CHUYỂN HÓA SÂN HẬN:
- Thích Nhật Từ
CHƯƠNG 4: VẤN ĐÁP VỀ SÂN HẬN
Hỏi: Có trường hợp hai bên đang sân hận cãi vã nhau. Cả hai đều cho mình là đúng, bên kia sai. Họ không hề có thiện chí hòa giải và nói rằng: “Suốt cuộc đời tôi không bao giờ chấp nhận hoà giải. Cho nên, bạn đừng đứng ra hòa giải”. Trong trường hợp này, phải làm sao? Quan niệm: “đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. có đúng không? Hay tu thì vẫn cứ tu, nhưng gặp quỷ phải trừ? Nếu không đúng thì phải ứng xử như thế nào?
Đây là câu hỏi rất hay vì đề cập đến khúc mắc mà rất nhiều người vấp phải! Thật khó xử khi nhìn thấy hai người thân của mình trở thành kẻ thù của nhau. Người nào cũng cho rằng mình đúng. Dĩ nhiên, khi cho mình đúng thì cũng đồng thời không chấp nhận đối phương. Do đó, cả hai người vô tình đóng bít cánh cửa truyền thông với nhau.
Trường hợp này, người bị khúc mắc đang xây dựng bức tường Béc-lin trong mối quan hệ, và đôi khi muốn mang bức tường đó vào tâm thức ở đời này và đời sau. Quan niệm đó làm cho người ta không bao giờ chấp nhận người khác. Cần nhận diện lối ứng xử “tự thị tha phi” sẽ không mang lại bất kỳ sự lợi lạc hay an vui nào cho mình và người. Không thể đẩy người khác vào thế khó xử. Đồng thời, đừng biến bản thân thành nạn nhân của lận đận, khổ đau.
Khi biết hai người thân đang lận đận với nhau, chỉ cần khách quan quan sát truy tìm gốc rễ của nội kết vốn bắt nguồn từ sự cố tình hay vô ý. Khi cái gút bế tắc được hỗ trợ bằng thái độ không tha thứ thì dù có nỗ lực hóa giải cũng khó thành công. Chính đức Phật Thích Ca có lần đã thất bại trong vai trò làm người hóa giải cơn sân hận của vua Lưu Ly với hoàng tộc dòng họ Thích Ca trong cuộc truy sát tiêu diệt tập thể dòng họ Thích Ca.
Trong quá khứ, quan hệ giữa dòng họ Thích Ca và Lưu Ly của vua Lưu Ly có nhiều nội kết. Vì là nước yếu nên vua Lưu Ly đời trước đã nỗ lực tìm cách thiết lập quan hệ với nước Thích Ca hùng mạnh. Trong lịch sử, thường có cách thiết lập hoà bình, tạo liên minh thông qua cuộc hôn nhân. Do đó, vua Lưu Ly ngỏ lời cầu hôn công chúa nước Thích Ca để thiết lập hoà bình giữa hai nước. Nỗ lực này nhằm tạo liên minh và biến kẻ thù thành tình thân. Bên dòng họ Thích Ca khinh thường thiện chí của nước Lưu Ly, cho rằng vua Lưu Ly không đủ tư cách kết hôn với công chúa của nước Thích Ca. Vì vậy, dòng họ Thích Ca âm thầm tráo công chúa, thay vào một tỳ nữ của dòng họ Thích Ca và gả cho vua nước Lưu Ly. Vua nước Lưu Ly cứ ngỡ là công chúa nên sống rất hạnh phúc. Chuyện được dấu kín nhiều năm. Đến đời vua Lưu Ly thế hệ con tương ứng thời đức Phật, sự việc tráo đổi mới bị phát hiện. Ông vua hậu duệ này cảm thấy dòng họ Lưu Ly bị nhục mạ, khinh bỉ nên ôm lòng phục thù, rửa hận và tuyên bố sẽ bình địa dòng họ Thích Ca.
Sau khi đức vua Tịnh Phạn qua đời, dòng họ Thích Ca rơi vào tình trạng không có người kế ngôi xứng đáng. Thái tử thay vì phải trở thành Quốc vương lại trở thành bậc Giác Ngộ. Các hoàng thân quốc thích như A-Nan, Nan Đà, La Hầu
La đều đã trở thành người xuất gia. Vua Tịnh Phạn không còn người kế thừa. Phật Thích Ca đề nghị Ma Ha Nam làm người kế vị ngôi vua. Khi biết được tâm ý sân hận của vua Lưu Ly, đức Phật đã đích thân đi gặp vua Lưu Ly để hoá giải hận thù quá khứ giữa hai nước. Đức Phật khuyên vua Lưu Ly không nên khơi dậy nỗi đau quá khứ mà những người Thích Ca và Lưu Ly hiện tại không hề can hệ trực hay gián tiếp. Không thể quy trách nhiệm sai lầm của vua Thích Ca trong quá khứ mà buộc dòng họ Thích Ca hiện tại phải gánh chịu hậu quả. Hãy trải tâm từ bi để xoá bỏ hận thù. Chỉ có tâm từ bi mới tháo gỡ được gút oan trái này.
Sự quy trách nhiệm sai lầm của người nào đó trong quá khứ để buộc những người không can hệ gì phải gánh hậu quả ở hiện tại là vết loang của nỗi đau không được tháo mở. Hơn nữa, việc truy sát dòng họ Thích Ca để rửa hận không thể làm cho dân tộc Lưu Ly được hạnh phúc. Ngược lại, chỉ tạo thêm những hận thù mới. Do không xả bỏ được lòng sân. Từ mối thù cá nhân ở quá khứ đã trở thành mối thù tập thể đối với hai nước. Lịch sử cho thấy, năm trăm người của dòng họ Thích Ca bị truy sát tập thể.
Thái độ ứng xử của vua Lưu Ly là không khôn ngoan. Sự trả đũa chỉ tạo thêm tội lỗi và liên luỵ tiêu cực tới dòng họ Lưu Ly trong quá khứ, tạo thêm khổ đau cho hai nước ở hiện tại và tương lai. Đức Phật khuyên, hãy lấy tình thương để xoá bỏ hận thù, lấy lòng từ bi để hóa giải những cái gút khổ đau trong quá khứ cũng như hiện tại. Thế mà vua Lưu Ly ngoan cố không chấp nhận. Do đó, cuộc chiến đã diễn ra. Sự thương tổn, chết chóc không chỉ dòng họ Thích Ca phải chịu, ngay cả phía vua Lưu Ly cũng vậy. Sự kiện lịch sử này cho thấy, dù đức Phật muốn hóa giải nhưng nếu người được hoá giải không có lòng muốn chuyển hoá, không có lòng hỷ xả, bao dung thì sự hoá giải đó khó đạt được kết quả như mong đợi.
Hành giả mang hạnh nguyện của Bồ tát vào đời độ sinh, không chỉ có lòng nhiệt huyết mà còn phải có trí tuệ và phương tiện. Khi thấy được giá trị của sự xây dựng sẽ thấy được giá trị của sự chuyển hoá. Nhưng kết quả của sự chuyển hoá diễn ra nhiều hay ít còn phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng được dấn thân chuyển hoá. Nếu cả hai bên sau khi nghe lời khuyên can mà vẫn cố chấp, không buông xả thì phần thiệt thòi thuộc về phía họ. Lúc ấy, đành bó tay nhìn họ bị khổ đau vì hận thù chi phối!
Tình thương vẫn có những hạn chế, nhất là đối với người không có lòng lắng nghe. Sự dấn thân cũng có những hạn chế nhất định, vì còn lệ thuộc vào nhân quả giữa hai người đang hận thù có thật sự muốn mở gút oan khiên hay không. Hậu quả của sự cố chấp và thiếu lòng bao dung làm cho cả hai gánh lấy hậu quả khổ đau ở đời này và đời sau. Người làm công việc hoà giải chỉ đóng vai trò xúc tác, trợ duyên giúp hai đối tượng được việc sai lầm, đang gây đau khổ cho nhau. Họ gieo trồng những hạt giống sân hận và làm ảnh hưởng đến những người có liên hệ trực hoặc gián tiếp. Nếu cả hai không chịu chấp nhận tháo gỡ hận thù thì đó là giới hạn của sự chấp mắc, bảo thủ và lương tâm đóng băng nên không nhìn thấy được sự chuyển hoá của cuộc đời.
Quan niệm, “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy” là một cách thức giải quyết những xung đột trong cuộc đời. Mặc áo giấy đi với ma chỉ nên diễn ra sau nỗ lực mặc áo cà sa mà vẫn không thành công. Sau khi người dấn thân nỗ lực chuyển hoá những con ma không thành công, chúng không chịu làm mới mà vẫn tiếp tục cố tình cản phá, gây trở ngại, khổ đau cho nhiều người, lúc ấy người dấn thân cần có biện pháp mạnh. Chuyển hoá bằng cách giáo dục đạo đức không thành tựu thì phải áp dụng chuyển hoá bằng luật pháp và hình phạt. Đây là cách thức các hệ thống luật pháp trên thế giới đã áp dụng.
Luật pháp chuyển hóa con người bằng sự trừng phạt nghiêm khắc chứ không bằng lời nói của tình thương. Giết người thì phải bị luật pháp xử nghiêm minh. Trộm cắp thì có thể bị chặt đứt bàn tay (đặc biệt trong luật pháp của một số nước ở Trung Đông ngày xưa). Nếu ai đã gây khổ đau cho cuộc đời và người thì phải bị luật pháp trừng phạt bằng khổ đau tương tự. Quá trình sống với khổ đau do luật pháp trừng phạt, người phạm luật sẽ không tái phạm nữa. Sự trừng phạt có tác dụng giáo dục chuyển hoá những người không biết lắng nghe tiếng nói của đạo đức và lương tâm. Trong tình huống này, đi với ma không thể mặc áo cà sa mà phải mặc áo giấy. Tức là phải có những phương tiện thích đáng để giúp những người cang cường khó hoá độ có cơ hội chuyển hoá.
Tinh thần “đi với ma mặc áo giấy” nói lên tính thích ứng trong việc chọn phương pháp đối trị và cứu giúp chúng sinh. Nó có thể sử dụng đối với luật pháp nhưng không đúng với tinh thần nhà Phật. Vì các đức Phật, Bồ tát, các vị A la hán nhìn thấy được khả năng chuyển hoá những sai lầm, nỗi đau, phiền não của con người. Bởi thế, các ngài tin tưởng đã chọn phương cách giúp cho chúng sinh được gần gũi với tông chỉ của các Ngài để họ tự chuyển hoá (mặc áo cà sa). Áp dụng giải pháp “mặc áo cà sa” cho người hiền lương giúp cho người sai lầm chuyển hoá nội kết trong cuộc sống. Kết quả của sự chuyển hoá sẽ mang lại hạnh phúc cho cả hai.
Người dấn thân cứu đời nên tận dụng tất cả những điều kiện, phương pháp để góp phần tiêu diệt con ma nghiệp lực, phiền não. Nhờ sự sáng suốt và thái độ dứt khoát có thể chặn đứng cây gươm khổ đau, dừng lại các cây súng bất hạnh, hành động khủng bố của những kẻ xấu, ác đang mất phương hướng.
Vấn đề cần hiểu ở đây là: Những lời của Phật, Tổ dạy và những điều các nhà văn học Phật giáo viết có sự khác nhau rất lớn. Có trường hợp nhà văn học Phật giáo viết giống với tinh thần đức Phật dạy, nhưng cũng có trường hợp không đúng. Nếu cho những gì nhà văn Phật giáo viết là chân lý bất di bất dịch và áp dụng theo là đang đi ngược lại tinh thần Phật dạy. Lúc đó, khổ đau có thể xuất hiện làm con người chán chường, thất vọng, mất phương hướng.
Cho nên, đệ tử Phật phải noi theo tinh thần hóa giải của đức Phật. Khi áp dụng câu “đi với ma mặc áo giấy” đừng nên lạm dụng tinh thần này, nghĩa là, đừng lấy quan niệm trừng phạt áp đặt lên đối tượng cần giáo dục mà chưa nắm rõ được đối tượng đó có cần luật quá nghiêm khắc “mặc áo giấy” hay không? Nếu kẻ xấu chỉ làm một điều xấu và vì trị tội họ nên ta “mặc áo giấy”, làm điều xấu lại tương tự gấp hai ba lần thì không khác gì người xấu đó, thậm chí còn xấu tồi tệ hơn họ. Cho nên, “mặc áo giấy” khi đi với ma trong mọi tình huống mà không khôn khéo, không biết tùy duyên có thể dẫn đến tình trạng đặt người xấu trên cán cân còn và mất. Đối lập với người xấu như thể hai con gà đang đá nhau. “Mặc áo giấy” với ma không phải là giải pháp đối với tất cả tình huống. Ăn miếng trả miếng chỉ làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng.
Nhiều người sử dụng phương châm “đi với ma mặc áo giấy” thay cho lời biện hộ không nhân từ, lạm dụng như bình phong để che đậy tất cả những thái độ ứng xử thiếu lòng vị tha. Có thể là lời biện minh khi chưa thể áp dụng tinh thần lấy từ bi hoá giải hận thù. Theo tinh thần Phật dạy, người hành xử khôn ngoan nên tìm những giá trị của sự chuyển hoá để áp dụng. Đừng tạo cơ hội cho kẻ đối lập trở thành kẻ thù với mình, đừng đẩy họ vào thế khó xử. Hãy tin mọi thứ đều có thể chuyển hoá được. Đạo lý vô thường là nguyên lý nhận thức cho phép tin mọi sự vật hiện tượng luôn vận hành, chuyển biến, trôi chảy. Do đó, tâm lý, thái độ, lập trường của con người dù tốt hay xấu cũng như một thác nước chảy không dừng. Có thể họ làm việc xấu trong quá khứ nhưng hiện tại họ cũng có thể làm việc lành. Hiện tại họ ngoan cố nhưng tương lai có thể thức tỉnh, thay đổi tâm tính. Nguyên lý vô thường cho phép tin sự chuyển hóa có thể thực hiện được khi con người nỗ lực và kiên nhẫn. Thấy được điều này sẽ tránh được lỗi quan niệm “định mệnh” hay “định tính” về một con người bị cho là ma, cần được áp dụng luật trừng phạt “mặc áo giấy” để ứng xử.
Điều gì thuộc về khổ đau đều đặt sự thay đổi đó vào khái niệm vô thường. Vì tâm vô thường nên tâm lý xấu có thể chuyển hoá thành tâm lý tốt. Cái gì thuộc về phục vụ và đóng góp thì đặt vào khái niệm chuyển hoá. Đức Phật tin vào khả năng chuyển hoá nên Ngài không bao giờ kết án, nguyền rủa những ai đã tạo khổ đau cho Ngài, ngược lại Ngài còn thọ ký cho người xấu, ngay cả “nhất xiển đề” cũng được thành Phật. Tức là thọ ký cho những con người luôn cản phá bước đường hoằng pháp của Ngài, mang lại khổ đau cho những người đang sống theo lời dạy của Đức Phật. Cách ứng xử của đức Phật hoàn toàn khác với thái độ ứng xử phàm phu. Phần lớn người đời ứng xử “ăn miếng trả miếng”. Nếu đã từng bị làm khổ đau thì bây giờ không tha thứ, bỏ qua. Có người cố tình trả đũa bằng nhiều cách nghĩ rằng, phải cho người ta một bài học. Trong sự trả đũa, cả hai đã trở thành nạn nhân khổ đau. Sự lận đận tiếp tục có mặt ở tương lai, tiếp nối chập chùng từ đời này sang đời khác, không chấm dứt.
Hỏi: Khi sân hận bốc lên, tôi đã quán niệm hơi thở nhưng không hiệu quả. Tôi chuyển qua quán nhân quả vẫn không hiệu nghiệm. Vậy, tôi phải làm gì để tránh tất cả những nghiệp xấu có thể xảy ra cho người khác?
Câu hỏi này đề cập đến nỗ lực hành trì. Mọi người đều có thể lâm vào tình huống tương tự câu hỏi đặt ra. Biết rằng, khi sân hận diễn ra thì lấy “hơi thở” làm đề tài quán chiếu để hoá giải cơn sân hận theo sự vận hành của hơi thở. Khi ý thức tập trung vào hơi thở, cơn giận từ từ bị phân tán, cho đến lúc sân hận không còn tác dụng. Hoạt dụng của sân hận sẽ được hóa giải theo sự vận hành của hơi thở, tạo những giá trị an lạc, hạnh phúc thay thế những sân hận khổ đau và phiền não. Nếu áp dụng đúng phương pháp sẽ thành công, ngược lại, áp dụng sai thì không thành công. Quan trọng là đừng nản lòng thối chí khi kết quả chưa đến. Cá tính con người có thói quen chấp trước hoặc biết nhưng làm không triệt để. Lẽ ra phải buông bỏ sân hận thì lại không chịu nên khi áp dụng không phát huy được trọn vẹn năng lực chuyển hoá của phương pháp quán niệm hơi thở. Bản chất của quán niệm hơi thở là lấy hơi thở làm đối tượng để buông xả tất cả những gì không có lợi cho hạnh phúc, ở đây là sự nóng nảy. Trong lúc quán hơi thở mà vẫn không chịu buông sân hận thì sẽ không có kết quả là đương nhiên. Do đó, thói quen về bản tính con người có thể là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thất bại trong chuyển hoá nổi sân.
Thứ hai, người ta thường biện hộ, do nghiệp nặng quá nên nội kết giữa tôi với đối phương không thể nào tháo gỡ được trọn vẹn và tuyệt đối. Vì vậy, tạm chấp nhận hệ quả của lòng sân, tạm chấp nhận những gì có thể làm được và lại không tin tưởng vào bản thân có thể làm hiệu nghiệm, kết quả tốt. Trong khi đó, chỉ cần buông xả lòng sân theo hơi thở, đồng thời cùng lúc nạp thêm dưỡng chất tha thứ và hoan hỷ vào cơ thể thì tâm nhẹ nhõm biết bao. Việc gì con người cũng có thể làm được nhưng khi không tin bản thân có thể làm được hiệu quả thì tiềm năng của nỗ lực bị đóng bít.
Dĩ nhiên, trong trường hợp câu hỏi vừa nêu có thể vận dụng nhiều phương pháp hỗ trợ khác. Bởi vì có những cơn bệnh nếu chỉ uống một loại thuốc sẽ không có tác dụng, phải uống thêm những thuốc khác. Do đó, phải hỗ trợ bằng nhiều phương pháp, nhiều cách khác nhau. Nếu không đạt kết quả như mong đợi, ít nhất cũng đạt 60%, 70%.
Trong bài pháp thoại, chúng tôi trình bày các phương pháp hoãn binh, thay thế, không liên minh (không để nỗi đau lây lan và bành trướng), chuyển hoá sự giận dữ. Xin chia sẻ thêm phương pháp quán không tác giả, là phương pháp quán chiếu rằng không có chủ thể tạo ra phiền não giữa ta và người, cũng không có nỗi đau đang hiện hữu. Phương pháp này đòi hỏi khả năng quán niệm cao hơn các phương pháp vừa trình bày.
Thí dụ: Khi đi du lịch trên một chiếc thuyền ở vùng duyên hải bang Florida. Ở đó, có thể thưởng ngoạn cảnh đẹp, có thể bỏ ra mấy chục ngàn Mỹ kim để mua chiếc ca nô đẹp. Đến bãi thuyền, trèo lên ca nô, nằm trên mạn thuyền rồi ra lệnh nổ máy. Lúc đó, cảm giác an toàn và hạnh phúc sẽ xuất hiện tạm thời. Nhưng nếu phía sau có một chiếc thuyền đang đi tới và lao vào ca nô của ta thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Phản ứng đầu tiên khi có sự va chạm là nghĩ kẻ nào đó muốn phá đám giấc ngủ ngon của mình. Vì nghĩ người lái thuyền cố ý nên sẽ có phản ứng trả đũa. Không kiềm được cảm xúc nóng nảy, bạn có thể nhảy sang chiếc thuyền đã đụng vào ca nô, xem tác giả vụ đụng thuyền này muốn gì. Khi tìm phía trước, phía sau thuyền mà không thấy ai thì cơn giận dữ chùng xuống và vơi đi, vì nghĩ đây chỉ là chuyện tình cờ, không ai cố tình cả! Lúc đó, cơn sân hận lớn trở thành cơn sân hận nuối tiếc về giấc ngủ.
Cũng vậy, trong cơn giận dữ, nếu quán tưởng không có một chủ thể nào đang cố ý quậy phá hay tạo phiền não (nỗi đau không có tác giả) thì dễ dàng bỏ qua. Khi cơn giận dữ nổi lên, hãy hít thở thật sâu và quán tưởng mọi sự vận hành của cuộc đời, mọi niềm đau nỗi khổ sẽ trôi qua. Dù niềm đau nỗi khổ đó do ai cố tình tạo ra đi nữa cũng vẫn không quan trọng. Thậm chí nghĩ, chỉ là vô tình hay do thiếu hiểu biết, thiếu cảm thông để không quy trách nhiệm cho đối phương phải chịu hệ quả của y, tránh sự có thể phản hồi trả đũa lại đối phương. Cho nên, quán niệm không có chủ thể tạo ra phiền não, không có dòng chảy phiền não đang vận hành trong nỗi khổ, ta không phải là nạn nhân trải qua nỗi khổ sẽ giúp trở về trạng thái tâm an vui. Nhờ quán chiếu vô ngã về khổ đau nên dễ dàng, buông xả sân hận mà tha thứ.
Phương pháp này đòi hỏi quán niệm với sự tập trung cao độ, đòi hỏi có tấm lòng hỷ xả, rộng lượng. Làm được điều này sẽ tháo gỡ được lòng sân hận. Đừng bao giờ thiết lập những bức tường khổ đau, mà hãy tháo gỡ những bức tường khổ đau giữa ta và người. Như vậy là góp phần thiết lập một thế giới an bình và hạnh phúc! Quán tưởng bằng nội lực và có phương pháp chắc chắn sẽ mang lại giá trị an vui. Nếu chuyển hoá không được thì tối thiểu cũng không cho nó lớn thêm ở hiện tại và tương lai. Theo thời gian, nó được chuyển hoá từ từ. Nếu nỗ lực thì có thành quả an vui!
Trong phương pháp quán nhân quả, đặc biệt là quán hậu quả tiêu cực của lòng sân làm con người sợ hãi mà không để tâm xảy ra nóng nảy và thiếu sự kiểm soát. Tính hiệu nghiệm của phương pháp này chỉ ở lúc người nóng nảy chưa nổi cơn tam bành. Một khi đã có sấm sét trỗi dậy, tâm trí người quán không còn đủ sáng suốt để nhận ra mình đang sai thì làm sao chuyển hoá được. Do đó, phải thực tập phương pháp quán mỗi ngày hai lần trước và sau khi đi ngủ. Cảm xúc toàn thân được thấm nhuần đạo lý nhân quả nghiệp báo “Ngậm máu phun người miệng mình dơ trước”. Nhờ đó, hành giả có thể giải phóng, xả bỏ được cơn giận dữ. Thực tập mà không có kết quả không phải do phương pháp không hiệu nghiệm, mà vì độc tố sân hận trong lòng còn quá nhiều nên quán tưởng sơ sơ sẽ không thấm vào đâu. Do vậy, cần tiếp tục quán chiếu thì sẽ có kết quả.
Hỏi: Tâm sân hận là do thói quen, môi trường ảnh hưởng, hay do một người sinh ra, có sẵn nghiệp lực của sự huân tập? Nếu do nghiệp lực thì tại sao có câu “Nhân chi sơ tính bản thiện”?
Câu hỏi này quy kết lòng sân hận con người như một thói quen được tạo ra quá khứ, có thể bắt nguồn từ khổ đau và nội kết giữa ta và người. Thí dụ, người lính trong trận tuyến phải đối đầu và giết người lính đối lập. Trong chiến đấu, không cho phép tha thứ đối phương, vì tha thứ là tự đặt mình vào cõi chết. Vì vậy, một trong hai đối tượng phải ra tay trước để được sống.
Cuộc sống, có người quan niệm “Tiên hạ thủ uy cường”, tức là sẵn sàng chấp nhận thói quen đã được giáo dục, huấn luyện, kết tập từ đời này sang đời kia. Quan niệm đó không giúp tháo gỡ được những thói quen, để không cho dòng máu của sân hận chảy vào huyết quản, tim mạch con người. Phật giáo không lý giải mọi điều xảy ra ở hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ. Sân hận có thể bắt nguồn từ điều kiện trong quá khứ hay hiện tại, từ chủ quan hay khách quan, có những sân hận liên hệ giữa người với người, có những sân hận chỉ đơn thuần từ sự hiểu lầm hay là cạm bẫy của người khác tạo ra. Nếu quy kết tất cả hành động đều do thói quen thì sẽ đặt ra khả năng chủ thể có quyền được sân. Do đó, cho rằng được quyền giải quyết sân hận bằng cách trả đũa người khác.
Đừng cho rằng sân hận bắt nguồn từ thói quen, mà chỉ quan niệm sân hận như là cái gì đó đã tạo ra vết hằn trong quá khứ. Chẳng hạn, từ sự thiếu kiểm soát tâm và thiếu hiểu biết mà vết hằn này tạo ra vết hằn khác. Sự tích cóp nhiều đến độ tạo thành núi sân hận. Đứng trước quả núi sân hận, thù hằn, người ta cứ nghĩ không thể hoá giải được. Từ đó, hành động như phản xạ vừa có điều kiện, vừa không có điều kiện. Nghĩa là, bất cứ khi nào gặp những điều chướng tai gai mắt, đối đầu với “bồ đề gai,” hoặc phải đối diện, sống chung những người không muốn, chia tay người yêu thương, chịu âm dương cách biệt hay ly thân, ly dị, gặp quá nhiều hoàn cảnh không như ý… thì tâm phiền não diễn ra và chấp nhận những cơn sân hận như con đẻ. Chấp nhận đi vào quỹ đạo sai lầm và sự chuyển hoá rất khó vì khó có cơ hội để gội rửa tuyệt đối. Cho nên, đừng nghĩ sân hận hoạt động như dòng chảy của định nghiệp. Phần lớn cơn sân hận phụ thuộc rất nhiều điều kiện. Nhiều người có thể tha thứ cho người biết nói ngon, ngọt nhưng có người không, ngay cả trường hợp họ nói ngon ngọt về mình.
Cùng một tình huống như nhau, tại sao con người có hai cách ứng xử khác nhau? Ứng xử trong trường hợp mang tính điều kiện của lòng chấp thủ, thái độ không tha thứ và không nhìn thấy được giá trị của tình thương được thiết lập giữa ta và người. Vì thế, nội kết sân hân được tiếp nối, biện hộ, bao che và trưởng thành bằng nhiều cách. Theo đó, khổ đau sẽ tiếp tục có mặt.
Quan niệm Nho giáo cho rằng, “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nghĩa là, lúc con người mới sinh ra thì tất cả đều có lương tri, hành động lành, tâm lý tốt, lý tưởng hay. Khi tiếp xúc với hoàn cảnh xã hội, những người không dễ thương nên phiền não xuất hiện, bị trở ngại trên cuộc đời. Khi cho con người có “tính bản thiện” là đã đặt ra những định tính rằng, con người sẽ không làm điều xấu hay tốt, vốn thiện rồi cần gì phải làm điều thiện, vốn thiện rồi thì làm gì có điều xấu.
Theo quan niệm hạt giống của nhà Phật thì bản tính con người khi mới sinh vốn không thiện cũng không ác. Thiện hay ác tùy thuộc dòng chảy nghiệp lực được gieo trồng trong quá khứ. Do đó, bản tính hoàn toàn mang tính riêng tư và cá nhân. Người khi mới sinh ra gắn liền với những điều thiện là vì quá khứ đã hội tụ những hạt giống lành. Người mới sinh gắn liền với điều ác là vì đã hội tụ những hạt giống của cái xấu, cái ác. Vua Tần Thủy Hoàng là kết quả của mối tình vụng trộm giữa hoàng hậu Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Khi mới lên bảy tuổi, ông đã biết làm việc tội lỗi, làm nhiều người đau khổ là vì trong quá khứ ông ta đã từng gieo hạt giống khổ đau, và hạt giống xấu ác đó vẫn được tiếp nối trong hiện tại. Do đó, khẳng định bản tính con người vốn thiện hay ác là điều khó chấp nhận.
Học thuyết nhà Phật cho đó là nhân duyên, mà nhân duyên tuỳ thuộc vào điều kiện. Khi gặp điều kiện tốt, hạt giống có thể làm con người trở thành tốt và ngược lại. Là người theo Phật, phải lý giải tất cả vấn đề trên bình diện duyên khởi, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Miễn sao đặt ra được tình huống nếu áp dụng thích hợp thì sẽ có an vui, ngược lại thì bị khổ đau. Trong trường hợp đó, phải chọn con đường áp dụng hợp lý. Nghĩa là, không xem tính nóng nảy, sân giận như định mệnh, bản tính không thể thay đổi. Sẽ sai lầm nếu nói, tính của tôi như thế, ông, bà hay anh, chị chịu hay không thì tùy. Đồng ý thì hợp tác, không thì ra đi. Ứng xử vậy là đối xử phũ phàng với lương tâm, đạo đức vốn có, là phản bội lại với Phật tính vốn có, đồng thời cũng quay lưng lại với tất cả những điều kiện tốt có thể trở thành người rất dễ thương, gần gũi.
Nếu xã hội có những con người dễ thương, dễ mến thì tin chắc rằng mình cũng có thể trở thành những người như vậy. Đức Phật, các vị A la hán, Thánh tăng, những nhân vật lương thiện đã trở thành những người như vậy. Cho nên phải tin, thực tập và hành trì đạo đức thì ai cũng sẽ trở thành những người hoàn hảo. Cách suy luận, so sánh như vậy làm con người không bao giờ quan niệm thói quen xấu, sự sân hận, thái độ hẹp hòi, ganh tỵ là cá tính không thay đổi được. Khi thấy được thay đổi cá tính thông qua hành trì, cần nỗ lực hành trì có phương pháp, chắc chắn sẽ có được giá trị của một đời sống an vui.
Hỏi: Khi gặp điều bất như ý, chẳng hạn, bị mắng nhiếc thì con chọn cách nhẫn nhục, không đáp trả lại. Đó chỉ là ức chế tâm. Con đường tu ức chế tâm để dẫn đến buông xả thật sự như thế nào?
Đây là câu hỏi đề cập đến sự vượt qua sân hận bằng ức chế nhẫn nhục. Chữ “nhẫn” trong chữ Hán kết hợp bởi bộ trên là “đao”, tức là con dao và bộ dưới là chữ “tâm”. Nghĩa đen là con dao ghim vào tim, dao đang đâm vào sự sống, chặt tình cảm ra từng mảnh bằng những nghịch cảnh, chướng duyên, lời chỉ trích thiếu sự xây dựng. Không ai phủ định sự nhẫn nhục là chấp nhận khổ đau trong chừng mực nhất định, để sân hận không có cơ hội trỗi dậy. Nhưng nếu quan niệm “nhẫn” là “nhục” hay người nhẫn là người có khả năng chịu đựng những cái nhục là hiểu sai tinh thần của nhà Phật.
Trong ngôn ngữ tượng hình của chữ Hán, nhẫn nhục mang ý nghĩa rất hay. Nhưng hiểu không khéo thì trở thành tiêu cực. Trong tiếng Pali và Sanskrit, chữ “nhẫn” được hiểu là thái độ chịu đựng chứ không phải thái độ chịu những cái nhục. Mặc dù, cái nhục là thái độ chịu đựng. Nhẫn là thái độ vươn lên, là con đường lâu dài bền bỉ để dấn thân phục vụ, là giá trị hành trì tu tập. Nhẫn đòi hỏi quá trình lâu dài của sự huấn luyện, tô bồi nhân cách. Do đó, nhẫn là cơ hội để nung đúc con người trở thành người tài đức và tuệ giác, thành anh dũng, bất khuất, không sợ hãi trước mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Nếu quan niệm nhẫn là trạng thái ức chế tâm thì biết người đó chưa tu tập được hạnh nhẫn của Phật dạy. Hành giả tu hạnh nhẫn có thể quan niệm tất cả những lời mắng chửi xem như cơ hội rèn luyện tâm được thăng hoa, làm cho tâm trở nên từ bi hơn và không còn sợ hãi trước những lời hăm dọa của người khác. Nếu quan niệm vậy thì “nhẫn” không phải là “nhục” mà nhẫn chính là con đường hướng đến tâm linh, con đường của thành công và nhẫn chính là giá trị của an lạc. Nhẫn trong ức chế là làm tâm bị hành hạ, khổ đau. Hành giả Phật giáo cần phải thay đổi cách nhìn trong lúc đang thực tập hạnh nhẫn.
Quan sát và thấy, người nào có chất liệu chịu đựng hoặc có sự thâm thuý chiều sâu thì không biểu hiện nhẫn ra bên ngoài, trước mặt mọi người, dù trong tâm trỗi dậy những nỗi đau bực tức và hiềm hận như cỏ bị đá đè. Nhưng cỏ vẫn có cơ hội vươn lên sức sống nhiều hơn. Cũng vậy, sự đè nén, ức chế tâm lý càng làm cho sân hận bùng phát lớn hơn. Chẳng hạn, dùng một tảng đá chặn đứng dòng nước đang chảy, nhưng dòng chảy vẫn tiếp tục chảy mạnh hơn. Hoặc khi dùng dao chặt đứt một ngọn cây thì cây sẽ phát sinh ra thành nhiều nhánh. Dùng cưỡng lực để áp chế một phong trào thì phong trào đó càng lớn mạnh. Cho nên, nhẫn trong trường hợp ức chế sẽ không tạo ra giá trị an lạc và hạnh phúc. Mà nó sẽ nuôi sự ức chế này cho đến lúc không còn sự đè nén và có thể trở thành vụ nổ rất lớn trong tương lai. Do đó, cả hai đối tượng đều là nạn nhân của nhau. Vì vậy, đừng bao giờ hóa giải sự mắng chửi, nhục mạ của người khác bằng cưỡng lực ức chế tâm.
Con đường chuyển hoá ức chế tâm trở thành sự buông xả, phải được khởi từ nhận thức sáng suốt rằng, nếu sự bực tức vẫn còn giữ trạng thái đè nén thì vẫn còn là nạn nhân của khổ đau. Nhiều người cứ nghĩ lầm rằng, khi họ bực tức người khác, nuôi lòng thù hận là họ được hạnh phúc, nhưng thực tế, họ đang bị khổ đau nhiều hơn người gây ra sự bực tức. Có những tình huống, người tạo ra sự cau có, mắng chửi người khác nhưng nói xong là quên. Ấy thế, người nhận lại nhớ mãi những lời không như ý đó trong tâm, thậm chí nói, “sống để dạ, chết đem theo”, không bao giờ quên. Càng nhớ thì nỗi khổ đau ngày càng gia tăng, sức khoẻ ngày càng giảm, bệnh căng thẳng thần kinh ngày càng phát triển. Kết quả không mang lại bất kỳ lợi lạc nào cho cả hai người đang có vấn đề.
Người khôn ngoan nên “xoá sạch” dữ liệu của lòng sân khỏi ổ đĩa cứng của tâm thức, để tâm được an vui. Đức Phật mô tả hình ảnh lá sen trong kinh như là biểu tượng đẹp cho sự buông xả. Lá sen không giữ nước trên bề mặt. Tuy nhiên, nếu chiếc lá có hũng sâu và hoàn cảnh tương thích thì những giọt nước trên lá sen được giữ lại, nhưng trong vòng 2 đến 7 ngày sau, lá sen đó bị úng, bị hư và thủng. Cũng vậy, đừng bao giờ giữ những giọt nước của phiền não, sân hận, thị phi, ganh tị, hơn thua trong tâm. Bởi vì, trong lúc giữ lại những cái đó sẽ hành hạ tâm, đang làm cho quả tim đau nhức.
Con đường của sự ức chế dẫn đến buông xả chỉ nằm ở nhận thức. Nếu hiểu đúng thì trở thành người buông xả, hiểu sai sẽ trở thành bị ức chế. Buông xả và ức chế là hai năng lực, buông xả dẫn đến an vui, ức chế dẫn đến đau khổ. Mà khổ đau do ức chế sẽ gia tăng nhiều hơn. Chỉ cần có nhận thức sáng suốt thì sẽ có trạng thái buông xả các ức chế của tâm do nhận thức sai lầm trong quá khứ.
Hỏi: Nếu chọn cách quán chiếu nhân duyên, có lẽ do có gieo nhân gì đó nên phải nhận quả báo bị mắng nhiếc. Quán chiếu như vậy để hoá giải sân hận có dễ dàng hay không?
Đây cũng là cách quán niệm rất hay. Trong tất cả nỗi khổ do lời thị phi mắng nhiếc gây ra, có nhiều nguyên nhân. Không xác định được nguyên nhân nào thì khó vận dụng giải pháp hiệu quả. Trong trường hợp đó, tốt nhất nên vận dung cách thức tự an ủi. Nghĩa là cứ an ủi rằng, có lẽ trong quá khứ mình đã từng gây ra khó khăn, chỉ trích người tốt, hãm hại người lành, đẩy người lành vào những tình huống không lối thoát… từ đó làm họ thối thất tâm bồ đề, trở thành con người tội lỗi. Do vậy, tất cả những lời bị mắng nhiếc hôm nay là hệ quả tất yếu từ những gì đã làm trong quá khứ. Quan niệm vậy giúp người bị mắng nhiếc không có thái độ kháng cự lại, chỉ nghĩ đơn giản là thử thách nghiệp lực của mình mà thôi. Từ đó, chuyển hướng từ thái độ chịu đựng bị ức chế dẫn đến thái độ dấn thân phục vụ.
Hiểu được vậy, phải cảm ơn những thử thách để luyện tâm mình trở nên cao thượng. Nhiều lời chỉ trích thì càng làm cho nghiệp chướng giảm xuống, bản ngã rơi rụng và lòng hãnh diện tự hào không còn chỗ bám víu. Lúc đó, biến lời chỉ trích thành một pháp tu, biến nghịch cảnh trở thành đối tượng để chuyển hóa tâm tính. Hiểu vậy, sẽ dễ dàng thành công trong cuộc đời này!
Hỏi: Làm thế nào chuyển hoá sân hận?
Trả lời: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đặt ra giá trị sự sống dựa trên cảm xúc, nhận thức và tuệ giác. Tâm lý con người được chia ra 5 cấp từ thấp đến cao: Dục tính, cảm tính, tưởng tính, nhận thức tính, tuệ tính.
Khi con người nằm ở cấp thứ hai, tức là cảm xúc mạnh thì có độ nhạy cảm cao trực hay gián tiếp về mắt, tai, mũi, thân xúc chạm và ý tưởng nhận định đánh giá. Thực tế, cuộc đời có những nỗi khổ đau nhiều khi không bắt nguồn từ thực tại mà từ cách thức tiếp nhận, lý giải, nhận định, đánh giá vấn đề thông qua thái độ suy diễn động cơ. Do đó, nhiều khi khổ đau không do người khác làm mà do tự suy diễn, nghĩ người ta cố tình thì khổ đau gia tăng.
Người có độ nhạy cảm về lời nói, ứng xử, thái độ, việc làm của người khác nhiều là người chưa được may mắn. Bởi vì, có những vấn đề người ta nói bâng quơ nhưng cứ tưởng đang ám chỉ mình, rồi buồn tủi, phân biệt đối xử, cau có bực dọc… Nếu không có chất liệu buông xả thì sự thù hằn, nội kết trong họ đối với mối quan hệ với con người bị ách tắc, trở ngại, nhịp cầu nối kết tình thân giữa hai người bị chặt đứt và khổ đau quấn quýt đôi bên. Lúc đó, phải tìm hiểu chất liệu động cơ của người khác, phân tích nguyên nhân tại sao họ có thái độ, lời nói làm mình không vui. Cũng có thể đặt ra tình huống tích cực nào đó mà đối phương có thể có hoặc không để giúp tâm dễ dàng tha thứ, bỏ qua. Nhưng không nên đặt ra tình huống họ cố tình gây ra điều xấu cho mình. Chính tâm lý tích cực này giúp tháo gỡ nội kết giữa ta với người trên nền tảng cảm xúc mạnh.
Người có cảm xúc mạnh thường chịu nhiều khổ đau như: Cười nhiều thì buồn cũng nhiều, cười dễ thì khóc cũng dễ. Những người như vậy thường có phản ứng rất nhạy cảm. Thông thường, người nghệ sĩ, ca sĩ có mức độ nhạy cảm bén hơn người khác vì họ đã từng sống với những ánh đèn mờ, tràn đầy tiếng vỗ tay, khen ngợi, ca tụng, vinh quang dưới những thước phim báo chí…
Nên thực tập phương pháp, trong bất cứ tình huống xấu nào cũng nên nhìn thấy động cơ tốt của người khác để không cất chứa khó chịu, bực dọc, trầm cảm, bi luỵ… Đó cũng là cách thức có thể quan niệm như chức năng trị liệu cơn bệnh cảm tính nhạy bén. Thực ra, khi thực tập nhìn thấy động cơ tốt từ cái xấu của người khác là đang thương chính mình. Bởi vì, nếu không thương chính mình, không tháo gỡ, hoá giải nội kết trong tâm thì tâm lý trầm cảm sẽ thành căn bệnh ung thư của tâm.
Nhạy cảm nhận thức về chuyện xấu, không tốt, cái chưa hoàn thiện của người khác là cái xấu, có thể mang lại nhiều phiền não. Cho nên, trên con đường dấn thân, tu tập hoặc trong các mối quan hệ, đức Phật có dạy, đôi lúc phải biết làm ngơ như không nghe, không biết gì về chuyện không tốt của con người dù mình tai nghe, mắt thấy. Thái độ làm ngơ khác với thái độ bịt kín hai lỗ tai. Bịt kín lại là thái độ cực đoan. Làm ngơ là nghe thấy tất cả nhưng giả vờ như không nghe, không thấy để tất cả trạng thái bực dọc, phiền não không có cơ hội chinh phục, khống chế và khiến bị đau, sình lầy làm chùn chí tiến thủ vươn lên.
Mỗi người sinh ra đều mang theo tất cả tập quán, hành động, cách ứng xử trong quá khứ. Nếu quá khứ có mức độ nhạy cảm cao thì sinh ra có độ nhạy cảm hơn người khác. Do đó, khổ đau gây ra cho mọi người cũng dễ dàng.
Đức Phật dạy: Hãy buông xả những khúc mắc, cố chấp với đối phương để chữa cơn bệnh uất cảm của mình chứ không phải giúp người khác. Chưa phóng thích thì phức cảm vẫn còn hành hạ chính mình. Cuối cùng cũng trở thành nạn nhân của khổ đau thay vì là người hạnh phúc!
Hỏi: Sân hận do đâu mà có, xuất phát từ đâu. Loại sân hận nào nguy hiểm nhất?
Đạo Phật không chấp nhận nguyên nhân khởi thuỷ của mọi vấn đề. Nguyên nhân của mọi vấn đề tuỳ thuộc vào duyên, điều kiện xúc tác và nhân quả tương tác phức tạp đa chiều trực hay gián tiếp với nhau. Bốn gốc rễ (nguyên nhân) của sân hận, khổ đau đã được trình bày:
Một là bắt nguồn từ trạng thái nhận thức sai lầm về con người, cuộc đời và sự kiện…
Hai là bắt nguồn từ trạng thái sợ hãi. Ví dụ, tên trộm bị phát hiện thì phản ứng tự vệ, buộc tên trộm phải giết người để bịt đầu mối, nếu không có sẽ bắt bỏ tù. Cho nên, sự triệt tiêu đối tượng trong trường hợp này bắt nguồn từ nỗi sợ hãi bị luật pháp truy tố, trừng trị… Tất cả những nỗi sợ hãi đó làm anh ta trở thành con người bạo động.
Ba là bắt nguồn từ thái độ độc tôn, loại trừ, chỉ chấp nhận chính mình. Thường thấy là các học thuyết, chủ nghĩa, tôn giáo, phái giáo… tất cả những gì thuộc về thần tượng cá nhân đều liên hệ ít nhiều đến thái độ tạo ra sự sân hận.
Bốn là bắt nguồn từ việc không hiểu bản chất văn hoá của người khác, không thấy được đa nguyên như là giá trị hỗ trợ nhau, không thấy tất cả những con đường khác nhau là sự phong phú trong cuộc đời, là nhu cầu cần thiết cho sự sống của con người, mà từ sự khác biệt đó lại tỏ thái độ cau có, bực tức đối với chính mình.
Ngoài ra, sân hận có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân ngoại cảnh như tình yêu, hoàn cảnh, môi trường… Hoặc những nguyên nhân nóng nảy do sinh lý như mất ngủ, căng thẳng, không đáp ứng được với sự thay đổi nhiệt độ, khí hậu, thời tiết… hay bệnh lý làm cho thái độ chịu đựng bị giảm xuống cũng gây dễ nổi nóng, kháng cự, phản ứng chống đối…
Theo nhà Phật, không có một nguyên nhân đầu tiên cho tất cả mọi nguyên nhân còn lại. Tuỳ trường hợp, điều kiện môi trường mà sân hận xảy ra nặng hay nhẹ, chủ quan hay khách quan.
Phân tích gốc rễ của sân hận, phải có tầm nhìn rộng về tất cả những nguyên nhân có thể xảy ra. Không nên quy kết vào một nguyên nhân nhất định. Vì khi quy kết vào một nguyên nhân thì sẽ quy kết một chiều, đổ trách nhiệm vào một người có thể là ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, bạn hay người không thân… Do đó, đánh mất cơ hội nhìn thấy trách nhiệm hành vi của mình đối với mọi người.
