của con người. Theo Kinh Hoa Nghiêm: 1. Sự vô ngại pháp giới: 2.
Lý vô ngại pháp giới: 3. Lý
sự vô ngại pháp giới.sự sự vô ngại pháp giới. Lý và sự là phản ánh tâm thức, tâm thức căn bản vô hinh vô
tướng, do đó lý sự đều vô chướng ngại trên đạo lộ hành trì. Pháp giới là đối tượng
phóng tâm của thức, Duy thức gọi là “Tam thế duy tâm, vạn pháp duy thức”
Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam
(Do giả thiết ra
ngã và pháp, mà có các hiện tượng sai khác. Tất cả hiện tượng
đó đều do thức chuyển biến phát sinh. Thức năng biến nầy có
ba loại: thức Dị
thục, thức Tư lương, và thức Phân biệt các đối tượng
Ý thức thường hiện khởi
Trừ sanh vô tưởng thiên
Cập vô tâm nhị định
Thùy miên dữ muộn tuyệt
(Ý thức thường
hiện khởi, chỉ trừ khi sinh lên cõi trời Vô tưởng, khi nhập
vào Vô tưởng định và Diệt tận định, lúc ngủ mê, và khi bị chết
giấc (năm trường hợp trên đây ý thức không hiện khởi tác
dụng).
Thị
chư thức chuyển biến
Phân biệt, sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhất thiết duy thức
(Do các thức chuyển biến sinh
khởi ra năng phân biệt và sở phân biệt; chính các pháp nầy
đều không, cho nên tất cả là Duy thức.)
Vì thế Thiện Tài đồng tử đầu tiên gặp Bồ tát Văn Thù
tức đầu tiên khởi sự hành trì là “căn bản trí, tức trí tuệ .Được hướng dẫn thông qua mọi thể trạng
chân và tục đế, sau đó Thiện Tài đồng tử đến bái lễ đức Quán Âm, khởi phát tâm
đại bi phổ quát. Đây là tâm từ căn bản của mọi hành giả cũng như chư Thánh giả.
Khi hành giả kinh qua mọi cảm nghiệm trong cuộc sống, chọn một pháp hành để hướng
nội”nội quang phản chiếu”; dùng trí tuệ hướng vào nội hành để lắng nghe mọi cảm
thức, mọi hạt giống tham dục , mọi kiết sử, hóa giải nghiệp thức bằng sóng âm tự
tánh hay còn gọi là âm thanh nội tại; khi âm lực phát triển thì mọi cảm thức, mọi
chủng nghiệp dần bị bào mòn đến khi căn bản thức biến thành bạch tịnh thức, thì
trí tuệ còn gọi là ánh quang minh phát sinh. Ánh sáng của tuệ giác hay âm thanh
nội tại cuối cùng là một. Đạo gia gọi là “vạn thù quy nhất bản”, đây chưa phải
là điểm cuối khi chúng còn là một; vấn đề đặt ra là “nhất quy hà xứ?” Còn trụ lại
một là còn điểm vướng của tâm thức
Kinh Hoa Nghiêm nói đến 10 loại thân là nói đến hiện tượng và bản thể.
1. Chúng sanh thân
2. Quốc độ thân
3. Nghiệp thân
4. Thanh Văn thân
5. Duyên Giác thân
6. 6 Bồ Tát thân
7. Như Lai thân
8. Trí thân
9. Pháp thân
10. Hư không thân: Thế
giới thường tịch quang hay Tỳ Lô Giá Na thân.
Trong tiến trình hành trì của Bồ tát đạo đạt đến giải
thoát, phải kinh qua lắm trạng huống là:
Hoan hỷ địa (tâm ý hoan hỷ)
2. Ly cấu địa (xa lìa phiền não) 3. Phát quang địa (trí tuệ chói sáng) 4. Diệm
tuệ địa (trí tuệ rực rỡ) 5. Cực nan thắng địa (vô cùng khó khăn mới đạt được)
6. Hiện tiền địa (chân như hiển hiện) 7. Viễn hành địa (đi xa) 8. Bất động
địa (không lay động) 9. Thiện tuệ địa (trí tuệ diệu dụng) 10. Pháp vân địa (mây
pháp che khắp cả muôn loài chúng sinh).
Sở dĩ Kinh Hoa Nghiêm phân
tích tỉ mỉ là biểu thị trạng thái tâm từ tục đế đến chân đế. Từ tướng đi vào
tánh. Vì thế Văn Thù là trí tuệ,Phổ Hiền là công hạnh. Tướng tánh viên thông,
nhất đa tương dung.
***
Hành giả vẫn sống trong đời
mà không bị đời lôi kéo, bởi thế gian
pháp tức Phật pháp. Thâm nhập vào đời “nhập pháp giới” của Thiện tài đồng tử là
hạnh tu tích cực, vừa độ đời, vừa chuyển hóa nghiệp thân; tiếp nhận mọi thế sự
mà không nhiễm sự thế; Phải chăng, đó là pháp hạnh nội quán, luôn lắng nghe nội
tại cũng như lắng nghe niềm thống khổ của chúng sanh, sau khi tiếp nhận sự giáo
hóa của 53 vị giáo thọ, Thiện Tài đã đến với hạnh Quan Âm là đoạn đường hành
trì quyết định của một hành giả để thoát khỏi tam đồ ác đạo, nhân quả luân hồi?
MINH MÂN
26/3/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét