Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ!
Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ!
Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ!
Cái gì chưa bao giờ nghe, mới nghe lần đầu thấy cũng lạ...
Đành là thế, nhưng thế cũng chưa phải LẠ, có những cái từng biết, từng gặp, từng nghe mà vẫn thấy Lạ! Trong cuộc sống có nhiều cái lạ, quá lạ;
Thường lạ trở thành Lạ thường, nhưng khi xét lại vẫn luôn là Lạ.
Tàu lạ đâm ngư dân, không phải không biết tàu đó của ai, nhưng lạ là từng thề thốt “môi hỡ răng lạnh, thắm thiết 16 chữ vàng” thế mà vẫn giết nhau mới Lạ.
***
Khi ấy, đức Phật đang ở tại thành Vương Xá, vào buổi sáng sớm đi khất thực, nhìn xa xa về phía núi Kê Túc thấy có một chàng con nhà trưởng giả tên Thi-ca-la-việt đang chải đầu, súc miệng, rửa mặt, thay y phục sạch sẽ, rồi hướng về phương đông lạy 4 lạy, hướng về phương nam, phương tây, phương bắc cũng lạy mỗi phương 4 lạy, lại hướng lên trời lạy 4 lạy, hướng xuống đất lạy 4 lạy.
Đức Phật liền đến nhà người ấy, hỏi: “Con đang làm gì vậy?”
Thi-ca-la-việt đáp: “Con ở đây lễ lạy sáu phương.”
Đức Phật hỏi: “Lễ lạy sáu phương như vậy là theo pháp gì?”
Thi-ca-la-việt đáp: “Khi cha mẹ còn sống có dạy con mỗi buổi sáng sớm phải lễ lạy sáu phương, con cũng không hiểu để làm gì. Nay cha mẹ đã qua đời, con không dám trái lời dạy.”
Phật nói: “Cha mẹ con dạy việc lễ lạy sáu phương không phải dùng thân lễ lạy như thế.Con đã hiểu sai ý của cha mẹ con rồi.”
Thi-ca-la-việt liền quỳ xuống thưa: “Xin Phật từ bi vì con giảng giải ý nghĩa việc lễ lạy sáu phương.”
Phật dạy: “Được, con hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy để tâm vào lời dạy, ta sẽ vì con giảng rõ.
“Hàng trưởng giả, những người trí thức, nếu như có thể trừ dứt sáu pháp xấu ác, đó chính là lễ lạy sáu phương.
“Những gì là sáu pháp xấu ác? Một là tham uống rượu, hai là mê cờ bạc, ba là thích ngủ sớm dậy trễ, bốn là ưa mời thỉnh khách khứa, năm là thích kết giao cùng kẻ xấu, sáu là ham thích việc giết hại, lừa gạt, dan díu vợ người. Nếu có thể trừ dứt sáu việc ấy, đó là lễ lạy sáu phương.
“Nếu con không trừ được sáu việc ấy thì sự lễ lạy nào có ích gì? Lại còn lan tràn tiếng xấu, việc nhà rối loạn, tiền của tiêu tốn, thân thể yếu đuối, gầy còm, việc lành ngày càng mai một, kẻ xa người gần không còn ai kính trọng!
Phật lại bảo Thi-ca-la-việt: “Bảo con lễ lạy phương Đông là có ý nghĩa phụng dưỡng cha mẹ...
“Lễ lạy phương Nam là có ý nghĩa người học trò phụng sự thầy...
“Lễ lạy phương Tây là có ý nghĩa vợ chồng đối đãi nhau theo lễ…...
“Lễ lạy phương Bắc là có ý nghĩa trong sự giao tiếp cư xử với thân thuộc, bạn bè, đôi bên... “Lễ lạy phương dưới là có ý nghĩa người chủ và kẻ giúp việc cư xử với nhau trên tinh thần trách nhiệm... “Lễ lạy phương trên là có ý nghĩa bổn phận của người cúng dường các bậc sa-môn, thiện tri thức. Nếu không làm được như vậy, dù lễ lạy cũng là vô ích.”
Bấy giờ, Thi-ca-la-việt liền xin thọ trì Năm giới, ân cần lễ bái Phật...
Lần đầu tiên Thi Ca La nghe được giáo nghĩa sâu xa việc lễ lục phương, thầm nghĩ kể cũng LẠ.
***
Suốt 45 năm khuyến giáo đồ chúng, hầu hết đệ tử của Ngài phát xuất từ Bà La Môn giáo; Một tôn giáo nặng đa thần, có đệ tử xuất thân từ Hỏa thần giáo, cũng có vị là Phiếm thần giáo... thế nhưng, họ đều lấy làm lạ trước một giáo pháp chưa từng có trong xã hội Ấn lúc bấy giờ. Phật dạy: “Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”. Một tuyên ngôn bình đẳng giai cấp trong xã hội bị ràng buộc 4 giai cấp một cách chặt chẽ mà tu sĩ, tôn giáo và quần chúng buộc phải chấp hành, kể cũng Lạ. Cái Lạ nữa là ngoài 1,250 Tỳ Kheo trực thuộc Tăng đoàn thân cận Phật, còn vô số sa môn, rải rác khắp thôn xóm, núi rừng, đa phần tăm tắp nghiêm trì giới luật, oai nghi tế hạnh làm nổi bậc khác hẳn giữa các đạo sĩ của các tôn giáo đương thời Chính vì do thân hành nghiêm túc mà suốt 12 năm đầu, chưa có vị Sa môn nào phạm luật, Phật chưa giáo giới. Năm thứ 13, có hiện tượng pháp hữu lậu xuất hiện, Tăng đoàn ít có phần chứng đắc giải thoát, ngài Tu Đề Na là vị Tăng đã trở về với gia đình sống chung vợ con như lúc chưa xuất gia, từ đó đức Thế Tôn mới chế giới, áp dụng cho vị nào phạm giới để thanh tịnh hóa Tăng đoàn và trang nghiêm giáo đoàn, làm chỗ dựa cho chư Thiên và loài người. Cho nên, Hán tạng gọi là “Thập cú lợi”, Pali gọi là “Thập lợi”. Mười điều lợi đó là:
1. Chỉnh đốn Tăng già
2. Làm cho Tăng hoan hỷ
3. Khiến cho Tăng được an lạc
4. Giúp ngời chưa tin sanh lòng tin
5. Giúp người đã tin càng thêm bền vững
6. Điều phục những người khó điều phục
7. Làm cho người hỗ thẹn được an lạc
8 Đoạn nghiệp hữu lậu trong hiện tại
9. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu trong tương lai
10. Khiến Chánh pháp trụ lậu lâu dài.
Chư Tăng phạm giới làm ảnh hưởng đến ba vấn đề tự thân người phạm trong việc tu tập, ảnh hưởng đại chúng và mất niềm tin với quần chúng:
1. Trở ngại con đường giải thoát và quả chứng
2. Tổn thương đến sự hòa hợp và an lạc của Tăng đoàn
3. Gây sự chê bai, hủy báng hay làm mất niềm tin đối với quần chúng.
Việc chế định giới luật là điều tất yếu để duy trì mạng mạch Phật pháp cũng chưa có gì lạ, Một cái Lạ là lúc đương thời, Phật vừa viên tịch khi ấy, thầy Tỳ Kheo tên Bạt nan đà cũng có mặt, chợt phát biểu: “ Lúc này chúng ta nên vui mừng chứ sao lại khóc lóc như thế. Như Lai đã nhập diệt rồi, khỏe, chúng ta từ nay được tự do khỏi bị câu thúc hay ức chế gì nữa, muốn làm gì thì làm, mặc sức.”. Nghe những lời vô trí của Tỳ Kheo ấy, tôn giả Ca Diếp xót xa, lo lắng từ nay vắng bóng đức Đạo sư, không biết kỷ cương phép tắc của tăng chúng sẽ ra sao nữa ?Ngài bèn triệu tập 500 bậc La Hán cử ngài Ưu ba Ly trùng tụng 80 lần luật giới, toàn đại chúng nhất trí giữ nguyên không thêm bớt giới luật do đức Thế Tôn chế tác. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh mà linh động châm chước những điều nhỏ nhặt. (Luật học đại cương).
Không quy định rõ giới nào là nhỏ, nhưng qua nhiều lần trùng tụng, cả Nam và Bắc truyền đều thống nhất những giới trọng không hề sai biệt. Có một điều lạ, tuy là giớitrọng không thay đổi, nhưng trong thời gian càng xa Phật, giới trọng lắm khi bị xem nhẹ hơn điều nhỏ, cái mà linh hoạt gia giảm điều nhỏ thì giới trọng cũng bị linh hoạt gia giảm một cách linh tinh, từ đó, Ba La Di là giới mà một khi tu sĩ phạm xem như không còn giới thể của một vị Tăng, bị tẩn xuất khỏi cộng trụ giới.
Ba La Di là giới quan trọng của tu sĩ, ngày nay, việc sai phạm thường xuyên mà không thấy Tàm quý cũng là chuyện Lạ trong nhà Phật. Sinh thời đức A Nan nằm mộng thấy 7 điều chẳng lành, đem trình với đức Phật:
KINH BẢY GIẤC MỘNG CỦA ANAN
Hán dịch: Đời Đông Tấn_Thiên Trúc Tam Tạng TRÚC ĐÀM VÔ LAN
~ Việt dịch: HUYỀN THANH
A-Nan (Ānanda) ở tại nước Xá Vệ (Śrāvastī) có bẩy giấc mộng, nên đi đến thỉnh hỏi Đức Phật.
Ngài A Nan, đệ nhất đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni trong 27 năm, khi còn trú tại thành Xá Vệ, ở phía Bắc Ấn Độ, Ngài đã có 7 giấc mơ kỳ lạ:
1. Mộng thấy lửa cháy đùng đùng trên mặt nước, những cột lửa nghi ngút tận trời cao.
2. Mộng thấy mặt trời biến mất, để lại thế giới Ta Bà chìm trong bóng tối. Thậm chí không có một vì sao trên bầu trời.
3. Các Tăng Ni, Phật tử bị rơi xuống một cái hố sâu, để cho con người thế tục bước qua trên đầu.
4. Rất nhiều lợn rừng trong rừng rậm đào xới gốc cây Bồ Đề.
5. Mộng thấy A Nan đội đỉnh núi Tu Di trên đầu mà không hề thấy nặng.
6. Voi bố mẹ bỏ lại đàn con của mình.
7. Cái chết của sư tử, chúa tể rừng xanh. Những cánh hoa rơi trên xác con sư tử, tất cả thú vật đều bỏ chạy toán loạn. Không lâu sau, các con bọ bắt đầu xuất hiện trong cái xác và ăn thịt nó.
Những điềm mộng báo hiệu mạng mạch Phật pháp suy tàn sau khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn; như thế cũng chưa lạ mà lạ là các trưởng tử Như Lai chú trọng bề ngoài, chú trọng áo mão xuênh xoang, tranh đua quyền cao chức trọng, chạy chọt giáo phẩm cao quý, hãnh diện vật chất cao sang... giữa lúc quần chúng thèm đói giáo pháp; quần chúng vùng sâu vùng cao ước mong có bóng dáng Tăng sĩ hòa nhập vào đời sống bần khổ cùng họ. Sống nhờ bá tánh mà chả ai chịu khó đến với bá tánh cũng là chuyện hết sức Lạ. Còn vô số cái lạ khi PGVN được nhà nước hỗ trợ mọi mặt, phát triển bề nổi mà nội lực thiếu rèn luyện. Những bậc chuyên tu như đức Pháp chủ hay một số vị ẩn cư không đủ vực dậy những giới luật trong hàng Tăng chúng. Bản thân Ban Tăng sự dẫm chân tại chỗ, hơn 40 năm thống nhất mà Tăng sự chưa có kế hoạch chỉnh đốn Tăng già, củng cố nội lực, chưa có viện chuyên tu thực sự để có những sứ giả chân chánh ra phụng sự đạo. Phải chăng, những chức sắc trong GH không cần kiến thức, không cần chân tu,không cần giới luật, không cần năng động, miễn đáp ứng và thừa hành tốt mọi công việc được giao, đó là chuyện Lạ trong một tổ chức không còn lạ hiện nay.
Một chuyện lạ là có vài người mặc áo tu sĩ và sau đó, cả trăm thiện nam tín nữ mặc áo Lam, từ miền ngoài đến xin Lòng thương xót của Chúa ở Giáo Điểm do cha Trương đình Long quảng cáo thiếu nghiêm túc, đa phần là những kẻ không hiểu Phật pháp, không có trình độ hiểu biết, trong khi, trước 1975 cũng như sau này, nhất là Làng Mai, một số tu sĩ khác đạo có trí thức, vẫn lặng lẽ quy y nhà Phật mà chả ai làm rùm beng, kể cũng Lạ.
Thế thì chả Lạ gì những hiện tượng bất bình thường trong PG để rồi quần chúng bức xức bêu rếu những tà sư giả danh làm ô nhục nhà Phật. Chư Tăng tùy nghi linh động với pháp thế gian để lấy lòng dẫn dắt quần chúng, phương tiện đó lâu dần biến thành tùy tiện bị chúng sanh dắt dẫn theo nhu cầu của họ mà không hay. Thế giới ngày nay, chánh tà bất phân, tà mạnh chánh yếu, chánh bị xem là tà, tà được xem là chánh. Tâm thế đảo điên, chính vì vậy nhiều bậc chân chánh đều ẩn thân hoặc im lặng trước làn sóng áp đảo tà tâm. Đó là chuyện lạ giữa cuộc sống được xem là không lạ hiện nay.
MINH MẪN
13/4/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét