Thường chúng ta lầm lẫn giữa Phật giáo và Phật pháp.
Phật giáo là lời dạy của Phật, Phật pháp là pháp
hành trên con đường giải thoát.
Phật giáo thường đóng khung trong một tổ chức, một
Giáo hội, giáo đoàn, lập thành một quy chế, một giáo luật để dẫn dắt đồng tu,hướng
dẫn Phật tử.
Thời đại xã hội có tiến bộ, mọi sinh hoạt có nề nếp,
Phật giáo không thể sinh hoạt đơn lẻ tách rời xã hội,Phật giáo trở thành một bộ
phận trong xã hội, ví dụ tại Việt Nam hiện nay, Phật giáo là một đơn vị của Mặt
trận, vì thế, ngoài việc truyền bá giáo lý, hoạt động Phật sự,Tăng đoàn còn phải
chấp hành những quy chế ràng buộc vào
hành chánh, đôi khi còn phải tiếp thu những ngoại khóa về tư tưởng chính trị,
chủ trương nhà nước, hưởng ứng phong trào…Một số tu sỹ được đề bạt gia nhập đảng
xét thấy nhân thân tốt, đóng góp hoạt động nhiệt tình và những tiêu chuẩn của một
đảng viên.
Chính những hoạt động nặng về thế tục theo định hướng
xã hội, một số cán sự của Phật giáo không đủ thời gian hướng nội và quên nhiệm
vụ của một Tăng bảo thời hiện đại, lơ là việc hành trì, quên khích lệ đại chúng
trở về tâm linh, dần đi xa mục đích lúc sơ tâm xuất gia, chí nguyện hướng thiện
và hướng thượng dần phai nhạt;dẫn đến cuộc sống không khác thế tục, đôi khi trở
thành thành phần thượng lưu, được xã hội xem như mặc nhiên và đương nhiên phải
như vậy, từ đó, ỷ thị quyền cao chức trọng tuyên bố thiếu kiểm soát, xem mọi
người dưới mắt mình, chỉ trích ngạo mạng với bậc chân tu giới đức tinh nghiêm; cho
đến khi xuất hiện một thành phần giữ trọn phẩm hạnh nguyên chất của nhà Phật, bấy
giờ quay lại nhìn sinh hoạt Tôn giáo mình đang theo, mọi người ngỡ ngàng đặt lại
vấn đề.
Quần chúng hướng về bậc chân tu là một cảnh báo nguy
hại cho những tu sỹ sống xa hoa, cách xa quần chúng.Hầu như trên 80% tu sỹ Phật
giáo nằm trong cơ chế Giáo hội đều không thích người thể hiện hạnh đức khác thường
với tập thể, là một chiếc kính chiếu rõ bộ mặt nhếch nhác, biến thái khác thường
của tập thể đang lún sâu trong Danh-lợi-tình của thế tục.
Một tâm hồn Giác ngộ là quay về nội tâm, buông bỏ mọi
vướng bận trần tục.Để thử thách khả năng buông bỏ, hành giả chọn con đường khó
nhất, thường tình gọi là khổ hạnh, đối với hành giả không xem là khổ hạnh mà là
chọn lối sống tối giản của nhu cầu vật chất, dồn tất cả thời gian và khả năng
cho việc hướng nội.
Trong thời gian đức Cồ Đàm hướng đến giải thoát,
ngài cũng chọn con đường khổ hạnh ép xác để từ đó rút ra bài học Trung đạo. Như
học sinh lớp cao cũng phải kinh qua lớp thấp để có bước căn bản. Hành giả không
qua khổ tu, mọi nhu cầu vật chất đầy đủ sẽ khó mà buông bỏ, khó mà hướng đến
bài học tâm linh;tâm linh và vật chất,hai phải chọn một, không thể bước chân
trên hai con thuyền cùng lúc để di chuyển.
Tại sao đức Phật ca ngợi hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca
Diếp mà không khuyến khích mọi người theo, hoặc ngăn cấm hạnh Đầu đà?
Đầu đà là hạnh tu tự nguyện tùy khả năng của hành giả.Hạnh
Đầu đà không chỉ giới hạn ở số 13. Thời bấy giờ các hành giả Bà La Môn, Yoga và
nhiều hệ phái khổ hạnh có thể hành thêm những động tác như đứng một chân, trồng
chuối, đứng phơi nắng, dang tay, ăn cây lá, đậu mè …Cũng có thể giảm bớt vài động
tác cho thích hợp với cơ địa, không nhất cứ phải đủ 13 công hạnh.
Tóm lại, Trung đạo của
đức Phật không quá khổ hạnh, cũng không quá thừa thải tiện nghi hưởng thụ, vừa
đủ nuôi sống cơ thể vật chất; tuy nhiên, hành giả cảm thấy cần tăng cường một số
công hạnh để thúc đẩy sự tỉnh thức, có thể chọn những điều khác bình thường.Do
đó,Đức Phật tuy tán thán hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca Diếp nhưng không khuyến
khích để cho các hành giả tự chọn.
Mọi khổ hạnh cho đến hạnh
Đầu đà đều là những pháp hành, không thể gọi là tà giáo ngoại đạo.
MINH MẪN
11/8/2025
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét