Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

MẬT HẠNH LÀ AI?

 

Nhân loại đang trong thời kỳ bão lụt, hạn hán, cháy rừng, chiến tranh, động đất… đủ mọi tai nạn bất an đe dọa cuộc sống trên thế giới. Trong nước, dân ta cũng gánh chịu nhiều đau thương mất mát sinh mạng, tài sản…do thiên tai đem đến. Song song đó, nội tình Phật giáo cũng dậy sóng, gần đây có người tự xưng “Đức Thầy Mật Hạnh”, chống phá Phật giáo Đại thừa, đập đổ bảo tượng, phát ngôn ngạo mạn gây mất niềm tin truyền thống mà Phật giáo đã dầy công xây dựng hàng ngàn năm qua, đem lại an lành, làm điểm tựa tâm linh cho quần chúng. Cây đại thụ Phật giáo phát triển nhờ cành lá sum suê thích nghi với căn cơ nhiều tầng lớp chúng sinh. Nếu cây suôn đuột, không phủ nhánh cành lá, đất sẽ thiếu màu mỡ và khó phát triển. Sau khi Như Lai diệt độ, Phật giáo truyền hai hướng nam và Bắc. Hướng Nam gọi là Phật giáo Nguyên thủy, sử dụng kinh văn Pali, truyền qua Sri Lanka, lan sang Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào gọi là Thượng tọa bộ. Phía bắc văn ngữ kinh tạng bằng chữ Sanskrit (cổ ngữ Ấn Độ). Phật giáo truyền lên hướng Bắc chịu ảnh hưởng văn hóa qua các nước, trong đó Du Già Sư Địa Luận là bộ luận được xếp trong Đại Chánh tạng của Phật giáo Đại thừa. Chữ Du Già phát xuất từ Yoga (Yogacarabhumi). Cứ thế, vào mỗi quốc độ Phật giáo hòa nhập vào văn hóa bản địa, chuyển hóa sang tư tưởng Đạo Phật. Sau thế kỷ thứ 8, Phật giáo du nhập vào Tây Tạng chịu ảnh hưởng Đạo Bon. Tây Tạng có bốn trường phái Phật giáo chính là Nyingma (Ninh Mã, Hồng giáo) Kagyudpa (Bạch giáo), Sakyapa (Tát Ca) và Gelugpa (Cách Lỗ). Mỗi trường phái có một pháp hành cá biệt. Đặc biệt các hành giả Tây Tạng đều sở đắc pháp hành, thành tựu bí quyết. Ngoài Mật pháp, Phật giáo Tây Tạng còn sở hữu Tam tạng chính ngữ bản địa và y học sớm nhất, gọi là Lạt Ma giáo. Tư tưởng đa thần Phật xuất phát từ Tây Tạng du nhập vào Trung quốc phát sanh tứ Thánh địa còn gọi là Tứ Đại Danh Sơn: Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn. Ngũ Đài Sơn là Thánh địa của Bồ Tát Văn Thù; Nga Mi Sơn là Thánh địa của Bồ Tát Phổ Hiền; Cửu Hoa Sơn là Thánh địa của Bồ Tát Địa Tạng; Phổ Đà Sơn là Thánh địa của Bồ Tát Quan Thế Âm.

Như vậy chư đại Bồ Tát không phải phát xuất từ Trung quốc, nhưng Trung quốc có công phiên dịch kinh tạng mang tính văn chương truyền thống vốn có của bản địa. Trung quốc du nhập Phật giáo từ hai hướng Ấn Độ và Tây Tạng. Mặc dù Việt Nam tiếp đón đạo Phật sớm hơn Trung quốc qua thương buôn Ấn, nhưng hai nước cận biên chịu ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau, trong đó tín ngưỡng, thờ phượng và tập quán là chuyện thường. Mặc dù kinh tạng Nguyên thủy không nói đến chư Bồ tát, nhưng không có nghĩa chư Bồ tát không có. Nguyên tắc biến tướng trong cuộc sống, không có gì là tuyệt đối và nhất quán. Hạt giống có một, nhưng thành cây tất phải sanh quả, nhánh sum suê. Khởi nguyên Y học đâu có lắp da, tán sỏi, nuôi cấy nội tạng, nuôi bàn tay, bàn chân đứt lìa để lắp ráp như cũ… Tiến hóa là quy luật, có tiến hóa tất có biến tướng. Đức Phật chỉ dạy những gì tương thích với căn cơ đương thời của hành giả. Phật từng bảo: “những gì ta nói ra chỉ là nắm lá trong tay, sự thấy biết của ta như lá trong rừng”. Các hành giả sở đắc theo trí tuệ thì thấy biết phải khác, đem sở đắc giúp chúng sanh thoát khổ đưa đến giải thoát. Người học Phật và tu Phật cần thông thoáng, không nên cố chấp, duy trì cố chấp sẽ đình trệ khó giải thoát. Thế gian pháp tức Phật pháp. Phật pháp là bất định pháp mới thích hợp với mọi thời đại. Cùng một câu hỏi: “con chó có Phật tánh không? – Thiền sư đáp có! Nhưng người khác hỏi thì ngài lại nói là không!” tùy đối cơ mà đáp, đâu sai chánh pháp. Đó là bất định pháp. 1+1 là 2, 1+1=1 mà 1+1 cũng là vô số. Cuộc sống chỉ là tương đối. Với anh là số 6 nhưng với tôi là số 9; tùy góc độ mà thấy khác, chả có đúng hay sai một cách tuyệt đối trong đời sống tương đối.

Hòa thượng Thông Lạc hành trì theo kinh tạng Nguyên thủy, nhìn Đại thừa là tà giáo, truyền nhân của ngài tiếp bước đập phá mọi thứ của Phật giáo phát triển một cách thô bạo như sự thô bạo của thiên tai đem lại khổ đau cho nhân loại. Thầy Mật Hạnh ơi, hãy bình tâm, nếu là một hành giả, một thiền sư chân chánh thì không nên thô bạo, dẫu sao, “ái ngữ” vẫn là căn bản của người tu; căn cơ chúng sanh không đồng nhất thì đừng bắt đức tin của nhân loại đồng nhất như mình muốn.

Dân ta đang khủng hoảng thiên tai, kinh tế, đạo đức xã hội, đạo Phật phải là chỗ dựa an lành cho nhân dân, đừng tạo thêm cơn sóng thần niềm tin Tôn giáo nữa. Phật giáo phát triển đã ăn sâu vào xã hội Việt Nam trên hai ngàn năm rồi, đóng góp và xây dựng đất nước qua nhiều thời đại. Nếu đạo Phật là tà giáo sao đem lại hòa bình thạnh trị suốt 4 thế kỷ. Phật giáo Nam Tông (nguyên thủy) vẫn lặng lẽ song hành với Phật giáo Bắc tông đem lại sinh khí hòa hợp trong xã hội hiện nay, đừng tạo thêm sóng gió cho Phật giáo nói riêng và xã hội nói chung Mật Hạnh ơi!

MINH MẪN

  10/11/25

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

RỐI RẮM

 

Xã hội ngày nay, từ thế giới đến nội địa xảy ra lắm phức tạp như bệnh nhân trổ ban đầy người; chính trị đến kinh tế, ngoại giao, kể cả Tôn giáo…

Trong phạm vi hạn hẹp, nội tình Phật giáo cũng bất an khi dư luận hai chiều đối nghịch về hiện tượng thầy Minh Tuệ.Khởi đầu là văn thư của Giáo hội do thầy Tổng thư ký vội ra thông báo phủ nhận thầy Minh Tuệ, sau đó một số địa phương, các chức sắc Phật giáo cũng bị “hố hàng”  vội phản ứng trước những Tăng sỹ ca tụng  hiện tượng Minh Tuệ. Tuy hầu hết 80% chư Tăng không  thích hiện tượng đó, nhưng đều im lặng.

Chắc chắn nhà nước không muốn quần chúng xôn xao một cá nhân nổi cộm nằm ngoài sự kiểm soát an ninh xã hội. Việc ra khỏi nước của thầy Minh Tuệ tuy bớt gánh nặng trật tự xã hội, nhưng lại lo âu khi thế giới đặt vấn đề “tự do Tôn giáo” trong nước. Chẳng những thế, tu sỹ có chức quyền trong giáo hội tiếp tục gửi văn bản ra  nước ngoài quy chụp hiện tượng đầu đà cộm cán đó là tu giả…(phải chăng thư thông báo đó do cá nhân TNT hay đại diện cho GH hoặc nói thay cho một thế lực truy diệt?) Một hiện tượng không theo  khuôn mẫu đặt định của tổ chức Tôn giáo lại được phần lớn quần chúng ca tụng đã gây chướng ngại cho nhiều người thủ cựu; tạo cơn sóng dư luận là chuyện tất nhiên.

 Việc khó xử  cho những thành phần chống  đối, phủ nhận sư Minh Tuệ là nhân thân sư Minh Tuệ không có vết nhơ trong cuộc sống, từng làm tròn nghĩa vụ thanh niên với đất nước và trách nhiệm với xã hội; không vi phạm luật pháp. Tuy nhiên,thành phần cực đoan thiếu  đạo đức, có thể vượt lương tâm để thỏa mãn tính ích kỷ làm chuyện xằng bậy mà trên thế giới đã từng có nạn nhân như  Gandhi,một Martin Luther King…

Hình thức Đầu đà không chỉ có từ thời Tổ Ca Diếp, ngay cả ngoại giáo các hệ phái trong xã hội Ấn Độ cũng từng xuất hiện, thậm chí cực kỳ ép xác khổ luyện. Như vậy hạnh Đầu đà không phải là khổ tu theo đúng nghĩa,chỉ là hạnh thiểu dục tri túc.

Nếu hiểu Đầu đà là những vị không cư trú một chỗ, ăn ngày một bữa, không giữ tiền, sống đúng hạnh ba y một bát thì Tổ sư Khất sỹ Minh Đăng Quang đã phục hồi hạnh Đức Phật tại miền Nam Việt Nam trước thập niên 60 của thế kỷ trước.

Sau năm 1975, tu sỹ không được di dời theo truyền thống, hộ khẩu cố định, do đó chư Tăng Khất sỹ phải trụ xứ và không đi khất thực.

Không chỉ giáo đoàn Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang, mà còn nhiều hình thức Khất sĩ khác như:

Năm 1945, Đại sư Huệ Nhựt (1903 – 1951) mang y bát hành theo hạnh Phật Thích-ca thuở xưa. Sau đó là  đoàn Khất sĩ Sơn Lâm, Khất sĩ Mẫu Trầu; (Khất sĩ Mẫu Trầu còn có danh hiệu là Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng.), Giáo đoàn Khất Sĩ Ca-diếp của Thượng tọa Giác Huệ (1972)

                                                          ***

Như vậy chứng tỏ hạnh Khất sỹ thời bấy giờ đã được nhiều bậc chân tu quan tâm và muốn sống theo hạnh tam y nhất bát, không nơi cư trú nhất định để khỏi vướng mắc vào mọi phương tiện vật chất trong đời sống tu hành, được tự do hơn.

Hơn 10 năm gần đây, một số người không phải là tu sỹ, vẫn lạm dụng chiếc y  và bình bát để đi khất cả ngày lẫn đêm mà trong luật nghi Khất sỹ truyền thống chỉ duy nhất ngày một lần trước 10 giờ sáng và không bao giờ nhận tiền.Từ đó, thật giả lẫn lộn mà xã hội khó phân biệt chánh tà, gây tai tiếng nhiều cho những vị Khất sỹ chân chánh, chính vì thế, tuy không có văn bản chính thức cấm hạnh Khất sỹ đi bát, thi thỏang cũng có tổ chức hành trì quanh khu vực để duy trì công hạnh cao quý của đức Phật thuở xưa.

Những người lạm dụng,sau khi mặc y bê bát đi khất phi pháp,trở về tư gia sống đời trụy lạc chưa bao giờ  bị Giáo hội phê phán gay gắt hay ai đó nhiệt tình lên án từ trong nước ra đến nước ngoài như trường hợp sư Minh Tuệ đang sống đúng hạnh của Phật xa xưa, lại chịu nhiều chỉ trích, kết án giả tu!

Có vị tuy không nằm trong giáo đoàn, vẫn giữ đúng luật nghi của Khất sỹ, vẫn duy trì  giới hạnh khi sống riêng hoặc nơi non cao rừng sâu, việc đi bát cũng không gặp trở ngại, riêng người có tục danh :NGUYỄN LƯƠNG BẰNG gốc Ninh Bình, đã có 44 năm tuổi đảng,vẫn còn sinh hoạt đảng, gặp nhiều khó khăn khi mang hình thức Khất sỹ trở về quê hương, do BTS PG Ninh Bình kết hợp với An ninh tỉnh thông báo khắp nơi quy kết giả tu, còn nhiều vu cáo không bằng chứng làm mất thanh danh cho bị hại.

Giấy tờ  tùy thân là Chứng Điệp thọ giới tại Thường Chiếu giới đàn Thiện Hoa được xác nhận qua bản sao, thẻ Chứng nhận Tăng Ni; căn cước công dân và Đảng tịch.

Qua quy kết vội vàng của địa phương gián tiếp xúc phạm tính hợp pháp của văn bản thuộc hệ thống Giáo hội và chính danh của đảng bộ trong cơ cấu nhà nước hiện hành; cũng từ đó gây khó khăn cho một công dân có quyền lưu trú bất cứ nơi đâu trên quê hương mình.

Đây là bài học cần rút ra một cách nghiêm túc từ hạ tầng cơ sở Phật giáo và chính quyền sở tại,  tránh dẫm chân, xúc phạm lẫn nhau để rồi trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Hơn 44 năm thành lập GHPGVN, trãi qua nhiều gập ghềnh khúc khuỷu, rút tỉa nhiều kinh nghiệm từ việc điều hành phật sự, hành chánh, tổ chức nhân sự, kiểm soát và giáo dục Tăng Ni cho đến ngoại giao trên các nước, Giáo hội các cấp cần cập nhật tin tức, ra văn thư thông báo…cân nhắc chính xác không nên vì cảm tính, dựa vào thế lực gây tổn thất bất an cho nội bộ.

Bất cứ tổ chức nào của tập thể, của quốc gia, hạ tầng cơ sở đôi lúc dựa vào quyền hạn riêng, làm việc theo cá tính dễ đưa đến bất mãn ngấm ngầm trong tổ chức.

Để thể hiện tính công minh và nghiêm túc, chính quyền và BTS PG Ninh Bình nên rút lại văn bản quy kết sai lầm với đối tượng NGUỄN LƯƠNG BẰNG, hoạc cải chính sai sót trên đây.

Đất nước văn minh có thể bồi thường danh dự khi xúc phạm một công dân chân chính, hoặc đích thân xin lỗi công khai để thể hiện khắc phục sai lâm không đáng có.

                                                         ***

Trở lại tính truyền thống tín ngưỡng của dân tộc ta, ngoài Phật giáo qua bao thời đại,  nhiều hình thức tín ngưỡng như đạo Mẫu, đạo Lão, đạo Khổng được chính danh, còn mỗi địa phương vùng miền, sắc tộc sản sinh ra nhiều tập tục mà nhờ đó họ nghĩ đã đem lại an lành cho họ. Thế thì chả lạ gì Phật giáo đã xuất hiện nhiều chi nhánh tông phái vào mỗi thời kỳ hợp với trình độ, căn cơ mà không làm mất an ninh, tác hại cho xã hội.Đó là quyền tín ngưỡng cơ bản của mỗi cá nhân như người dân từng tín nguỡng Thần tài Thổ địa, Bình vôi ông Táo, bùa chú…

Dân tộc ta cũng từng sản sinh ra những tín ngưỡng Thần thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng.Một dân tộc có nhiều huyền sử là một dân tộc có chiều sâu văn hóa tâm linh tô bồi cho tinh thần độc lập của dân tộc.

Phải chăng cần xác định lại những biến tướng trong Phật giáo.Trên nguyên tắc của cuộc sống không bao giờ, từ tâm linh cho đến vật thể có thể duy trí đặc tính cố định khởi đầu về lâu về dài; có Phật giáo Nguyên thủy tất phải có Phật giáo Phát triển, cái này có thì cái kia có , từ đó rút ra quy luật: “Phật pháp tức bất định pháp”, nhờ thế Phật giáo mới phát triển khắp nơi cho thích hợp mọi căn cơ của sinh chúng.

Do tính cố chấp biên kiến, chấp thủ mới sanh đố kỵ làm khổ nhau.Tu sỹ Phật giáo nên hướng nội xét lại tư tưởng khi phán xét một hiện tượng một đối tượng.

 

MINH MẪN

 O7/11/25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

SÁNG THÁP TRĂNG NGÀ

 

 SÁNG NẾN LUNG LINH MIỀN TRÚ XỨ

TRẮNG NỀN THÁP CỔ ƯỚP  SƯƠNG PHA

NHẠN CỠI  MÂY QUA VÙNG TĨNH MỊCH

MÁT BÓNG TRĂNG THANH HIỆN NÉT NGÀ.

Còn đâu khối đất vỡ hoang, còn đâu lau sậy mênh mang rừng buồn; đã bao năm mộng chưa buông, uy nghi một cõi vô thường trao tay.Tổ khai Tâm trò khai lâm, hàng cây hạnh đức nẩy mầm vươn xa; do dày phước, đất nở hoa, Già lam tịnh cảnh Phước Hoa ơn người.

Kinh tế mới dân cày đất sỏi, ngày lẫn đêm Tăng vỡ rừng hoang. Khổ nhọc là đây, sự sống cũng từ đây. Chái lá vách tranh, sắn khoai hàng bữa, nuôi sống trên ngàn Tăng chúng là nguồn cung cấp nhân sự  làm cho Phật pháp vươn xa.

Bốn mươi năm mộng Đông thùy, Tăng  ni bốn hướng tụ về cưu mang, sương còn đọng nhánh cây ngọn cỏ, lá nón che đầu, tay cày cuốc xới; lát đất nào nuôi sống  rừng thưa, cát khô khốc  nương thân trùn dế, mầm xanh hóa dưỡng chất Tăng tài.Luật tạo hóa trêu ngươi cuộc thế! 

Cao bóng mát  Già lam hiển lộ, lặng thời gian cởi trói cho những cánh chim lìa đàn, lát đất năm nào xới vỡ mãnh sầu thế nhân, mọc chồi non tuệ giác khắp nơi nơi.

Bóng mát Trúc Lâm sanh dòng pháp nhũ, nảy nhánh mọc mầm, Phước Lạc Phước Hoa, rừng Già lam vươn dài theo vận mệnh thăng trầm trong bôn ba  sự thế.

Tâm hiếu thiện kéo thời gian 40 năm trở lại đầu nguồn, 10 năm hiển hiện am tranh thuở ân Tổ khai lâm; chim vỗ cánh tử tôn hội tụ mừng tri ân kỷ niệm.

Ngày vẫn sáng và đêm vẫn tỏ, lòng bao người đều mở hội hoa đăng. Hạt cơm trắng hôm nay và sắn khoai năm cũ đậm thấm tình người như đạo mạch vào tim.

Bao dòng xoáy vô thường nghiệp khởi, Tông môn và đạo lữ vẫn vuông tròn.

Đây một nén hương thơm theo gió về mây, muôn một tâm nguyện vây quanh miền đất Tổ. 10 năm thoáng trôi như sương rơi đầu cỏ, 40 năm rừng buồn cỏ dại hóa Già lam.

Tiền hiền hậu bối cũng từ đây, quá khứ hiện tại cũng là đây, một mai sương bạc tiếp xây tháp ngà!!!!

 

Kính cẩn tưởng niệm bóng vô thường. 10 năm Tôn sư ngự Tây, 40 năm kế thế tiếp xây tháp ngà.

MINH MẪN

9/25

 

HÓA THÂN

Chim sẻ đậu cành tre,

hóa thân hạt bụi nhỏ

Lặng chìm vào khóm cỏ

                     Ươm mầm nụ hoa nhỏ

                     Ve sầu nằm co ro

                     Trổi giọng tung vào gió

Mây hóa thân giọt nước

Rửa sạch tháp trắng mượt

Đỉnh cao tụ ân phước

                                           ***

Hỏi mây trắng bay về đâu? Mây đáp: nào có bay, chỉ vì gió tụ tán!

10 năm vào đất mẹ, tháp mây làm chứng tích,  Hạ qua Thu lại đến, hỏi thầy đã về đâu?

 25/10/2015 hay  13/9/Ât Mùi chỉ là dấu tích thời gian, không gian nào thay đổi; Giác Thần nào có đến và đi!

Hạnh nguyện là hiện thể một cõi đi về, Hạnh quả là bản thể Chân như thường trụ.

10 năm để đến hay 10 năm đã đi? Ngọn tháp sừng sững vẫn là chứng tích nghĩa tình hậu bối.

Tôn sư vắng bóng cũng đồng thời Tôn sư tồn tại; tồn tại trong tâm tưởng cũng là thường tại hòa nhập vào sóng thức trong vũ trụ vô ngần.

Ngọn nến giữa đêm trường hay Tâm đăng giữa vô minh thắp sáng lại ân đức Tôn sư một thời truyền đăng tục diệm.

Vũ trụ nắng mưa điểm tô một thực tại vô ngã, nghệ thuật diễn ngâm để quá khứ một thời sống lại giây phút ngắn ngủi đêm thu.

Ngàn khối óc , vạn con tim sưởi ấm lại khung trời cô quạnh; cùng nhìn nhau như chưa xa cách bao giờ.

Nghìn trùng vạn dặm, sông ngòi hội tụ ra khơi, vạn gót sen phước lùa xa cội, niệm ân sư về lại chốn này.

Vắng lặng và nhộn nhịp, đã bao lần đất khô cằn ngộp thở được hồi sinh; Đất được hồi sinh 40 năm khai phá, 10 năm hồi sinh khai mở tâm lành.

Phước Hoa đã nở hoa, rừng cây hóa thân thành nhựa sống, hàng ngàn Tăng ni hiện thân  làm giáo phẩm; xuất thân từ mảnh đất khô cằn ra gánh vác Phật sự được thăng hoa.

Bầu trời Phước Hoa hôm nay hóa thân khối năng lượng từ hòa điểm tô cho một lịch sử khai lâm lập tự, cho một ân sư điểm xuất ra lắm Tăng tài.

Kỷ niệm không là để nhớ về quá khứ mà còn là điểm nhấn khởi đầu cho bước tiếp theo như những bước tiếp theo của một sinh mệnh!

 Hóa thân cho một đổi mới tâm thức trường lưu.

 

MINH MẪN

  2025

 kỷ niệm 40 năm khởi đầu sáng lập tu viện Phước Hoa Long Thành Đồng Nai và 10 năm ân sư vắng bóng

 

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

THUẬT QUẢN TRỊ TRONG PHẬT GIÁO.

 

Khi Phật giáo còn là những nhóm nhỏ sinh hoạt đơn lẻ, tự phát, trong rừng, hang động núi non, xa thành thị, sống theo tiêu chuẩn luật giới của Phật để lại, tinh thần lục hòa và tự giác làm căn bản, chưa có một hệ thống hành chánh, mỗi nửa tháng một lần họp nhau Bố tát, cá nhân tự phát lồ sám hối trước đại chúng những sai phạm nếu có, (bây giờ gọi là tự kiểm).

Xã hội thoát thai từ nông nô, phong kiến,sinh hoạt vẫn gói gọn trong mỗi tự viện, thầy trò theo thứ lớp giới phẩm, nội quy mà sinh hoạt, chưa xảy ra bất cứ vấn đề mang tính xã hội.

Sau thế chiến, xã hội đi vào ổn định, riêng Việt Nam, miền Bắc và miền Trung, Phật giáo thành lập khuôn hội, tỉnh hội; Phật giáo trở thành tín ngưỡng truyền thống. Cơ sở hạ tầng được chư Tôn Đức xuất thân từ Phật học đường đứng ra tổ chức các lớp giáo lý, cơ sở hành chánh sơ khai, đi vào nề nếp, tiền bán thế kỷ trên thế giới khởi xướng canh tân Phật giáo do các danh Tăng  chủ động, năm 1951 tại srilanka, Đại hội Phật giáo quy chuẩn hóa Tông phái, giáo lý, đạo kỳ và thống nhất ngày Đản sanh của đức Từ phụ Thích Ca Mâu ni. Việt Nam trở thành một thành viên trong hội Liên hữu Phật giáo thế giới.

Sau năm 1963, Thống nhất các hệ phái và các tổ chức Phật giáo, trong đó có Cổ sơn môn (Lục Hòa Tăng) thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Tuy trong buổi giao thời vừa thành lập, vừa đào tạo Tăng tài, vừa đấu tranh chính trị tại miền Nam còn nhều rối ren, Phật giáo củng cố nội bộ, sản xuất Tăng tài có học hàm học vị chuẩn  mực. Giới lãnh đạo Trung ương đa phần có uy tín và khả năng vượt trội. Trong 11 năm (1964 -1975) ngắn ngủi, GHPGVNTN đã tạo uy tín quốc tế; Phật giáo Thế giới đã biết đến một Phật giáo Việt Nam với tầm vóc “uy vũ bất năng khuất”.

Trong thời gian này, Giáo hội quản lý nhân sự và quản trị chính sách đối ngoại chưa nhất quán nên nội tình đã bị phân hóa, thế lực chính trị xen vào đưa Giáo hội đi chệch hướng ban đầu. Phật giáo lúc bấy giờ đã giảm uy tín trên chính trường nhưng chưa mất uy tín về nhân phẩm của Tăng ni.

Năm 1981 thành lập GHPGVN, tổ chức hành chánh bắt đầu thành hình qua Hiến chương và nội quy Tăng sự.Xã hội phát triển, tu sỹ được xuất ngoại theo học các trường Đại học Phật giáo tại New Delhi, Trung Quốc, Thái Land, Nam Hàn, Đài Loan…Mỗi vị mang về một kiến thức cá biệt, làm phong phú thêm Phật giáo Việt Nam, đồng thời do tính kiến chấp học thuật mỗi nơi, đôi khi phủ nhận nền tảng văn hóa cơ bản của Phật giáo lâu đời tại trong nước tạo hoang mang cho tín đồ.Cũng có vị ảnh hưởng duy lý, nhận định Phật giáo thuần tính thế học, -ngay cả cơ địa vật lý của Phật và A Lan Hán, bệnh lý cũng bị suy diễn theo y học vật thể, hoàn toàn phủ nhận tính tâm linh.

Xa xưa học Phật theo tinh thần gia giáo, nội chúng Thiền môn được giáo dục chặt chẽ giữa thầy trò, kiến thức Phật học và oai nghi phạm hạnh nề nếp chuẩn mực.Phật giáo ngày nay, xuất sư quá sớm, chưa đủ phẩm hạnh,tu sỹ chạy theo thế học xem nhẹ nội hàm, ngày càng đi xa điểm khởi đầu.Càng học cao càng ngã mạng, chỉnh sửa cả giáo lý, giải giảng sang phạm vi thế tục.Biết rằng thế gian pháp tức Phật pháp, phương tiện dẫn dụ trở thành tùy tiện diễn giải.

Những tai tiếng của một vài tu sỹ có tiếng tăm ngày nay, tuy không đại diện cho Phật giáo, nhưng Phật giáo ít nhiều bị tai tiếng. Có người ngụy biện cho rằng là phàm Tăng không tránh khỏi sai sót; vâng, những sai sốt không đáng có đối với người vô danh tiểu tốt ít ăn học có thể cảm thông, nhưng làm sao cảm thông với những vị mang đầy mình bằng cấp, địa vị chức quyền cao trọng trong Phật giáo? Một vị đứng trên pháp tòa đem Tôn giáo bạn ra phê phán, chế diễu liệu cảm thông được chăng???Đó được xem là trí thức là giảng sư chăng?. Quần chúng nghĩ rằng những vị như thế chắc chắn phải có thế lực chống lưng mới có can đảm phát ngôn bừa bãi mà không bị trừng phạt! Phàm Tăng như thế có quyền sai phạm từ cơ bản?

Gíáo hội đã trở thành một tổ chức hành chánh, là thành viên của Mặt trận, đương nhiên phải chịu trách nhiệm trước sai phạm của những cá nhân trong tổ chức mình, đó là trách nhiệm quản lý nhân sự. Quản lý nhân sự không chỉ chú trọng trong khâu chuyên môn hành chánh, gắn kết với các ban ngành trong tổ chức, mà còn phải kịp thời chỉnh đốn những sai phạm của các cá nhân trong tổng thể.

Phật giáo không cần áp dụng quản lý theo cơ chế doanh nghiệp thế tục, nhưng biết lắng nghe và khích lệ Tăng ni để họ không đi quá xa mục tiêu của Tăng nhân. Đó là trách nhiệm của người lãnh đạo Giáo hội. Đồng thời Giáo hội cũng phải có trách nhiệm giải quyết những vấn đề cấp thời mang tính xã hội. Giáo hội không thể bỏ mặc giả lơ khi thành viên xúc phạm với các Tôn giáo khác, nhân phẩm của kẻ khác…một cách vô cớ. Đây không thể giải quyết nội bộ bằng “tác pháp yết ma”. Vì tác pháp yết  ma chỉ mang tính Tôn giáo. Vi phạm hành chánh, vi phạm nghi tế thế tục thiếu tôn trọng người khác, phải công khai giải quyết cho toàn bộ xã hội được rõ, mới giảm sự căng thẳng dư luận,  tránh tiếng bao che, đồng lõa. Đức tin là quyền hiến định không những của Việt Nam mà cả Hiến chương Liên Hiệp Quốc; kẻ xúc phạm đức tin người khác đâu phải chuyện có thể bỏ qua! Xuyên tạc vu khống người lương thiện đâu thể xem là chuyện bình thường! Nhân cách của một Giáo hội nằm chỗ quản lý nhân sự và quản trị Tổ chức.

Quản lý nhân sự không thể bỏ qua khâu cắt cử nhân sự đảm nhiệm chức sự các ban ngành, phải thích hợp khả năng, trình độ chuyên môn và nhân cách của một Tôn giáo. Trong hệ thống hành chánh Giáo hội hiện nay, đề bạt bổ cử nhân sự tùy vào cảm tính, tình cảm, hệ phái mà không qua hệ quy chiếu chuyên môn, ví dụ Tổng thư ký hay thư ký các cấp, ngoài hành chánh, còn phải biết lập kế hoạch hoạt động cho Giáo hội, đề ra phương hướng ngoại giao, giải quyết những ách tắc nếu có, đó là cách quản trị tổng thể.

Quản lý nhân sự và quản trị tổng thể là điều kiện tiên quyết giúp Giáo hội vững vàng, không để tu sỹ đi chệch hướng của Phật giáo. Nhà nước thống nhất các cấp tỉnh thành, thì Giáo hội cũng đã kịp thời phân bổ từ Trung ương đến cấp tỉnh và xã. Như vậy việc quản trị tổ chức và quản lý tu sỹ cũng phân ba cấp: Trung ương, cấp tình và cấp xã, vừa tinh gọn vừa dễ hành hoạt.

Vậy quản trị của Giáo hội phải mang tính chiến lược lâu dài và quản lý nội bộ để giám sát các nhân sự hoàn thành nhiệm vụ trong tổ chức cũng như hữu hảo đối với xã hội.

Ban Pháp chế, ban Tăng sự, ban lãnh đạo Trung ương gồm Hội đồng chứng minh lẫn Hội đồng Trị sự phải chịu trách nhiệm nhân sự của mình khi sai phạm gây bức xúc xã hội.

GHPGVN là một tổ chức vừa mang tính hành chánh vừa trách nhiệm của một Tôn giáo, việc quản trị Giáo hội và quản lý Tăng ni còn nhiều sơ hở qua giáo dục nội bộ và văn hóa tiếp xử.

Hy vọng với những tai tiếng gây xôn xao trong xã hội, Giáo hội có được những kinh nghiệm đối phó từ ngoài và chỉnh đốn từ trong để PGVN có thế đứng uy tín trong  cộng đồng tín ngưỡng quốc tế.

 

MINH MẪN

 03/9/2025

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

HẠNH ĐỘC CƯ

 

 

 Xưa đức Phật dạy: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Nếu muốn tâm không phóng dật thì nên phòng hộ sáu căn cho chặt chẽ.

Trong nhà Phật, dù pháp môn tu nào, cũng phải chú trọng đến lục căn, vì từ lục căn có giao tiếp với lục trần mới sanh ra lục thức. Từ cơ bản đó, hành giả muốn bớt bị chi phối bởi ngoại cảnh, nên chọn đời sống độc cư.

Vậy độc cư là gì? Theo cái hiểu đơn giản, độc cư là ở một mình, sống một mình để tránh giao tiếp, đó là cách mà Phật dạy: Phòng hộ sáu căn chặt chẽ thì chỉ có hạnh độc cư là đệ nhất pháp.

Độc cư khác với biệt cư. Biệt cư tuy sống riêng biệt mà tâm ý vẫn lăng xăng, còn độc cư cho dù sống trong tập thể mà tâm ý độc lập, không bị chi phối, không thất niệm bởi ngoại cảnh.

Đời sống tập thể trong chốn Thiền môn khó tránh khỏi giao tiếp; ngay cả tín đồ muốn thủ hộ 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cũng phải hạn chế việc nói năng, suy nghĩ. Khi 6 căn hoạt động thì tạp niệm khởi lên, một khi tạp niệm liên tục sanh khởi là căn bản cho việc phân tâm, đưa đến loạn tâm.

Người thích nói năng, lăng xăng đủ thứ thì khó thực hiện hạnh độc cư; nơi đây ta đề cập đến hành giả thực hiện hạnh độc cư cần thực hiện những bước cơ bản như:

Không nên ăn uống phi thời.( tức ngoài bữa chính không ăn uống linh tinh)

Không nên ngủ nghỉ phi thời.

Không nên phiếm luận chuyện không liên quan đến hạnh tu.

Luôn nghiêm túc đi đứng nằm ngồi theo tiêu chuẩn về hạnh độc cư.

Nếu hành giả vi phạm các tiêu chuẩn trên, xem như đã phá hạnh độc cư.

Ý thức hạnh độc cư giúp đưa hành giả vào Thiền định, nên Đức Phật từ giả năm anh em Kiều Trần Như đến trú dưới cội Bồ đề cho đến khi chứng đắc.

Như vậy độc cư không chỉ sống một mình, sống một mình chỉ là cơ địa vật lý, độc cư quan trọng ở tâm thức, cho dù sống giữa chợ đời mà hành giả vẫn giữ được tánh thanh tịnh, tâm ly trần cảnh vẫn gọi là độc cư. Sống một mình nơi núi thẳm rừng sâu mà tâm vẫn còn lo cái ăn cái mặc, lo sợ muôn thú, nghĩ đến sống chết vô thường, nghĩ đến thân bằng quyến thuộc…thì thân độc cư mà tâm chưa độc cư.Cũng vậy, mặc dù giáo đoàn hàng chục vị vẫn có thể gọi là độc cư nếu các hành giả biết thủ hộ 6 căn.

Ngoài độc cư thân và tâm, còn phải hành trì giới luật, vì Giới là căn bản của Định, nhờ định mà có Tuệ. Muốn giữ được giới hành giả phải thoát ly mọi ham muốn, kể cả ham muốn tu chứng.Hành giả một mực chuyên sâu thiền định, không bận tâm kết quả của việc hành trì, còn bận tâm thì thân độc cư mà tâm vẫn chưa độc cư, đó cách mà nhà Thiền gọi là “ly dục”.

Khi đức Phật đến thăm ba vị sống ẩn cư trong rừng, ngài hỏi:

“- Này các Anuruddha, như thế nào các ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?”.

“- Này Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?”.

Ông A Na Luật đáp:.

“-Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân, nhưng giống như đồng một tâm.

Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm”.

“- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.

Cả ba Tôn giả  Nandiya, A Na Luật, và Kimbila cũng đều đáp giống nhau.

Khi đức Phật nhìn thấy các thầy Tỳ Kheo sống trong một tập thể mà vẫn giữ được lặng yên do tâm ý không bị chi phối ngoại cảnh, nên ngài khen:

 “Một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.

Lời vấn đáp trên giữa Phật và đệ tử  cho ta thấy, tuy sống chung, thân và tâm không chướng ngại nhau, hòa hợp như một, không khởi ý niệm phân biệt,vẫn lặng lẽ, thì vẫn là độc cư, nghĩa là không xen vào tạp ý phân biệt bất thiện, không liên hệ bên ngoài không liên quan đến việc tu.

Đức Phật hỏi tiếp các ông sống độc cư trọn vẹn như vậy các ông có làm chủ sinh, già, bệnh, chết chưa?

“- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không?”.

Ông A Na Luật trình bày kết quả sự tu tập của mình trong khi sống trọn vẹn hạnh ĐỘC CƯ như vậy

                                                      ***

Người sống độc cư rất ít nói, chỉ nói những gì cần thiết, sống đơn giản từ tâm thức đến vật chất.Luôn kiểm soát 6 căn, bởi vì  đức thầy Huỳnh giáo chủ đã nói:“mắt thấy sắc thường hay bận bịu.Tai thích nghe những điệu âm thanh…” thoát khỏi lo âu, giận hờn, nóng nảy, khó chịu…Do 6 căn giao tiếp 6 trần sanh ra 6 thức gọi là căn trần thức tổng cộng 18 giới, xâu chuỗi 18 hột lần tay từ ý đó mà thành.

Không độc cư thì khó mà nhập định, đã sống đúng tiêu chuẩn độc cư thì ngồi nằm đi đứng đều an trú trong nhiếp tâm.Tâm hành giả luôn tĩnh lặng an nhiên.

“Quá khứ không truy tìm

Quá khứ đã qua rồi”.

Tương lai chưa biết chắc

Tương lai không vọng tưởng

 “Chánh Niệm Tĩnh Giác đây,

Tuệ tri quán Vô Lậu”.

Đây là cách để trụ tâm, khỏi chạy theo trần cảnh.

Hành giả đôi lúc đánh mất ý thức, hành xử theo thói quen do vô thức chủ động, cứ tưởng tâm thanh tịnh, nhà Thiền gọi là thất niệm.Thất niệm là không nhớ mình đang làm gì, để vọng tưởng suy nghĩ lung tung, hoặc hành động như một tập quán được an định, lúc đó tâm đã duyên trần cảnh sanh ra thất niệm.Một khi tâm đã định thì ngoại cảnh khó làm tâm giao động: “Không động không rung chuyển”.

Nhờ hạnh độc cư mà hành giả kiểm soát bao vọng tưởng từ tiềm thức hiện ra. Càng tĩnh lặng càng xuất hiện những hạt giống bất tịnh tích lũy lâu đời để hành giả nhận diện chuyển hóa.Nhờ tâm định mà có tỉnh thức, người có tỉnh thức luôn hướng nội nên an nhiên, thanh thản; người luôn hướng ngoại năng lượng bị suy hao, lo nghĩ nhiều thì hao thần, nói nhiều bị tổn khí, cảm thấy mệt mỏi, thiếu sinh lực.

Không giao kết bè bạn bàn chuyện nhảm nhí vô bổ

Dù sao ẩn cư nơi thanh vắng vẫn có lợi hơn phồn hoa đô hội.

Theo kinh nghiệm của các chân sư tiền bối, người sống độc cư phải ít nói chuyện, chỉ nói khi cần thiết.sống riêng, làm việc riêng cho đến giai đoạn tưởng chừng không làm gì hết mà vẫn làm rất nhiều cho nội tâm mà đạo gia gọi là “vô vi vô bất vi

Ngày nay chùa nhiều, tu sỹ đông nhưng hạnh tu và sở đắc chưa đủ tạo dấu ấn cho Phật giáo trong xã hội. Trái lại tuy chỉ có vài vị mang học vị cao, địa vị lớn, có tiếng tăm lại là người làm mất thanh danh cho Phật giáo, để Tôn giáo bạn dạy khôn một cách nhục nhã cũng vì chưa ly dục, ly ác pháp, tâm chất chứa hơn thua, đố kỵ; cũng do không thủ hộ 6 căn, không biết độc cư nội tâm, phải chăng Phật giáo đang suy tàn vì đa phần thiếu hướng nội; đồng thời có ai đó miên mật nhiệt tâm hướng nội độc cư lại bị lên án, xuyên tạc, chỉ trich???

 Người tu cần tu phải thể hiện nhân cách để bảo tồn uy tín cho đạo, khiến cho Phật pháp được xương minh.Người tu cầm chừng không có ích cho mình, cho người, mà còn có hại cho Đạo. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. 

Hạnh độc cư không những giúp hành giả tiến vào chánh định mà còn sanh ra phước vô lậu, nên kinh Độc cư lý tưởng đức Phật nói:

“Chúng ta không thể nào điều đình với cái chết đã thu hút vô số người, nhưng kẻ nào an trú như trên một cách tinh tấn, ngày đêm không mệt mỏi, thì kẻ ấy bậc Thánh gọi là“Người Yêu Thích Hạnh Độc Cư Lý Tưởng.”

 

MINH MẪN

 23/8/2025

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2025

THIỀN TRÀ TRI ÂN






Rừng thông phủ nhẹ cơn mưa bụi; chưa đến 19 giờ, cả vùng Resort K’Lan gần hồ Tuyền Lâm Dalat như chìm trong tĩnh lặng.

Rãi rác học viên Yoga từ các lối mòn trong rừng âm u, tĩnh mịch, đổ về hội trường,  với phong cách vui vẻ, hòa ái, thân thiện.

Trang trí thanh nhã, thiền vị, hình ảnh các tư thế Yoga xen lẫn thư pháp họa tiết, hoa và đèn tạo nên một không gian huyền ảo trong phòng khánh tiết.

Tháng bảy sắp về,Vu lan thắng hội rộn ràng trên quê hương; các chùa đều chuẩn bị cho mùa Hiếu hạnh.Trong rừng Thiền Yoga “chữa lành sức khỏe và phục hồi tự nhiên” cho hàng trăm học viên trong và ngoài nước tham dự khóa học, đêm nay hưởng ứng buổi “Trà thiền Tri ân” do cô Ngọc Mỹ tổ chức nhân sinh nhật tuổi 74 của mình. ( cô Ngọc Mỹ là Đạo sư Yoga và Trà sư tại Việt Nam)

Trên bàn chứng minh có Đạo sư Swami Sitaramananda (giáo viên chính thức chuyên về sức khỏe tinh thần, Thiền định và  giải tỏa căng thẳng)

Swami Adiparashaktiananda phụ trách Hatha Yoga.Tất cả là chuyên viên từ nước ngoài về tham dự.

Dọc bậc lên Thiền đường, học viên thắp nến trong hoa sen giấy tưởng chừng ngõ vào Thiên thai.

Hàng trăm thiền sinh sắp hai hàng đối diện trên tọạ cụ, trước mặt là khay trà, mứt gừng, bánh đậu xanh,thêm một nhánh hoa và ngọn đèn sáp.

Đèn điện tắt trong giây lát, tất cả  chìm trong Thiền tĩnh; đến khi đèn sáng, đồng loạt trổi giọng với âm điệu du dương thoát tục.

Trà chủ mở đầu giới thiệu các học viên từng người mang các trà cụ  lần lượt xuất hiện, có cả những học viên nữ nước ngoài mang trang phục truyền thống Việt Nam, phong cách như phụ nữ Việt trông điệu đà dễ mến-Cô Ngọc Mỹ giới thiệu thầy Thanh Sơn nói về ý nghĩa sở thích của mỗi người về trà: “trà ngon không phải là loại đắc tiền mà là loại thích hợp khẩu vị từng người’; Bằng sự chuyên nghiệp,Trà chủ nói qua về cách thức tẩy chung trà, ấm trà, pha trà, châm trà và mời trà; sự khác biệt  cách nâng chung trà giữa hai giới tính, cách châm trà tiễn khách…và nhân mùa Hiếu hạnh sắp đến, kết hợp Sinh nhật trà chủ, diễn ra  một cách hài hòa, để tri ân các đấng sanh thành, ân tổ quốc,ân thầy Tổ, ân vạn loại chúng sanh đem lại trong cuộc sống.

Đạo sư Swami Sitaramananda và học viên tặng quà chúc mừng sinh nhật trà chủ.Các điện thoại thi nhau chớp ảnh, lóe lên nhiều tia sáng hạnh phúc từ những tâm hướng thiện và hòa hợp.

Dàn nhạc không chuyên trình bày ba nhạc phẩm của nhạc sĩ Ngyễn thé Vinh nói về mẹ. Các nhạc “công” đều sử dụng đàn Mandolin khá chuyên. Các em học viên hưởng ứng băng nhịp vỗ tay.

Người phục vụ  mang bình trà rót vào từng chung trước mặt mọi người như gửi gắm từng giọt yêu thương và đồng cảm.

Khí lạnh cao nguyên, không gian lắng đọng, rừng thông phủ sương ấp ủ cho nội thất đêm thiền trà tri ấn nhiều ấn tượng.

Nơi đây hiện rõ sinh hoạt nề nếp, phục vụ, thân thương, đoàn kết, tự nguyện, trách nhiệm của những học viên nội  trú tuổi còn trẻ mà hầu như lớp tuổi này ngoài xã hội có được mấy ai!

Học viên nội trú sinh hoạt rất khuya, rồi tản mát vào những căn nhà ẩn khuất trong rừng tối, cũng từ đó, lần lượt xuất hiện trên các lối mòn đêm qua, khi chân trời chưa phát những tia sáng qua kẽ lá rừng cây, từng nhóm, từng người lặng lẽ, hai tay xỏ vào túi áo lạnh, phủ trùm mũ ấm, đầu cúi, lầm lũi lang thang trên dốc đồi dẫn vào bìa rừng.

Thiền trà qua đêm, trả lại không gian sinh hoạt tĩnh mịch, ghi một dấu ấn nghệ thuật trong những nghệ thuật lắng đọng, cân bằng thân tâm, chữa lành tâm lý mà các học viên tiếp thu trong thời khóa học tập Yoga trị liệu.

Tất cả sinh hoạt diễn ra trong yên tĩnh, nhẹ nhàng.

Một Thiền trà tri ân tại Resort K’lan, là một sao đêm giữa không gian  mưa bụi, khí lạnh, cô tịch phủ rộng tình người đang có mặt đêm nay.

MINH MẪN

 18/8/2025









Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

PHẬT GIÁO VÀ KHỔ HẠNH

 

Thường chúng ta lầm lẫn giữa Phật giáo và Phật pháp.

Phật giáo là lời dạy của Phật, Phật pháp là pháp hành trên con đường giải thoát.

Phật giáo thường đóng khung trong một tổ chức, một Giáo hội, giáo đoàn, lập thành một quy chế, một giáo luật để dẫn dắt đồng tu,hướng dẫn Phật tử.

Thời đại xã hội có tiến bộ, mọi sinh hoạt có nề nếp, Phật giáo không thể sinh hoạt đơn lẻ tách rời xã hội,Phật giáo trở thành một bộ phận trong xã hội, ví dụ tại Việt Nam hiện nay, Phật giáo là một đơn vị của Mặt trận, vì thế, ngoài việc truyền bá giáo lý, hoạt động Phật sự,Tăng đoàn còn phải chấp hành những quy chế  ràng buộc vào hành chánh, đôi khi còn phải tiếp thu những ngoại khóa về tư tưởng chính trị, chủ trương nhà nước, hưởng ứng phong trào…Một số tu sỹ được đề bạt gia nhập đảng xét thấy nhân thân tốt, đóng góp hoạt động nhiệt tình và những tiêu chuẩn của một đảng viên.

Chính những hoạt động nặng về thế tục theo định hướng xã hội, một số cán sự của Phật giáo không đủ thời gian hướng nội và quên nhiệm vụ của một Tăng bảo thời hiện đại, lơ là việc hành trì, quên khích lệ đại chúng trở về tâm linh, dần đi xa mục đích lúc sơ tâm xuất gia, chí nguyện hướng thiện và hướng thượng dần phai nhạt;dẫn đến cuộc sống không khác thế tục, đôi khi trở thành thành phần thượng lưu, được xã hội xem như mặc nhiên và đương nhiên phải như vậy, từ đó, ỷ thị quyền cao chức trọng tuyên bố thiếu kiểm soát, xem mọi người dưới mắt mình, chỉ trích ngạo mạng với bậc chân tu giới đức tinh nghiêm; cho đến khi xuất hiện một thành phần giữ trọn phẩm hạnh nguyên chất của nhà Phật, bấy giờ quay lại nhìn sinh hoạt Tôn giáo mình đang theo, mọi người ngỡ ngàng đặt lại vấn đề.

Quần chúng hướng về bậc chân tu là một cảnh báo nguy hại cho những tu sỹ sống xa hoa, cách xa quần chúng.Hầu như trên 80% tu sỹ Phật giáo nằm trong cơ chế Giáo hội đều không thích người thể hiện hạnh đức khác thường với tập thể, là một chiếc kính chiếu rõ bộ mặt nhếch nhác, biến thái khác thường của tập thể đang lún sâu trong Danh-lợi-tình của thế tục.

Một tâm hồn Giác ngộ là quay về nội tâm, buông bỏ mọi vướng bận trần tục.Để thử thách khả năng buông bỏ, hành giả chọn con đường khó nhất, thường tình gọi là khổ hạnh, đối với hành giả không xem là khổ hạnh mà là chọn lối sống tối giản của nhu cầu vật chất, dồn tất cả thời gian và khả năng cho việc hướng nội.

Trong thời gian đức Cồ Đàm hướng đến giải thoát, ngài cũng chọn con đường khổ hạnh ép xác để từ đó rút ra bài học Trung đạo. Như học sinh lớp cao cũng phải kinh qua lớp thấp để có bước căn bản. Hành giả không qua khổ tu, mọi nhu cầu vật chất đầy đủ sẽ khó mà buông bỏ, khó mà hướng đến bài học tâm linh;tâm linh và vật chất,hai phải chọn một, không thể bước chân trên hai con thuyền cùng lúc để di chuyển.

Tại sao đức Phật ca ngợi hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca Diếp mà không khuyến khích mọi người theo, hoặc ngăn cấm hạnh Đầu đà?

Đầu đà là hạnh tu tự nguyện tùy khả năng của hành giả.Hạnh Đầu đà không chỉ giới hạn ở số 13. Thời bấy giờ các hành giả Bà La Môn, Yoga và nhiều hệ phái khổ hạnh có thể hành thêm những động tác như đứng một chân, trồng chuối, đứng phơi nắng, dang tay, ăn cây lá, đậu mè …Cũng có thể giảm bớt vài động tác cho thích hợp với cơ địa, không nhất cứ phải đủ 13 công hạnh.

Tóm lại, Trung đạo của đức Phật không quá khổ hạnh, cũng không quá thừa thải tiện nghi hưởng thụ, vừa đủ nuôi sống cơ thể vật chất; tuy nhiên, hành giả cảm thấy cần tăng cường một số công hạnh để thúc đẩy sự tỉnh thức, có thể chọn những điều khác bình thường.Do đó,Đức Phật tuy tán thán hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca Diếp nhưng không khuyến khích để cho các hành giả tự chọn.

Mọi khổ hạnh cho đến hạnh Đầu đà đều là những pháp hành, không thể gọi là tà giáo ngoại đạo.

 

MINH MẪN

 11/8/2025

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

                    

Theo định nghĩa  trong tự điển Tiếng Việt – “Đạo đức là những tiêu chuẩn nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội (nói tổng quát) phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có.”

Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.

         Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức.

        Theo Lão tử tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có    Đức

Quan niệm Đạo đức còn tùy thuộc khuynh hướng xã hội, chủng tộc, từng quốc gia, dân tộc, đảng phái, từng nghiệp vụ.

Những bộ tộc lạc hậu xa xưa, cha mẹ chết chôn cất sợ con trùng cắn xé mang tội bất hiếu, con cái chia nhau ăn thịt, nghĩ rằng cha mẹ luôn ở trong người con.Trên cao nguyên Tây Tạng, người chết, các Tăng nhơn, đều phanh thây cho chim thú ăn, vừa thể hiện lòng từ, vừa bảo vệ môi sinh. Một số đồng bào sắc tộc vùng cao Việt Nam hủ tục ma chay vẫn còn tồn tại chưa được khai phóng; đồng bào treo người chết nhiều ngày để phục vụ cơm nước cho đến khi đưa ra huyệt nhập quan. Mỗi sắc tộc đều có một tục lệ đối với người thân qua đời, quan niệm đó là hành động đạo đức của sắc tộc họ.

Đạo đức Cách mạng là người cán bộ phải “chí công, vô tư, cần kiệm liêm chính” đó là tiêu chí lý tưởng để đưa thế giới đến đại đồng,khó thực hiện toàn bộ 100% kể cả thời chiến và giai đoạn khởi lập học thuyết. Trong Tôn giáo cũng thế, vô ngã, vị tha,diệt tham sân si là tiêu chuẩn lý tưởng của hành giả tiến tu giải thoát; có thể thực hiện thời đại chánh pháp hoặc lúc Phật còn tại thế. Thời mạt pháp tìm một bậc chân tu bảo đảm giữ trọn luật giới thật hiếm có.Vấn đề không chỉ đưa ra những tiêu chí lý tưởng mà cần giải quyết bản chất cố hữu tồn tại trong con người.

Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Nếu như lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người”.

Đạo đức theo cổ nhân không  cần dùng luật pháp khắc khe với dân.Dùng luật pháp hay quy chế răn đe càng sanh ra nhiều tệ nạn;  Lão Tử nói “Nếu dân không sợ chết, dọa họ chết có ích gì”. Trên thế giới nhiều nước có luật tử hình, nhưng phạm luật vẫn cứ phạm chả ngừa được, trong các Tôn giáo ít khi tội trọng xảy ra cho dù không có luật khắc khe như ngoài xã hội.

Đặt ra quá nhiều luật lệ hà khắc để bắt nhân dân tuân phục nhưng trong tâm của họ không phục thì sẽ gây nên những tình huống khó khăn hơn về sau.Thuận lòng dân thì xã hội an hòa;muốn dân chấp hành quy định, phải tham khảo lòng dân, không nên áp đặt khi dân chưa hiểu, và nền giáo dục phải đặt Đạo đức lên đầu.

Học thuyết Khổng tử giáo dục xã hội bằng học lý “Tam cang ngũ thường, tam tùng tứ đức”,  “nhân - lễ - nghĩa trí - tín” là cơ bản cho một xã hội có tôn ti trật tự.

 Người quân tử trước hết phải tu dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Khổng Tử quan niệm: “người quân tử ăn không cần no, ở không cần yên, làm việc siêng năng và thận trọng với lời nói, tìm người đạo đức để sửa mình; như vậy mới được coi là người ham học”.

Xã hội ta ngày nay, người phân biệt thiện ác lẫn lộn. Xem thiện là ác, lấy ác làm thiện. Nhất là từ khi có truyền thông mạng, vì câu view câu like kiếm lợi nhuận, bất chấp đạo đức, lạc dẫn quần chúng, đánh tráo khái niệm, xáo trộn nhân tâm, tạo thành phe nhóm, công kích lẫn nhau, đưa đến bạo lực.

Dân đen do hạn chế hiểu biết đã đành, người có học vị, trang bị đầy kến thức mà vẫn phát ngôn như thiếu hiểu biết kể cũng lạ.Vi phạm đạo đức xã hội,trượt dốc đạo đức Tôn giáo trở thành việc hiển nhiên trong cuộc sống.Ngay cả giới luật của Phật cũng bị sửa, người nghiêm túc thực hành giới luật cũng xem là tà đạo..

Trong  đám cờ bạc rượu chè, người không rượu chè sẽ khó sống chung.Giữa những người bất chính,kẻ trong sạch sẽ bị tẩy chay.Trong cộng đồng Tôn giáo, kẻ đua nhau thể hiện sự sang trọng, phẩm hàm, chức vị sẽ thấy khó chịu khi bậc chân tu giữ giới trong sạch, lìa xa danh lợi.  Xã hội như thế bảo sao không loạn, xã hội như thế người tốt khó sống. Lạ gì khi vinh danh người tốt, đề cao nét đẹp phẩm hạnh đạo đức nơi một đối tượng được lòng quần chúng sẽ bị chà đạp, bị kết tội.Phải chăng xã hội đang thời loạn lạc!!!

Chủ Tịch nước Lương Cường trong bài phát biểu tại Vesak 2025, sau khi hoan nghênh và đánh giá cao chủ đề Đại lễ Vesak, ông nói: ... “Đức phật dạy, hoà bình thật sự đến từ nội tâm thanh tịnh, vì vậy, chỉ có vun đắp hòa bình thông qua sự chuyển hoá niềm tin của từng cá nhân, từ đó dẫn đến chuyển hoá niềm tin của toàn xã hội.

Tôi đề nghị, chúng ta cần đưa tâm Từ bi vào chính sách, mang Trí tuệ vào định hướng phát triển, đề cao Tinh thần Vô ngã - Vị tha, tức là làm việc gì cũng không vì không vì bản thân mình mà luôn nghĩ đến lợi ích của đại chúng."

Khi Chủ tịch nước muốn đưa tâm Từ bi vào chính sách,mang Trí tuệ vào định hướng phát triển và tinh thần Vô ngã – Vị tha…có nghĩa báo động trong xã hội ngày nay đã có vấn đề tha hóa Đạo đức.

Giáo dục nhân dân cần chú trọng, Phật giáo cần nghiêm túc chỉnh đốn nội bộ bằng sự tu dưỡng đúng giới luật, đúng phẩm hạnh mới tạo lại niềm tin quần chúng đã đánh mất.

 

MINH MẪN

 31/7/2025

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2025

PHẬT GIÁO VÀ ÂM NHẠC


Học lý Trung Hoa quan niệm con người là tiểu vũ trụ,có đủ cơ chế, tánh chất của vũ trụ. Ấn giáo cũng xem con người là Tiểu ngã, một phần của Đại ngã. Phật giáo nhìn chúng sanh đều có Phật tánh, vì bị vô minh bao bọc, cách ly Phật tánh, người tu là lìa tục tánh để khai mở tánh giác, trí tuệ hiển lộ tánh giác tức là Phật tánh, như vậy trong mỗi chúng sanh đều hàm chứa tánh giác, một thể tánh vũ trụ.

Do Phật giáo chủ trương thoát ly sanh tử, ra khỏi tam giới nên luật học cấm đàn ca hát xướng; không nghe, không hát, không sáng tác xướng họa…Đó là thời đại cách đây gần ba ngàn năm, xã hội chưa phát triển, hành giả chú tâm vào việc hành trì. Ngày nay cuộc sống đầy đủ tiện nghi, ngày một phát triển mọi mặt, Phật giáo không nằm ngoài quy luật phát triển đó. Khởi nguyên Phật giáo chưa phải là Tôn giáo nặng về nghi lễ thờ cúng; bấy giờ giáo đoàn chuyên hành trì Thiền định. Một thời gian sau, để thích hợp với trình độ căn cơ tín chúng, bắt đầu phát sanh hình thức Tôn giáo, thay vì hành trì hướng nội phát triển tâm linh lại phát triển hình thức nghi lễ hướng ngoại;thế là Phật giáo trở thành một tổ chức nằm trong sinh hoạt của xã hội phần lớn tùy thuộc về hệ thống hành chánh, buộc phải tương thích mọi sinh hoạt xã hội, từ đó cộng đồng tu sỹ có hai phần rõ nét. Sinh hoạt hành chánh cũng đồng nghĩa tu sỹ phải tham gia vào giới trẻ, tổ chức các khóa tu, đáp ứng các nhu cầu về nghệ thuật trong đó có âm nhạc. Bộ phận tu sỹ này gọi là nhập thế.

Những bậc chuyên hành trì miên mật tiến tu giải thoát, không đam mê, không tham gia những hoạtđộng ngoài tinh thần nghiêm túc của giới luật, nhóm này gọi là tu sỹ xuất thế.

Trong phạm vi nhập thế, âm nhạc trở thành mắt xích quan trọng trong việc hoằng pháp, do đó không lạ khi thấy tu sỹ sáng tác nhạc, đàn ca trong các đạo tràng huớng dẫn các khóa tu cho tuổi trẻ, thậm chí các nhạc sỹ phật tử cho ra đời những album chuyên đề nhạc đạo. Các ca từ mang tính đạo mà ngay cả âm điệu cũng khác xa các loại nhạc thế tục.Nói thế không có nghĩa nhạc đạo mang âm hưởng toàn bộ; nếu không có ca từ trong đạo thì nhạc âm cũng lẫn lộn nhạc đời êm dịu, chưa có nét Thiền vị.

Trong âm nhạc gồm 5 cung bậc thể hiện tính chất tương thích với ngũ hành và nội tạng. Cổ nhân nhận định Thiên-Địa-Nhân đều có đặc tích tương thích lẫn nhau. Ví dụ:

Mỗi âm điệu mang trong mình đặc tính của một Hành trong Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

  • . Ngũ Hành – Ngũ Tạng – ngũ âm

Mỗi Hành lại có mối liên hệ trực tiếp đến một Tạng trong cơ thể.

  • Cung: Thuộc hành Thổ.

Thổ: Tương ứng với Tỳ (và Vị). liên quan đến Tư (lo nghĩ).

  • Thương: Thuộc hành Kim.

Kim: Tương ứng với Phế (và Đại trường). liên quan đến Bi (buồn).

  • Giốc: Thuộc hành Mộc.

Mộc: Tương ứng với Can (và Đởm). liên quan đến Nộ (giận).

  • Chủy: Thuộc hành  Hỏa: 

Hỏa :Tương ứng với Tâm (và Tiểu trường). liên quan đến Hỷ (vui mừng).

     .  Vũ: Thuộc hành Thủy.

Thủy: Tương ứng với Thận (và Bàng quang). liên quan đến Khủng (sợ hãi).

Do tương ứng giữa ngoại âm và nội tạng nên y học Trung Hoa áp dụng vào cách chữa trị. “Dĩ Thanh Động Khí, Dĩ Khí Vận Huyết, Dĩ Huyết Dưỡng Thần” Nguyên lý trị liệu của Ngũ Âm dựa trên khả năng dùng âm thanh để chuyển động khí  trong cơ thể.

Khoa học ngày nay áp dụng âm nhạc để cho động vật và thảo mộc tăng trưởng.

Âm thanh có tác động tích cực đến tâm lý và nội tạng.Nhạc Thiền êm dịu đưa ta đến tĩnh tại.

Nhạc kích động đưa người nghe đến xung động

Nhạc ủy mỵ đưa con người đến trầm cảm.

Việt Nam sau khi du nhập  và ảnh hưởng âm nhạc nhiều khu vực làm phong phú thêm nhiều nhạc cụ, kể cả nhạc cụ của đồng bào thiểu số.

Âm nhạc dân gian có Hát chèo, hát Xẩm, hát Quan họ, hát Chầu văn,ca Trù, Hò, nhạc cung đình,nhạc tài tử,tân nhạc...

Riêng âm nhạc Phật giáo gồm có:

 Các nhạc cụ được tìm thấy trong âm nhạc Phật giáo Đông Á bao gồm: đàn tỳ bà , đàn nhị hồ , đàn dương cầm , đàn biwa , ô-boa (ken), sáo ngang (sao), đàn môi , trống nghi lễ (như taiko , hoặc trống nhạc Việt Nam), cồng chiêng, chuông, đàn vĩ cầm Việt Nam và đàn tap pyong so (Hàn Quốc).

Phật giáo Việt Nam ba miền có cách tán tụng khác nhau, từ miền Trung như Huế đặc thù có tán rơi,âm nhạc Phật giáo Huế một phần mang âm hưởng Cung đình. BìnhĐịnh vào đến Bình Thuận cũng biến tấu khác, vào miền Nam nhất là các sư Cổ sơn Môn chuyên về đình đám ảnh hưởng một nét Hát bộ.

Âm nhạc Phật giáo về tán tụng trong Thiền môn được cố giáo sư âm nhạc Trần văn Khê đề cao một nét đặc thù cá biệt về giá trị.

Mỗi quốc gia đều có nền âm nhạc riêng biệt. Phật giáo mỗi nước cũng có nhạc khí và âm lượng riêng.Nhạc âm Phật giáo Tây Tạng có nét trầm hùng của cảnh giới chư Thần. Một số trường phái Thiền dùng “OM” như một âm lực để kích hoạt trung khu thần kinh, hỗ trợ não bộ tương thích với tần số ngoại biên.Nhạc Thiền êm diệu dễ tạo cảm giác trầm lắng.Như vậy âm nhạc Phật giáo có ba loại, nhạc thời trang cho giới trẻ, nhạc lễ Tôn giáo và nhạc Thiền cho người hướng nội.

Mỗi Tôn giáo, mỗi trường phái đều có đặc tính riêng của nhạc âm thích hợp với khuynh hướng tâm linh.Khác hẳn với Tôn giáo, thế hệ trẻ ngày này nhạc mang âm hưởng khích động náo loạn làm cho thế hệ trẻ thiếu trầm tĩnh.Ngày xưa còn chiến tranh, nhạc Cách mạng  là loại kích động tinh thần chiến đấu.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh tác động của âm nhạc nói chung lên sóng não, nhịp tim, huyết áp, nồng độ cortisol (hormone stress), và các chất dẫn truyền thần kinh.

“Khoa học Trung Quốc và một số nước châu Á đang có những nghiên cứu bước đầu nhằm đánh giá tác động của các tần số âm nhạc cụ thể, tương ứng với Ngũ Âm, lên các chỉ số sinh lý và tâm lý. Ví dụ, nghiên cứu về ảnh hưởng của âm nhạc Ngũ Hành lên sự biến thiên nhịp tim (HRV) hoặc chất lượng giấc ngủ”.

Trong dưỡng sinh: Các bài tập khí công, thái cực quyền thường kết hợp với các loại nhạc thiền định dựa trên nguyên lý Ngũ Âm để tăng cường hiệu quả điều thân, điều tức, điều tâm.

Tuy nhiên, cho dù là bất cứ loại tình cảm nào được âm nhạc diễn tả,bất cứ âm nào nếu đi đến cực độ, nó có thể làm hại đến thân thể và sự lưu thông năng lượng của Khí.
Cổ nhân nói: “Đức giả, tính chi đoan dã; nhạc giả, đức chi hoa dã”, nghĩa là: bậc đạo đức, có sự ngay thẳng, đoan chính nằm trong tính tình; nhạc là bông hoa của đức. Điều đó chỉ ra rằng: “Đức chính là thiên tính của con người; còn Âm nhạc là đóa hoa của đạo đức tỏa sáng”. Âm nhạc và nhạc sỹ ngày này không cHú trọng về tính tương quan của ngũ hành, ngũ tạng và ngũ âm nên vượt qua khuôn khổ của lễ tiết.

Trước trào lưu loạn nhịp của âm nhạc, Shen yun cố gắng trở về lối nhạc cổ truyền Trung Hoa, áp dụng kỷ pháp và âm luật tạo nên các tác phẩm thuần thiện thuần mỹ cảm hóa lòng người chiếm được cảm tình thính giả.

Nghệ sỹ Shen Yun thể hiện nét thuần thiện qua công phu tu luyện hướng đến tiêu chí Thần Phật, từ ngàn xưa dân tộc Trung Hoa từng sống thời Thánh đức. Thời ấy, âm nhạc, Tôn giáo, đạo đức luôn đồng hành với xã hội; Shen Yun là một tổ chức "độc nhất vô nhị"hiện nay.

Tuy Shen Yun là một công ty nghệ thuật độc lập, nhưng  đức tính Chân Thiện Nhẫn rất gần gũi với Tôn giáo và xã hội cổ đại.

Các nhà soạn nhạc Phật giáo cần tham khảo và tu dưỡng để có những nhạc phẩm mang đặc tính tâm linh hơn mang tính thời trang , có một sắc thái cá biệt ngoài ca từ còn âm sắc không lẫn lộn với thế nhạc.

 

MINH MẪN

 26/7/2025