Muốn có được sự an lạc, hạnh phúc thì phải nhìn thấy nguyên nhân gây ra đau khổ, lận đận. Từ đó mới có giải pháp thích hợp để tháo gỡ.
Đây là câu hỏi rất hay vì đề cập đến khúc mắc mà rất nhiều người vấp phải! Thật khó xử khi nhìn thấy hai người thân của mình trở thành kẻ thù của nhau. Người nào cũng cho rằng mình đúng. Dĩ nhiên, khi cho mình đúng thì cũng đồng thời không chấp nhận đối phương. Do đó, cả hai người vô tình đóng bít cánh cửa truyền thông với nhau.
Trường hợp này, người bị khúc mắc đang xây dựng bức tường Béc-lin trong mối quan hệ, và đôi khi muốn mang bức tường đó vào tâm thức ở đời này và đời sau. Quan niệm đó làm cho người ta không bao giờ chấp nhận người khác. Cần nhận diện lối ứng xử “tự thị tha phi” sẽ không mang lại bất kỳ sự lợi lạc hay an vui nào cho mình và người. Không thể đẩy người khác vào thế khó xử. Đồng thời, đừng biến bản thân thành nạn nhân của lận đận, khổ đau.
Khi biết hai người thân đang lận đận với nhau, chỉ cần khách quan quan sát truy tìm gốc rễ của nội kết vốn bắt nguồn từ sự cố tình hay vô ý. Khi cái gút bế tắc được hỗ trợ bằng thái độ không tha thứ thì dù có nỗ lực hóa giải cũng khó thành công. Chính đức Phật Thích Ca có lần đã thất bại trong vai trò làm người hóa giải cơn sân hận của vua Lưu Ly với hoàng tộc dòng họ Thích Ca trong cuộc truy sát tiêu diệt tập thể dòng họ Thích Ca.
Trong quá khứ, quan hệ giữa dòng họ Thích Ca và Lưu Ly của vua Lưu Ly có nhiều nội kết. Vì là nước yếu nên vua Lưu Ly đời trước đã nỗ lực tìm cách thiết lập quan hệ với nước Thích Ca hùng mạnh. Trong lịch sử, thường có cách thiết lập hoà bình, tạo liên minh thông qua cuộc hôn nhân. Do đó, vua Lưu Ly ngỏ lời cầu hôn công chúa nước Thích Ca để thiết lập hoà bình giữa hai nước. Nỗ lực này nhằm tạo liên minh và biến kẻ thù thành tình thân. Bên dòng họ Thích Ca khinh thường thiện chí của nước Lưu Ly, cho rằng vua Lưu Ly không đủ tư cách kết hôn với công chúa của nước Thích Ca. Vì vậy, dòng họ Thích Ca âm thầm tráo công chúa, thay vào một tỳ nữ của dòng họ Thích Ca và gả cho vua nước Lưu Ly. Vua nước Lưu Ly cứ ngỡ là công chúa nên sống rất hạnh phúc. Chuyện được dấu kín nhiều năm. Đến đời vua Lưu Ly thế hệ con tương ứng thời đức Phật, sự việc tráo đổi mới bị phát hiện. Ông vua hậu duệ này cảm thấy dòng họ Lưu Ly bị nhục mạ, khinh bỉ nên ôm lòng phục thù, rửa hận và tuyên bố sẽ bình địa dòng họ Thích Ca.
Sau khi đức vua Tịnh Phạn qua đời, dòng họ Thích Ca rơi vào tình trạng không có người kế ngôi xứng đáng. Thái tử thay vì phải trở thành Quốc vương lại trở thành bậc Giác Ngộ. Các hoàng thân quốc thích như A-Nan, Nan Đà, La Hầu
La đều đã trở thành người xuất gia. Vua Tịnh Phạn không còn người kế thừa. Phật Thích Ca đề nghị Ma Ha Nam làm người kế vị ngôi vua. Khi biết được tâm ý sân hận của vua Lưu Ly, đức Phật đã đích thân đi gặp vua Lưu Ly để hoá giải hận thù quá khứ giữa hai nước. Đức Phật khuyên vua Lưu Ly không nên khơi dậy nỗi đau quá khứ mà những người Thích Ca và Lưu Ly hiện tại không hề can hệ trực hay gián tiếp. Không thể quy trách nhiệm sai lầm của vua Thích Ca trong quá khứ mà buộc dòng họ Thích Ca hiện tại phải gánh chịu hậu quả. Hãy trải tâm từ bi để xoá bỏ hận thù. Chỉ có tâm từ bi mới tháo gỡ được gút oan trái này.
Sự quy trách nhiệm sai lầm của người nào đó trong quá khứ để buộc những người không can hệ gì phải gánh hậu quả ở hiện tại là vết loang của nỗi đau không được tháo mở. Hơn nữa, việc truy sát dòng họ Thích Ca để rửa hận không thể làm cho dân tộc Lưu Ly được hạnh phúc. Ngược lại, chỉ tạo thêm những hận thù mới. Do không xả bỏ được lòng sân. Từ mối thù cá nhân ở quá khứ đã trở thành mối thù tập thể đối với hai nước. Lịch sử cho thấy, năm trăm người của dòng họ Thích Ca bị truy sát tập thể.
Thái độ ứng xử của vua Lưu Ly là không khôn ngoan. Sự trả đũa chỉ tạo thêm tội lỗi và liên luỵ tiêu cực tới dòng họ Lưu Ly trong quá khứ, tạo thêm khổ đau cho hai nước ở hiện tại và tương lai. Đức Phật khuyên, hãy lấy tình thương để xoá bỏ hận thù, lấy lòng từ bi để hóa giải những cái gút khổ đau trong quá khứ cũng như hiện tại. Thế mà vua Lưu Ly ngoan cố không chấp nhận. Do đó, cuộc chiến đã diễn ra. Sự thương tổn, chết chóc không chỉ dòng họ Thích Ca phải chịu, ngay cả phía vua Lưu Ly cũng vậy. Sự kiện lịch sử này cho thấy, dù đức Phật muốn hóa giải nhưng nếu người được hoá giải không có lòng muốn chuyển hoá, không có lòng hỷ xả, bao dung thì sự hoá giải đó khó đạt được kết quả như mong đợi.
Hành giả mang hạnh nguyện của Bồ tát vào đời độ sinh, không chỉ có lòng nhiệt huyết mà còn phải có trí tuệ và phương tiện. Khi thấy được giá trị của sự xây dựng sẽ thấy được giá trị của sự chuyển hoá. Nhưng kết quả của sự chuyển hoá diễn ra nhiều hay ít còn phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng được dấn thân chuyển hoá. Nếu cả hai bên sau khi nghe lời khuyên can mà vẫn cố chấp, không buông xả thì phần thiệt thòi thuộc về phía họ. Lúc ấy, đành bó tay nhìn họ bị khổ đau vì hận thù chi phối!
Tình thương vẫn có những hạn chế, nhất là đối với người không có lòng lắng nghe. Sự dấn thân cũng có những hạn chế nhất định, vì còn lệ thuộc vào nhân quả giữa hai người đang hận thù có thật sự muốn mở gút oan khiên hay không. Hậu quả của sự cố chấp và thiếu lòng bao dung làm cho cả hai gánh lấy hậu quả khổ đau ở đời này và đời sau. Người làm công việc hoà giải chỉ đóng vai trò xúc tác, trợ duyên giúp hai đối tượng được việc sai lầm, đang gây đau khổ cho nhau. Họ gieo trồng những hạt giống sân hận và làm ảnh hưởng đến những người có liên hệ trực hoặc gián tiếp. Nếu cả hai không chịu chấp nhận tháo gỡ hận thù thì đó là giới hạn của sự chấp mắc, bảo thủ và lương tâm đóng băng nên không nhìn thấy được sự chuyển hoá của cuộc đời.
Quan niệm, “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy” là một cách thức giải quyết những xung đột trong cuộc đời. Mặc áo giấy đi với ma chỉ nên diễn ra sau nỗ lực mặc áo cà sa mà vẫn không thành công. Sau khi người dấn thân nỗ lực chuyển hoá những con ma không thành công, chúng không chịu làm mới mà vẫn tiếp tục cố tình cản phá, gây trở ngại, khổ đau cho nhiều người, lúc ấy người dấn thân cần có biện pháp mạnh. Chuyển hoá bằng cách giáo dục đạo đức không thành tựu thì phải áp dụng chuyển hoá bằng luật pháp và hình phạt. Đây là cách thức các hệ thống luật pháp trên thế giới đã áp dụng.
Luật pháp chuyển hóa con người bằng sự trừng phạt nghiêm khắc chứ không bằng lời nói của tình thương. Giết người thì phải bị luật pháp xử nghiêm minh. Trộm cắp thì có thể bị chặt đứt bàn tay (đặc biệt trong luật pháp của một số nước ở Trung Đông ngày xưa). Nếu ai đã gây khổ đau cho cuộc đời và người thì phải bị luật pháp trừng phạt bằng khổ đau tương tự. Quá trình sống với khổ đau do luật pháp trừng phạt, người phạm luật sẽ không tái phạm nữa. Sự trừng phạt có tác dụng giáo dục chuyển hoá những người không biết lắng nghe tiếng nói của đạo đức và lương tâm. Trong tình huống này, đi với ma không thể mặc áo cà sa mà phải mặc áo giấy. Tức là phải có những phương tiện thích đáng để giúp những người cang cường khó hoá độ có cơ hội chuyển hoá.
Tinh thần “đi với ma mặc áo giấy” nói lên tính thích ứng trong việc chọn phương pháp đối trị và cứu giúp chúng sinh. Nó có thể sử dụng đối với luật pháp nhưng không đúng với tinh thần nhà Phật. Vì các đức Phật, Bồ tát, các vị A la hán nhìn thấy được khả năng chuyển hoá những sai lầm, nỗi đau, phiền não của con người. Bởi thế, các ngài tin tưởng đã chọn phương cách giúp cho chúng sinh được gần gũi với tông chỉ của các Ngài để họ tự chuyển hoá (mặc áo cà sa). Áp dụng giải pháp “mặc áo cà sa” cho người hiền lương giúp cho người sai lầm chuyển hoá nội kết trong cuộc sống. Kết quả của sự chuyển hoá sẽ mang lại hạnh phúc cho cả hai.
Người dấn thân cứu đời nên tận dụng tất cả những điều kiện, phương pháp để góp phần tiêu diệt con ma nghiệp lực, phiền não. Nhờ sự sáng suốt và thái độ dứt khoát có thể chặn đứng cây gươm khổ đau, dừng lại các cây súng bất hạnh, hành động khủng bố của những kẻ xấu, ác đang mất phương hướng.
Vấn đề cần hiểu ở đây là: Những lời của Phật, Tổ dạy và những điều các nhà văn học Phật giáo viết có sự khác nhau rất lớn. Có trường hợp nhà văn học Phật giáo viết giống với tinh thần đức Phật dạy, nhưng cũng có trường hợp không đúng. Nếu cho những gì nhà văn Phật giáo viết là chân lý bất di bất dịch và áp dụng theo là đang đi ngược lại tinh thần Phật dạy. Lúc đó, khổ đau có thể xuất hiện làm con người chán chường, thất vọng, mất phương hướng.
Cho nên, đệ tử Phật phải noi theo tinh thần hóa giải của đức Phật. Khi áp dụng câu “đi với ma mặc áo giấy” đừng nên lạm dụng tinh thần này, nghĩa là, đừng lấy quan niệm trừng phạt áp đặt lên đối tượng cần giáo dục mà chưa nắm rõ được đối tượng đó có cần luật quá nghiêm khắc “mặc áo giấy” hay không? Nếu kẻ xấu chỉ làm một điều xấu và vì trị tội họ nên ta “mặc áo giấy”, làm điều xấu lại tương tự gấp hai ba lần thì không khác gì người xấu đó, thậm chí còn xấu tồi tệ hơn họ. Cho nên, “mặc áo giấy” khi đi với ma trong mọi tình huống mà không khôn khéo, không biết tùy duyên có thể dẫn đến tình trạng đặt người xấu trên cán cân còn và mất. Đối lập với người xấu như thể hai con gà đang đá nhau. “Mặc áo giấy” với ma không phải là giải pháp đối với tất cả tình huống. Ăn miếng trả miếng chỉ làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng.
Nhiều người sử dụng phương châm “đi với ma mặc áo giấy” thay cho lời biện hộ không nhân từ, lạm dụng như bình phong để che đậy tất cả những thái độ ứng xử thiếu lòng vị tha. Có thể là lời biện minh khi chưa thể áp dụng tinh thần lấy từ bi hoá giải hận thù. Theo tinh thần Phật dạy, người hành xử khôn ngoan nên tìm những giá trị của sự chuyển hoá để áp dụng. Đừng tạo cơ hội cho kẻ đối lập trở thành kẻ thù với mình, đừng đẩy họ vào thế khó xử. Hãy tin mọi thứ đều có thể chuyển hoá được. Đạo lý vô thường là nguyên lý nhận thức cho phép tin mọi sự vật hiện tượng luôn vận hành, chuyển biến, trôi chảy. Do đó, tâm lý, thái độ, lập trường của con người dù tốt hay xấu cũng như một thác nước chảy không dừng. Có thể họ làm việc xấu trong quá khứ nhưng hiện tại họ cũng có thể làm việc lành. Hiện tại họ ngoan cố nhưng tương lai có thể thức tỉnh, thay đổi tâm tính. Nguyên lý vô thường cho phép tin sự chuyển hóa có thể thực hiện được khi con người nỗ lực và kiên nhẫn. Thấy được điều này sẽ tránh được lỗi quan niệm “định mệnh” hay “định tính” về một con người bị cho là ma, cần được áp dụng luật trừng phạt “mặc áo giấy” để ứng xử.
Điều gì thuộc về khổ đau đều đặt sự thay đổi đó vào khái niệm vô thường. Vì tâm vô thường nên tâm lý xấu có thể chuyển hoá thành tâm lý tốt. Cái gì thuộc về phục vụ và đóng góp thì đặt vào khái niệm chuyển hoá. Đức Phật tin vào khả năng chuyển hoá nên Ngài không bao giờ kết án, nguyền rủa những ai đã tạo khổ đau cho Ngài, ngược lại Ngài còn thọ ký cho người xấu, ngay cả “nhất xiển đề” cũng được thành Phật. Tức là thọ ký cho những con người luôn cản phá bước đường hoằng pháp của Ngài, mang lại khổ đau cho những người đang sống theo lời dạy của Đức Phật. Cách ứng xử của đức Phật hoàn toàn khác với thái độ ứng xử phàm phu. Phần lớn người đời ứng xử “ăn miếng trả miếng”. Nếu đã từng bị làm khổ đau thì bây giờ không tha thứ, bỏ qua. Có người cố tình trả đũa bằng nhiều cách nghĩ rằng, phải cho người ta một bài học. Trong sự trả đũa, cả hai đã trở thành nạn nhân khổ đau. Sự lận đận tiếp tục có mặt ở tương lai, tiếp nối chập chùng từ đời này sang đời khác, không chấm dứt.
Hỏi: Khi sân hận bốc lên, tôi đã quán niệm hơi thở nhưng không hiệu quả. Tôi chuyển qua quán nhân quả vẫn không hiệu nghiệm. Vậy, tôi phải làm gì để tránh tất cả những nghiệp xấu có thể xảy ra cho người khác?
Câu hỏi này đề cập đến nỗ lực hành trì. Mọi người đều có thể lâm vào tình huống tương tự câu hỏi đặt ra. Biết rằng, khi sân hận diễn ra thì lấy “hơi thở” làm đề tài quán chiếu để hoá giải cơn sân hận theo sự vận hành của hơi thở. Khi ý thức tập trung vào hơi thở, cơn giận từ từ bị phân tán, cho đến lúc sân hận không còn tác dụng. Hoạt dụng của sân hận sẽ được hóa giải theo sự vận hành của hơi thở, tạo những giá trị an lạc, hạnh phúc thay thế những sân hận khổ đau và phiền não. Nếu áp dụng đúng phương pháp sẽ thành công, ngược lại, áp dụng sai thì không thành công. Quan trọng là đừng nản lòng thối chí khi kết quả chưa đến. Cá tính con người có thói quen chấp trước hoặc biết nhưng làm không triệt để. Lẽ ra phải buông bỏ sân hận thì lại không chịu nên khi áp dụng không phát huy được trọn vẹn năng lực chuyển hoá của phương pháp quán niệm hơi thở. Bản chất của quán niệm hơi thở là lấy hơi thở làm đối tượng để buông xả tất cả những gì không có lợi cho hạnh phúc, ở đây là sự nóng nảy. Trong lúc quán hơi thở mà vẫn không chịu buông sân hận thì sẽ không có kết quả là đương nhiên. Do đó, thói quen về bản tính con người có thể là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự thất bại trong chuyển hoá nổi sân.
Thứ hai, người ta thường biện hộ, do nghiệp nặng quá nên nội kết giữa tôi với đối phương không thể nào tháo gỡ được trọn vẹn và tuyệt đối. Vì vậy, tạm chấp nhận hệ quả của lòng sân, tạm chấp nhận những gì có thể làm được và lại không tin tưởng vào bản thân có thể làm hiệu nghiệm, kết quả tốt. Trong khi đó, chỉ cần buông xả lòng sân theo hơi thở, đồng thời cùng lúc nạp thêm dưỡng chất tha thứ và hoan hỷ vào cơ thể thì tâm nhẹ nhõm biết bao. Việc gì con người cũng có thể làm được nhưng khi không tin bản thân có thể làm được hiệu quả thì tiềm năng của nỗ lực bị đóng bít.
Dĩ nhiên, trong trường hợp câu hỏi vừa nêu có thể vận dụng nhiều phương pháp hỗ trợ khác. Bởi vì có những cơn bệnh nếu chỉ uống một loại thuốc sẽ không có tác dụng, phải uống thêm những thuốc khác. Do đó, phải hỗ trợ bằng nhiều phương pháp, nhiều cách khác nhau. Nếu không đạt kết quả như mong đợi, ít nhất cũng đạt 60%, 70%.
Trong bài pháp thoại, chúng tôi trình bày các phương pháp hoãn binh, thay thế, không liên minh (không để nỗi đau lây lan và bành trướng), chuyển hoá sự giận dữ. Xin chia sẻ thêm phương pháp quán không tác giả, là phương pháp quán chiếu rằng không có chủ thể tạo ra phiền não giữa ta và người, cũng không có nỗi đau đang hiện hữu. Phương pháp này đòi hỏi khả năng quán niệm cao hơn các phương pháp vừa trình bày.
Thí dụ: Khi đi du lịch trên một chiếc thuyền ở vùng duyên hải bang Florida. Ở đó, có thể thưởng ngoạn cảnh đẹp, có thể bỏ ra mấy chục ngàn Mỹ kim để mua chiếc ca nô đẹp. Đến bãi thuyền, trèo lên ca nô, nằm trên mạn thuyền rồi ra lệnh nổ máy. Lúc đó, cảm giác an toàn và hạnh phúc sẽ xuất hiện tạm thời. Nhưng nếu phía sau có một chiếc thuyền đang đi tới và lao vào ca nô của ta thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Phản ứng đầu tiên khi có sự va chạm là nghĩ kẻ nào đó muốn phá đám giấc ngủ ngon của mình. Vì nghĩ người lái thuyền cố ý nên sẽ có phản ứng trả đũa. Không kiềm được cảm xúc nóng nảy, bạn có thể nhảy sang chiếc thuyền đã đụng vào ca nô, xem tác giả vụ đụng thuyền này muốn gì. Khi tìm phía trước, phía sau thuyền mà không thấy ai thì cơn giận dữ chùng xuống và vơi đi, vì nghĩ đây chỉ là chuyện tình cờ, không ai cố tình cả! Lúc đó, cơn sân hận lớn trở thành cơn sân hận nuối tiếc về giấc ngủ.
Cũng vậy, trong cơn giận dữ, nếu quán tưởng không có một chủ thể nào đang cố ý quậy phá hay tạo phiền não (nỗi đau không có tác giả) thì dễ dàng bỏ qua. Khi cơn giận dữ nổi lên, hãy hít thở thật sâu và quán tưởng mọi sự vận hành của cuộc đời, mọi niềm đau nỗi khổ sẽ trôi qua. Dù niềm đau nỗi khổ đó do ai cố tình tạo ra đi nữa cũng vẫn không quan trọng. Thậm chí nghĩ, chỉ là vô tình hay do thiếu hiểu biết, thiếu cảm thông để không quy trách nhiệm cho đối phương phải chịu hệ quả của y, tránh sự có thể phản hồi trả đũa lại đối phương. Cho nên, quán niệm không có chủ thể tạo ra phiền não, không có dòng chảy phiền não đang vận hành trong nỗi khổ, ta không phải là nạn nhân trải qua nỗi khổ sẽ giúp trở về trạng thái tâm an vui. Nhờ quán chiếu vô ngã về khổ đau nên dễ dàng, buông xả sân hận mà tha thứ.
Phương pháp này đòi hỏi quán niệm với sự tập trung cao độ, đòi hỏi có tấm lòng hỷ xả, rộng lượng. Làm được điều này sẽ tháo gỡ được lòng sân hận. Đừng bao giờ thiết lập những bức tường khổ đau, mà hãy tháo gỡ những bức tường khổ đau giữa ta và người. Như vậy là góp phần thiết lập một thế giới an bình và hạnh phúc! Quán tưởng bằng nội lực và có phương pháp chắc chắn sẽ mang lại giá trị an vui. Nếu chuyển hoá không được thì tối thiểu cũng không cho nó lớn thêm ở hiện tại và tương lai. Theo thời gian, nó được chuyển hoá từ từ. Nếu nỗ lực thì có thành quả an vui!
Trong phương pháp quán nhân quả, đặc biệt là quán hậu quả tiêu cực của lòng sân làm con người sợ hãi mà không để tâm xảy ra nóng nảy và thiếu sự kiểm soát. Tính hiệu nghiệm của phương pháp này chỉ ở lúc người nóng nảy chưa nổi cơn tam bành. Một khi đã có sấm sét trỗi dậy, tâm trí người quán không còn đủ sáng suốt để nhận ra mình đang sai thì làm sao chuyển hoá được. Do đó, phải thực tập phương pháp quán mỗi ngày hai lần trước và sau khi đi ngủ. Cảm xúc toàn thân được thấm nhuần đạo lý nhân quả nghiệp báo “Ngậm máu phun người miệng mình dơ trước”. Nhờ đó, hành giả có thể giải phóng, xả bỏ được cơn giận dữ. Thực tập mà không có kết quả không phải do phương pháp không hiệu nghiệm, mà vì độc tố sân hận trong lòng còn quá nhiều nên quán tưởng sơ sơ sẽ không thấm vào đâu. Do vậy, cần tiếp tục quán chiếu thì sẽ có kết quả.
Hỏi: Tâm sân hận là do thói quen, môi trường ảnh hưởng, hay do một người sinh ra, có sẵn nghiệp lực của sự huân tập? Nếu do nghiệp lực thì tại sao có câu “Nhân chi sơ tính bản thiện”?
Câu hỏi này quy kết lòng sân hận con người như một thói quen được tạo ra quá khứ, có thể bắt nguồn từ khổ đau và nội kết giữa ta và người. Thí dụ, người lính trong trận tuyến phải đối đầu và giết người lính đối lập. Trong chiến đấu, không cho phép tha thứ đối phương, vì tha thứ là tự đặt mình vào cõi chết. Vì vậy, một trong hai đối tượng phải ra tay trước để được sống.
Cuộc sống, có người quan niệm “Tiên hạ thủ uy cường”, tức là sẵn sàng chấp nhận thói quen đã được giáo dục, huấn luyện, kết tập từ đời này sang đời kia. Quan niệm đó không giúp tháo gỡ được những thói quen, để không cho dòng máu của sân hận chảy vào huyết quản, tim mạch con người. Phật giáo không lý giải mọi điều xảy ra ở hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ. Sân hận có thể bắt nguồn từ điều kiện trong quá khứ hay hiện tại, từ chủ quan hay khách quan, có những sân hận liên hệ giữa người với người, có những sân hận chỉ đơn thuần từ sự hiểu lầm hay là cạm bẫy của người khác tạo ra. Nếu quy kết tất cả hành động đều do thói quen thì sẽ đặt ra khả năng chủ thể có quyền được sân. Do đó, cho rằng được quyền giải quyết sân hận bằng cách trả đũa người khác.
Đừng cho rằng sân hận bắt nguồn từ thói quen, mà chỉ quan niệm sân hận như là cái gì đó đã tạo ra vết hằn trong quá khứ. Chẳng hạn, từ sự thiếu kiểm soát tâm và thiếu hiểu biết mà vết hằn này tạo ra vết hằn khác. Sự tích cóp nhiều đến độ tạo thành núi sân hận. Đứng trước quả núi sân hận, thù hằn, người ta cứ nghĩ không thể hoá giải được. Từ đó, hành động như phản xạ vừa có điều kiện, vừa không có điều kiện. Nghĩa là, bất cứ khi nào gặp những điều chướng tai gai mắt, đối đầu với “bồ đề gai,” hoặc phải đối diện, sống chung những người không muốn, chia tay người yêu thương, chịu âm dương cách biệt hay ly thân, ly dị, gặp quá nhiều hoàn cảnh không như ý… thì tâm phiền não diễn ra và chấp nhận những cơn sân hận như con đẻ. Chấp nhận đi vào quỹ đạo sai lầm và sự chuyển hoá rất khó vì khó có cơ hội để gội rửa tuyệt đối. Cho nên, đừng nghĩ sân hận hoạt động như dòng chảy của định nghiệp. Phần lớn cơn sân hận phụ thuộc rất nhiều điều kiện. Nhiều người có thể tha thứ cho người biết nói ngon, ngọt nhưng có người không, ngay cả trường hợp họ nói ngon ngọt về mình.
Cùng một tình huống như nhau, tại sao con người có hai cách ứng xử khác nhau? Ứng xử trong trường hợp mang tính điều kiện của lòng chấp thủ, thái độ không tha thứ và không nhìn thấy được giá trị của tình thương được thiết lập giữa ta và người. Vì thế, nội kết sân hân được tiếp nối, biện hộ, bao che và trưởng thành bằng nhiều cách. Theo đó, khổ đau sẽ tiếp tục có mặt.
Quan niệm Nho giáo cho rằng, “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nghĩa là, lúc con người mới sinh ra thì tất cả đều có lương tri, hành động lành, tâm lý tốt, lý tưởng hay. Khi tiếp xúc với hoàn cảnh xã hội, những người không dễ thương nên phiền não xuất hiện, bị trở ngại trên cuộc đời. Khi cho con người có “tính bản thiện” là đã đặt ra những định tính rằng, con người sẽ không làm điều xấu hay tốt, vốn thiện rồi cần gì phải làm điều thiện, vốn thiện rồi thì làm gì có điều xấu.
Theo quan niệm hạt giống của nhà Phật thì bản tính con người khi mới sinh vốn không thiện cũng không ác. Thiện hay ác tùy thuộc dòng chảy nghiệp lực được gieo trồng trong quá khứ. Do đó, bản tính hoàn toàn mang tính riêng tư và cá nhân. Người khi mới sinh ra gắn liền với những điều thiện là vì quá khứ đã hội tụ những hạt giống lành. Người mới sinh gắn liền với điều ác là vì đã hội tụ những hạt giống của cái xấu, cái ác. Vua Tần Thủy Hoàng là kết quả của mối tình vụng trộm giữa hoàng hậu Triệu Cơ và Lã Bất Vi. Khi mới lên bảy tuổi, ông đã biết làm việc tội lỗi, làm nhiều người đau khổ là vì trong quá khứ ông ta đã từng gieo hạt giống khổ đau, và hạt giống xấu ác đó vẫn được tiếp nối trong hiện tại. Do đó, khẳng định bản tính con người vốn thiện hay ác là điều khó chấp nhận.
Học thuyết nhà Phật cho đó là nhân duyên, mà nhân duyên tuỳ thuộc vào điều kiện. Khi gặp điều kiện tốt, hạt giống có thể làm con người trở thành tốt và ngược lại. Là người theo Phật, phải lý giải tất cả vấn đề trên bình diện duyên khởi, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Miễn sao đặt ra được tình huống nếu áp dụng thích hợp thì sẽ có an vui, ngược lại thì bị khổ đau. Trong trường hợp đó, phải chọn con đường áp dụng hợp lý. Nghĩa là, không xem tính nóng nảy, sân giận như định mệnh, bản tính không thể thay đổi. Sẽ sai lầm nếu nói, tính của tôi như thế, ông, bà hay anh, chị chịu hay không thì tùy. Đồng ý thì hợp tác, không thì ra đi. Ứng xử vậy là đối xử phũ phàng với lương tâm, đạo đức vốn có, là phản bội lại với Phật tính vốn có, đồng thời cũng quay lưng lại với tất cả những điều kiện tốt có thể trở thành người rất dễ thương, gần gũi.
Nếu xã hội có những con người dễ thương, dễ mến thì tin chắc rằng mình cũng có thể trở thành những người như vậy. Đức Phật, các vị A la hán, Thánh tăng, những nhân vật lương thiện đã trở thành những người như vậy. Cho nên phải tin, thực tập và hành trì đạo đức thì ai cũng sẽ trở thành những người hoàn hảo. Cách suy luận, so sánh như vậy làm con người không bao giờ quan niệm thói quen xấu, sự sân hận, thái độ hẹp hòi, ganh tỵ là cá tính không thay đổi được. Khi thấy được thay đổi cá tính thông qua hành trì, cần nỗ lực hành trì có phương pháp, chắc chắn sẽ có được giá trị của một đời sống an vui.
Hỏi: Khi gặp điều bất như ý, chẳng hạn, bị mắng nhiếc thì con chọn cách nhẫn nhục, không đáp trả lại. Đó chỉ là ức chế tâm. Con đường tu ức chế tâm để dẫn đến buông xả thật sự như thế nào?
Đây là câu hỏi đề cập đến sự vượt qua sân hận bằng ức chế nhẫn nhục. Chữ “nhẫn” trong chữ Hán kết hợp bởi bộ trên là “đao”, tức là con dao và bộ dưới là chữ “tâm”. Nghĩa đen là con dao ghim vào tim, dao đang đâm vào sự sống, chặt tình cảm ra từng mảnh bằng những nghịch cảnh, chướng duyên, lời chỉ trích thiếu sự xây dựng. Không ai phủ định sự nhẫn nhục là chấp nhận khổ đau trong chừng mực nhất định, để sân hận không có cơ hội trỗi dậy. Nhưng nếu quan niệm “nhẫn” là “nhục” hay người nhẫn là người có khả năng chịu đựng những cái nhục là hiểu sai tinh thần của nhà Phật.
Trong ngôn ngữ tượng hình của chữ Hán, nhẫn nhục mang ý nghĩa rất hay. Nhưng hiểu không khéo thì trở thành tiêu cực. Trong tiếng Pali và Sanskrit, chữ “nhẫn” được hiểu là thái độ chịu đựng chứ không phải thái độ chịu những cái nhục. Mặc dù, cái nhục là thái độ chịu đựng. Nhẫn là thái độ vươn lên, là con đường lâu dài bền bỉ để dấn thân phục vụ, là giá trị hành trì tu tập. Nhẫn đòi hỏi quá trình lâu dài của sự huấn luyện, tô bồi nhân cách. Do đó, nhẫn là cơ hội để nung đúc con người trở thành người tài đức và tuệ giác, thành anh dũng, bất khuất, không sợ hãi trước mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Nếu quan niệm nhẫn là trạng thái ức chế tâm thì biết người đó chưa tu tập được hạnh nhẫn của Phật dạy. Hành giả tu hạnh nhẫn có thể quan niệm tất cả những lời mắng chửi xem như cơ hội rèn luyện tâm được thăng hoa, làm cho tâm trở nên từ bi hơn và không còn sợ hãi trước những lời hăm dọa của người khác. Nếu quan niệm vậy thì “nhẫn” không phải là “nhục” mà nhẫn chính là con đường hướng đến tâm linh, con đường của thành công và nhẫn chính là giá trị của an lạc. Nhẫn trong ức chế là làm tâm bị hành hạ, khổ đau. Hành giả Phật giáo cần phải thay đổi cách nhìn trong lúc đang thực tập hạnh nhẫn.
Quan sát và thấy, người nào có chất liệu chịu đựng hoặc có sự thâm thuý chiều sâu thì không biểu hiện nhẫn ra bên ngoài, trước mặt mọi người, dù trong tâm trỗi dậy những nỗi đau bực tức và hiềm hận như cỏ bị đá đè. Nhưng cỏ vẫn có cơ hội vươn lên sức sống nhiều hơn. Cũng vậy, sự đè nén, ức chế tâm lý càng làm cho sân hận bùng phát lớn hơn. Chẳng hạn, dùng một tảng đá chặn đứng dòng nước đang chảy, nhưng dòng chảy vẫn tiếp tục chảy mạnh hơn. Hoặc khi dùng dao chặt đứt một ngọn cây thì cây sẽ phát sinh ra thành nhiều nhánh. Dùng cưỡng lực để áp chế một phong trào thì phong trào đó càng lớn mạnh. Cho nên, nhẫn trong trường hợp ức chế sẽ không tạo ra giá trị an lạc và hạnh phúc. Mà nó sẽ nuôi sự ức chế này cho đến lúc không còn sự đè nén và có thể trở thành vụ nổ rất lớn trong tương lai. Do đó, cả hai đối tượng đều là nạn nhân của nhau. Vì vậy, đừng bao giờ hóa giải sự mắng chửi, nhục mạ của người khác bằng cưỡng lực ức chế tâm.
Con đường chuyển hoá ức chế tâm trở thành sự buông xả, phải được khởi từ nhận thức sáng suốt rằng, nếu sự bực tức vẫn còn giữ trạng thái đè nén thì vẫn còn là nạn nhân của khổ đau. Nhiều người cứ nghĩ lầm rằng, khi họ bực tức người khác, nuôi lòng thù hận là họ được hạnh phúc, nhưng thực tế, họ đang bị khổ đau nhiều hơn người gây ra sự bực tức. Có những tình huống, người tạo ra sự cau có, mắng chửi người khác nhưng nói xong là quên. Ấy thế, người nhận lại nhớ mãi những lời không như ý đó trong tâm, thậm chí nói, “sống để dạ, chết đem theo”, không bao giờ quên. Càng nhớ thì nỗi khổ đau ngày càng gia tăng, sức khoẻ ngày càng giảm, bệnh căng thẳng thần kinh ngày càng phát triển. Kết quả không mang lại bất kỳ lợi lạc nào cho cả hai người đang có vấn đề.
Người khôn ngoan nên “xoá sạch” dữ liệu của lòng sân khỏi ổ đĩa cứng của tâm thức, để tâm được an vui. Đức Phật mô tả hình ảnh lá sen trong kinh như là biểu tượng đẹp cho sự buông xả. Lá sen không giữ nước trên bề mặt. Tuy nhiên, nếu chiếc lá có hũng sâu và hoàn cảnh tương thích thì những giọt nước trên lá sen được giữ lại, nhưng trong vòng 2 đến 7 ngày sau, lá sen đó bị úng, bị hư và thủng. Cũng vậy, đừng bao giờ giữ những giọt nước của phiền não, sân hận, thị phi, ganh tị, hơn thua trong tâm. Bởi vì, trong lúc giữ lại những cái đó sẽ hành hạ tâm, đang làm cho quả tim đau nhức.
Con đường của sự ức chế dẫn đến buông xả chỉ nằm ở nhận thức. Nếu hiểu đúng thì trở thành người buông xả, hiểu sai sẽ trở thành bị ức chế. Buông xả và ức chế là hai năng lực, buông xả dẫn đến an vui, ức chế dẫn đến đau khổ. Mà khổ đau do ức chế sẽ gia tăng nhiều hơn. Chỉ cần có nhận thức sáng suốt thì sẽ có trạng thái buông xả các ức chế của tâm do nhận thức sai lầm trong quá khứ.
Hỏi: Nếu chọn cách quán chiếu nhân duyên, có lẽ do có gieo nhân gì đó nên phải nhận quả báo bị mắng nhiếc. Quán chiếu như vậy để hoá giải sân hận có dễ dàng hay không?
Đây cũng là cách quán niệm rất hay. Trong tất cả nỗi khổ do lời thị phi mắng nhiếc gây ra, có nhiều nguyên nhân. Không xác định được nguyên nhân nào thì khó vận dụng giải pháp hiệu quả. Trong trường hợp đó, tốt nhất nên vận dung cách thức tự an ủi. Nghĩa là cứ an ủi rằng, có lẽ trong quá khứ mình đã từng gây ra khó khăn, chỉ trích người tốt, hãm hại người lành, đẩy người lành vào những tình huống không lối thoát… từ đó làm họ thối thất tâm bồ đề, trở thành con người tội lỗi. Do vậy, tất cả những lời bị mắng nhiếc hôm nay là hệ quả tất yếu từ những gì đã làm trong quá khứ. Quan niệm vậy giúp người bị mắng nhiếc không có thái độ kháng cự lại, chỉ nghĩ đơn giản là thử thách nghiệp lực của mình mà thôi. Từ đó, chuyển hướng từ thái độ chịu đựng bị ức chế dẫn đến thái độ dấn thân phục vụ.
Hiểu được vậy, phải cảm ơn những thử thách để luyện tâm mình trở nên cao thượng. Nhiều lời chỉ trích thì càng làm cho nghiệp chướng giảm xuống, bản ngã rơi rụng và lòng hãnh diện tự hào không còn chỗ bám víu. Lúc đó, biến lời chỉ trích thành một pháp tu, biến nghịch cảnh trở thành đối tượng để chuyển hóa tâm tính. Hiểu vậy, sẽ dễ dàng thành công trong cuộc đời này!
Hỏi: Làm thế nào chuyển hoá sân hận?
Trả lời: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đặt ra giá trị sự sống dựa trên cảm xúc, nhận thức và tuệ giác. Tâm lý con người được chia ra 5 cấp từ thấp đến cao: Dục tính, cảm tính, tưởng tính, nhận thức tính, tuệ tính.
Khi con người nằm ở cấp thứ hai, tức là cảm xúc mạnh thì có độ nhạy cảm cao trực hay gián tiếp về mắt, tai, mũi, thân xúc chạm và ý tưởng nhận định đánh giá. Thực tế, cuộc đời có những nỗi khổ đau nhiều khi không bắt nguồn từ thực tại mà từ cách thức tiếp nhận, lý giải, nhận định, đánh giá vấn đề thông qua thái độ suy diễn động cơ. Do đó, nhiều khi khổ đau không do người khác làm mà do tự suy diễn, nghĩ người ta cố tình thì khổ đau gia tăng.
Người có độ nhạy cảm về lời nói, ứng xử, thái độ, việc làm của người khác nhiều là người chưa được may mắn. Bởi vì, có những vấn đề người ta nói bâng quơ nhưng cứ tưởng đang ám chỉ mình, rồi buồn tủi, phân biệt đối xử, cau có bực dọc… Nếu không có chất liệu buông xả thì sự thù hằn, nội kết trong họ đối với mối quan hệ với con người bị ách tắc, trở ngại, nhịp cầu nối kết tình thân giữa hai người bị chặt đứt và khổ đau quấn quýt đôi bên. Lúc đó, phải tìm hiểu chất liệu động cơ của người khác, phân tích nguyên nhân tại sao họ có thái độ, lời nói làm mình không vui. Cũng có thể đặt ra tình huống tích cực nào đó mà đối phương có thể có hoặc không để giúp tâm dễ dàng tha thứ, bỏ qua. Nhưng không nên đặt ra tình huống họ cố tình gây ra điều xấu cho mình. Chính tâm lý tích cực này giúp tháo gỡ nội kết giữa ta với người trên nền tảng cảm xúc mạnh.
Người có cảm xúc mạnh thường chịu nhiều khổ đau như: Cười nhiều thì buồn cũng nhiều, cười dễ thì khóc cũng dễ. Những người như vậy thường có phản ứng rất nhạy cảm. Thông thường, người nghệ sĩ, ca sĩ có mức độ nhạy cảm bén hơn người khác vì họ đã từng sống với những ánh đèn mờ, tràn đầy tiếng vỗ tay, khen ngợi, ca tụng, vinh quang dưới những thước phim báo chí…
Nên thực tập phương pháp, trong bất cứ tình huống xấu nào cũng nên nhìn thấy động cơ tốt của người khác để không cất chứa khó chịu, bực dọc, trầm cảm, bi luỵ… Đó cũng là cách thức có thể quan niệm như chức năng trị liệu cơn bệnh cảm tính nhạy bén. Thực ra, khi thực tập nhìn thấy động cơ tốt từ cái xấu của người khác là đang thương chính mình. Bởi vì, nếu không thương chính mình, không tháo gỡ, hoá giải nội kết trong tâm thì tâm lý trầm cảm sẽ thành căn bệnh ung thư của tâm.
Nhạy cảm nhận thức về chuyện xấu, không tốt, cái chưa hoàn thiện của người khác là cái xấu, có thể mang lại nhiều phiền não. Cho nên, trên con đường dấn thân, tu tập hoặc trong các mối quan hệ, đức Phật có dạy, đôi lúc phải biết làm ngơ như không nghe, không biết gì về chuyện không tốt của con người dù mình tai nghe, mắt thấy. Thái độ làm ngơ khác với thái độ bịt kín hai lỗ tai. Bịt kín lại là thái độ cực đoan. Làm ngơ là nghe thấy tất cả nhưng giả vờ như không nghe, không thấy để tất cả trạng thái bực dọc, phiền não không có cơ hội chinh phục, khống chế và khiến bị đau, sình lầy làm chùn chí tiến thủ vươn lên.
Mỗi người sinh ra đều mang theo tất cả tập quán, hành động, cách ứng xử trong quá khứ. Nếu quá khứ có mức độ nhạy cảm cao thì sinh ra có độ nhạy cảm hơn người khác. Do đó, khổ đau gây ra cho mọi người cũng dễ dàng.
Đức Phật dạy: Hãy buông xả những khúc mắc, cố chấp với đối phương để chữa cơn bệnh uất cảm của mình chứ không phải giúp người khác. Chưa phóng thích thì phức cảm vẫn còn hành hạ chính mình. Cuối cùng cũng trở thành nạn nhân của khổ đau thay vì là người hạnh phúc!
Hỏi: Sân hận do đâu mà có, xuất phát từ đâu. Loại sân hận nào nguy hiểm nhất?
Đạo Phật không chấp nhận nguyên nhân khởi thuỷ của mọi vấn đề. Nguyên nhân của mọi vấn đề tuỳ thuộc vào duyên, điều kiện xúc tác và nhân quả tương tác phức tạp đa chiều trực hay gián tiếp với nhau. Bốn gốc rễ (nguyên nhân) của sân hận, khổ đau đã được trình bày:
Một là bắt nguồn từ trạng thái nhận thức sai lầm về con người, cuộc đời và sự kiện…
Hai là bắt nguồn từ trạng thái sợ hãi. Ví dụ, tên trộm bị phát hiện thì phản ứng tự vệ, buộc tên trộm phải giết người để bịt đầu mối, nếu không có sẽ bắt bỏ tù. Cho nên, sự triệt tiêu đối tượng trong trường hợp này bắt nguồn từ nỗi sợ hãi bị luật pháp truy tố, trừng trị… Tất cả những nỗi sợ hãi đó làm anh ta trở thành con người bạo động.
Ba là bắt nguồn từ thái độ độc tôn, loại trừ, chỉ chấp nhận chính mình. Thường thấy là các học thuyết, chủ nghĩa, tôn giáo, phái giáo… tất cả những gì thuộc về thần tượng cá nhân đều liên hệ ít nhiều đến thái độ tạo ra sự sân hận.
Bốn là bắt nguồn từ việc không hiểu bản chất văn hoá của người khác, không thấy được đa nguyên như là giá trị hỗ trợ nhau, không thấy tất cả những con đường khác nhau là sự phong phú trong cuộc đời, là nhu cầu cần thiết cho sự sống của con người, mà từ sự khác biệt đó lại tỏ thái độ cau có, bực tức đối với chính mình.
Ngoài ra, sân hận có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân ngoại cảnh như tình yêu, hoàn cảnh, môi trường… Hoặc những nguyên nhân nóng nảy do sinh lý như mất ngủ, căng thẳng, không đáp ứng được với sự thay đổi nhiệt độ, khí hậu, thời tiết… hay bệnh lý làm cho thái độ chịu đựng bị giảm xuống cũng gây dễ nổi nóng, kháng cự, phản ứng chống đối…
Theo nhà Phật, không có một nguyên nhân đầu tiên cho tất cả mọi nguyên nhân còn lại. Tuỳ trường hợp, điều kiện môi trường mà sân hận xảy ra nặng hay nhẹ, chủ quan hay khách quan.
Phân tích gốc rễ của sân hận, phải có tầm nhìn rộng về tất cả những nguyên nhân có thể xảy ra. Không nên quy kết vào một nguyên nhân nhất định. Vì khi quy kết vào một nguyên nhân thì sẽ quy kết một chiều, đổ trách nhiệm vào một người có thể là ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, bạn hay người không thân… Do đó, đánh mất cơ hội nhìn thấy trách nhiệm hành vi của mình đối với mọi người.
Muốn có được sự an lạc, hạnh phúc thì phải nhìn thấy nguyên nhân gây ra đau khổ, lận đận. Từ đó mới có giải pháp thích hợp để tháo gỡ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét