Trước khi đi vào Bổn nguyện của Đức Địa Tạng Bồ Tát,
ta hãy tìm hiểu sơ lược lịch sử của Ngài:
Theo kinh tạng Bắc truyền, Đức Phật bổn sư chúng ta
thuyết giảng trên cung Trời Đao Lợi nói về nhân thân của Ngài Địa Tạng trước thời
xa xưa vào kỷ nguyên hóa độ của Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như
Lai.
Vốn là con trai của một vị Trưởng giả, Ngài khởi tâm
tán thán Đức Như Lai đương thời, và hỏi nguyên nhân nào Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai có được tướng hảo như vậy ?
Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai dạy rằng:
“Nếu con muốn chứng đắc thân tướng như
thế này, con phải phát nguyện độ thoát hết thảy chúng sinh. Phải cứu giúp tất cả
chúng sinh đang chịu khổ đau và hoạn nạn.”
Khi ấy, Địa
Tạng Vương Bồ Tát, với nhân duyên là con trai của trưởng
giả, đã phát nguyện rằng:
“Con nguyện từ nay cho đến vô lượng kiếp về sau, dù trải qua thời gian không
thể tính đếm, con sẽ cứu độ tất cả chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi đang chịu
khổ đau vì tội nghiệp.”
Đó là phát nguyện thứ nhất của Ngài lúc bấy giờ đang
ở thời đại giáo hóa của đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Theo phát
nguyện này, có nghĩa: : Độ tận chúng sinh được ghi lại trong phần Phẩm Phân Thân Tập Hội của Kinh Địa
Tạng.
“Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ Đề”
(Chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề)
Nội dung trên đây, có ba vấn đề cần lưu tâm: một là
–cư địa, hai là - Phật địa ba là đại
nguyện. Nơi xuất hiện đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai chắc chắn
không phải trên tinh cầu này. Kinh tạng từng đề cập tam thiên đại thên thế giới.
Trong quyển Đạo Phật và Khoa Học cũng cùng quan điểm: “Một Thái dương hệ là Tiểu
thế giới, một nghìn Tiểu thế giới là một Tiểu Thiên thế giới, một nghìn Tiểu
Thiên thế giới là một Trung Thiên thế giới. Một nghìn Trung Thiên thế giới là một
Đại Thiên thế giới, một nghìn Trung Thiên thế giới trải qua ba lần nhân với một
nghìn, nên gọi là Tam Thiên Đại Thiên thế giới”.
Như vậy trong Tam thiên đại thiên thế giới, tiền
thân của ngài Địa Tạng vương và Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai thuộc
thế giới nào, riêng cõi ta bà này thuộc địa giới của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni
giáo hóa.?
Gần ba ngàn năm trước Đức Phật đã nói đến Tam thiên
đại thiên thế giới mà khoa học ngày nay đã xác nhận vũ trụ bao la ngoài sự vận
hành của thái dương hệ này
Aristotle (384 322 trước D lịch), (Đạo Phật và Khoa
Học, trang 214) nhà khoa học kiêm triết học nổi tiếng người Hy Lạp (sau Phật 240
năm) nói: “Tất cả vạn vật đều được cấu tạo bởi Đất, Nước, Gió, Lửa; những chất
này hoạt động nhờ hai lực: Hấp lực khiến
đất và nước chìm xuống. Tính nhẹ phiêu bồng khiến gió lửa lên cao.
Trong khi đó, Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: “Vạn vật,
vũ trụ được cấu tạo bởi sáu thứ đại là Đất, Nước, Gió, Lửa, Thức đại, và Không
đại”.đã đi trước Aristotle 240 năm mà đã
có cái thấy bằng tuệ giác không thông qua phương tiện vật lý như ngày nay.
Riêng Đại nguyện thứ nhất của Ngài, xét về sự, với đại
nguyện đó có lẽ luôn chờ cho chúng sanh không còn ngài mới đắc thành đạo quả.Chúng
sanh luôn luân lưu trong 6 cõi ba đường từ vô lượng kiếp trước đến vô tận kiếp
sau; phải chăng -đó như là lời tuyên thệ sách tấn những sơ tâm cầu đạo, đức hy
sinh gương mẫu vị tha sẵn có trong mỗi con người?
Mỗi lời phát nguyện là mỗi kiếp khác nhau vào thời
giáo hóa mỗi Phật khác nhau, lần lượt sẽ trình bày bổn nguyện của Ngài
***
Một kiếp khác trên một tinh cầu do đức Phật Giác Hoa
Định Tự Tại Vương Như Lai hoằng hóa, tiền thân của Ngài là người nữ thuộc dòng
dõi đầy oai lực và phúc báu trong giới Bà La Môn, mẹ Ngài lại không tin nhân quả
tội phước, phạm nhiều ác nghiệp;quả báo không tránh khỏi,Ngài làm bao nhiêu phước
lành đều hồi hướng cho mẹ.Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định
Tự Tại đã cho biết là mẹ của Ngài đã được
ra khỏi địa ngục và thoát hóa về cõi trời. Vô cùng hoan hỷ trước tin ấy, Ngài
đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị
lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm
cho chúng đó được giải thoát.”
Theo luật nhân quả, phước ai nấy hưởng, tội ai nấy
chịu, với lập nguyện của tiền thân Ngài như vậy có ngược với luật nhân quả?
Làm tội , khỏi cần tu, sau đó thân nhân cứ tụng
kinh, bố thí, cầu nguyện sẽ thoát tội chăng ?
Nghi lễ, cầu siêu, sám hối, mọi công hạnh làm lành
là một năng lượng.Ngay cả sóng biển, thủy triều, gió, mọi động lượng đều tạo ra
một năng lượng. Hoạt động cơ thể cũng đều
tạo ra năng lượng.Khác nhau là biết sử dụng năng lượng thế nào cho thích hợp.
Ví dụ năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng
sóng biển, năng lượng địa nhiệt…khoa học đã biết tận dụng phục vụ cho mọi tiện
nghi trong cuộc sống. Thế thì năng lượng
tự thân do vật lý và tâm thức sản sanh, điều hướng đến thiện lương sẽ nâng cao
nhân cách và tâm thức, ngược lại nếu hướng đến tiêu cực thì sẽ dẫn đến u trược trầm mịch thiếu trí tuệ.
Trong nội thể, tim gan tỳ phế thận mỗi cơ phận mang
một tố chất tương sanh hoặc tương khắc. Nếu quá nóng giận, sẽ tổn thương cho
gan, còn ảnh hưởng những cơ phận khác như sản sinh ra chất catecholamine tác hại
hệ thần kinh, đường huyết tăng từ đó axit béo độc tố hại cho gan.Các trạng thái
tâm bất bình thường như hỷ nộ ái ố… cũng đều ảnh hưởng nội tạng như thế.
Một trạng thái tâm tiêu cực đều ảnh hưởng chung cho
nội tạng khiến người mau già.Từ đó cho ta hiểu rằng, tâm thái tích cực sẽ đưa đến
chiều hướng ngược lại.Người tập thể dục có thể lực to khỏe nhưng tâm thái tiêu
cực vẫn mau đưa đến già nua hơn người không tập thể dục (vấn đề này sẽ bàn ở phần
khác).
Người làm chủ cảm xúc hay hành giả tu Thiền đều sản
sanh ra những năng lượng tích cực, ngũ tạng trong cơ thể ít bị tác động bởi
năng lượng tiêu cực.
Người thường đã thế thì một hành giả, một bậc Thánh
làm chủ thân tâm, làm chủ sanh tử, sản sanh ra nhiều năng lượng tích cực thông
qua các dạng nuetron, quark, proton…mà y
cụ khó kiểm soát khi thử nghiệm, lẽ nào nguyện lực không thành sự thật!
Những hành giả Yoga có thể chôn vào đất, ngâm vào nước…nín
thở, cho tim ngường đập trong thời gian rất lâu, máy móc theo dõi mọi họat động
trong cơ thể đều ngưng, chỉ có não bộ siêu âm kim giao động rất yếu.
Thế thì những năng lượng do tâm tác động qua quá
trình tu luyện biến thành năng lực đạt được như thế hà huống những bậc có tâm
nguyện vị tha to lớn của Bồ Tát, Thánh nhân, minh sư lẽ nào không đủ hóa giải
nghiệp lực cho một đối tượng như thân quyến?
Nhân quả nghiệp ai nấy lãnh phước ai nấy hưởng là
nói với phàm phu,do nghiệp lực như nhau không ai độ ai ai, không ai lãnh nghiệp
cho ai. Thánh nhân độ những ai có duyên –thì chắc chắn sẽ hóa giải duyên nghiệp
như lời nguyện của các Ngài.
***
Trong vô tận thiên hà vũ trụ nằm trong tam thiên đại
thiên thế giới, đã có một cõi Phật đang hoằng truyền pháp lạc cho người dân
trong quốc độ của ngài, đó là đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai.
Đương quốc có một vị vua rất nhân từ, thương dân như
con, vì phần lớn người dân không hiểu đạo đức, làm nhiều điều ác nghiệp, tạo lắm
tội duyên, vị vua biết vậy bèn khởi lòng từ , phát nguyện:
“ Tôi chưa độ cho những người tạo tội đau khổ đến chỗ
an vui giải thoát, tôi nguyện chưa thể thành Phật”.
Kiếp thứ tư, đời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài
Địa Tạng mang thân nữ có tên Quang Mục,mẹ của Ngài là người rất ác, tạo vô số
nghiệp xấu; khi mạng chung bà đọa vào địa ngục.Sinh thời Quang Mục tạo nhiều
phước báu,tu nhiều công đức,trong đó đã cúng dường cho một vị A La Hán, vị
Thánh Tăng này cho biết mẹ cô đã sanh lên cõi người.Tuy vậy phải sanh vào nhà
nghèo, lại bị chết yểu…vì thương tưởng mẹ
và chúng sanh nên đối trước đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai phát nguyện:
“Từ nay về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các
hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt
chúng sanh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và
ngạ quỉ, v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau
tôi mới thành bậc Chánh Giác.”
Qua bốn lần sanh vào gia quyến dòng tộc danh giá, làm vua chúa,dòng
dõi Bà La Môn, thân nam, thân nữ; vào thời các đức Phật khác nhau, gieo trồng
nhân lành khác nhau, phát đại nguyện vì những đối tượng khác nhau nhưng cùng
chung một mục đích là vì sự khổ đau đọa lạc của chúng sanh.
Đại nguyện phát khởi của Ngài do tướng hảo của Như
Lai và do tâm hành ác của chúng sanh. Từ tánh tướng đi vào đại nguyện.
Riêng chỉ một lần duy nhất vì ngưỡng mộ hảo tướng của
đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Như Lai mà phát đại nguyện.Nguyên nhân hảo tướng của đức
Sư Tử Phấn Tấn ngầm cho ta hiểu:
Tướng tự tâm sinh. Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp
biểu hiện phước đức vẹn toàn. Kết tụ những tố chất toàn thiện không chỉ một đời.
Khi tiền thân ngài Địa Tạng được đức Phật hướng dẫn hạnh đức phải độ thoát tất
cả chúng sanh nên đã phát đại nguyện.
Một nhân thân toàn vẹn nội hàm và tuệ trí toàn thiện,
ngoại hành phước đức song hành,nhân như vậy, quả chắc chắn sẽ đến.Độ thoát tất
cả chúng sanh trong tự thân nghiệp thức chắc chắn sẽ đắc thành đạo quả phước tướng
Như Lai.
Kinh Di Giáo của Phật lúc sắp nhập Niết Bàn từng dạy:
“Tỳ-kheo các ông! Sau khi ta nhập diệt, nên tôn trọng, cung kính đối với giới
luật, như ở chỗ tối tăm được thấy ánh sáng; như người nghèo được của báu. Nên
biết rằng giới luật là thầy của các ông, cũng như ta đây còn trụ thế, không hề
khác biệt.”
Giới luật là căn bản đưa đến định và tuệ.Có giới
sanh định có định sanh tuệ, có tuệ mới đưa đến giải thoát tức đã độ không còn
chúng sanh nào trong ngục tối nghiệp thức của mỗi hành giả.
Đại nguyện của đức Địa Tạng cũng là hạnh nguyện của
mỗi hành giả trên bước đướng thoát Tam giới gia.
MINH MẪN
19/02/25 (còn tiếp)