Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

ĐÔI BỜ KẾT NỐI


Nghi kỵ, chia rẻ, lòng tham đem lại bao khổ đau bởi chiến tranh, các Tôn giáo chưa đủ năng lực cảm hóa lòng người, mặc dù Tôn giáo có mặt trong nhân loại từ hàng ngàn năm qua, nhưng Tôn giáo vẫn còn khép kín trong phạm trù Tín ngưỡng, phục vụ tín lý, tôn sùng niềm tin, bỏ quên cộng đồng sinh hoạt xã hội.

Hòa nhập không bị hòa tan là một đặc tính của Tôn giáo. Sắc thái Tôn giáo luôn là biểu tượng trong không gian. Tháp nhà thờ cao trong bầu trời là tâm hướng thượng, mái chùa quê thầm lặng sau lũy tre làng là thu mình hướng nội nhìn lại chính mình.Thanh âm lảnh lót chuông nhà thờ như vang vọng vinh danh Thượng đế, âm ỷ tiếng chuông chùa là đà len vào thôn xóm như đánh thức tình người.

Con người mãi tô bồi cho hình thức lý tưởng, say mê thực dụng quên nhiệm vụ Tôn giáo khi đến trần gian, xa dần xa dần lời khấn nguyện lúc chịu phép thụ phong chức sắc, “ khấn nguyện trọn đời chịu nghèo khó” nhưng khó mà nghèo; quên lý tưởng phát tâm khi xuống tóc bước vào cửa Phật: “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn..”nhưng khó mà độ chính bản thân, phiền não sân hận hơn thua tràn đầy nhục thể!!!...chính là yếu tố đánh mất lý tưởng ban đầu, xây bức tường ngăn cách giữa Tôn giáo và xã hội.

Mua bó rau vài chục đồng vẫn trả giá, biết đâu là công sức người trồng và người bán chẳng đáng giá bó rau; bức tường vô tình vì quen sự tính toán đã ngăn cách  cảm thông với nhau, thì chả trách xã hội giàu nghèo vẫn còn quá cách biệt tình người.

Những chuyến từ thiện từ Nam ra Bắc dang tay cứu giúp đồng bào cơ  nạn là nền văn hóa giao tiếp cảm thông, phá tan bức tường ngăn cách vô hình; nghèo  cảm thông nghèo từ miền Tây sông nước thì sá gì chiếc cầu kết nối hai bờ.

Chùa thường xây cất bất cứ nơi đâu, không giành riêng cho một khu vực có tín đồ, thường hòa hợp với cộng đồng đa Tôn giáo, làm từ thiện bất cứ nơi nào, không phân biệt Lương giáo; thể hiện văn hóa giao tiếp từ lúc đạo Phật có mặt.Cầu xây dựng trước nhà thờ Công giáo không những kết nối hai bờ mà còn kết nối tình người giữa hai tôn giáo từ lâu chưa có sự giao tế tương thân

Miền Tây sông nước, bao tấm lòng vượt khó mương rạch, làm nên cầu kết nối hai bờ.

Các đoàn từ thiện nơi phố thị, trong đó có chư Tăng tổ chức, đặc biệt, cây cầu hình thành bằng tấm lòng hiện hữu ngay trước cổng giáo đường Công giáo,nơi miền sâu, vùng xa hẻo lánh.

Đức Tổng Giám Mục Tổng giáo phận Sài gòn Giuse Nguyễn Năng chia xẻ trước các chức sắc Tôn giáo: Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo, nhân sỹ trong buổi họp mặt, ca ngợi trước việc làm của một Thượng Tọa.

Cuộc sống, quá khứ cũng như hiện tại trong xã hội ta,tình cảm đã bị chia cắt  trong một số ít người sùng phụng Tôn giáo. Chiếc cầu là một biểu tượng không những vượt qua sự ngăn cách địa lý mà còn xóa tan thành kiến trong tình người; biểu tượng lòng nhân ái, sự bao dung với tâm vô phân biệt của người con Phật.

“Đức cha Phan xi cô kêu gọi xóa tan bức tường ngăn cách vô hình, hãy xây một nền văn hóa gặp gỡ, hãy xây một cây cầu đừng xây bức tường ngăn cách chúng ta!làm tê liệt chúng ta, giết chết chúng ta…”

Những tâm hồn thoáng đạt, chân chánh tràn đầy tình người, thường xóa tan tính đố kỵ, ngờ vực; “lạy Chúa từ tôn, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”

Tôn giáo là một tình người. –“Chúa ở cùng anh chị em”, có nghĩa trong anh chị em đều có Chúa; Phật giáo nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Ngôn ngữ tuy khác bản chất cùng đồng.

 Thập kiết sử trong Phật giáo dạy rõ những hạt giống làm cho ta đọa lạc, ngăn cách chia rẽ anh em; người tu là người buông xả bản ngã, hòa hợp với đồng loại, hòa nhập với thiên nhiên. Cái vô ngã cao quý Phật dạy, do nghiệp lực chúng sanh biến thành bản ngã to lớn, làm nên bức tường vô hình ngăn cách, nhìn nhau bằng cặp kính đa màu .

Thánh Phan Xi Cô hiện thân sự nghèo khó hòa mình với đời sống cơ hàn thì Phật giáo buông xả để hiển lộ Chân Như Phật tánh, phá tan bức tường ngăn cách giữa mình và vạn loại.Một hình thức kết nối hai bờ Mê – Vọng; chiếc cầu của một Thượng Tọa xây dựng trước cổng nhà thờ Công giáo là một biểu tượng hiện thực vào đời sống, ĐÔI BỜ KẾT NỐI,,không lạ!

 

MINH MẪN

21/12/2024

 

 

Thứ Năm, 12 tháng 12, 2024

CÙ LAO THÚ VỊ


Ngày 7 và 8 tháng 11 năm Giáp Thìn, cũng trùng ngày dương lịch tháng 12 năm 2024, chùa Liên Trì thuộc ấp Đông Thạnh,xã An Thái Đông,huyện Cái Bè,tỉnh Tiền Giang tổ chức húy kỵ Tổ khai sơn cùng chư tiền hiền liệt tổ truyền thừa duy trì và phát triển ngôi Tam bảo đến hôm nay.

Chùa  hiện tại do thầy Tịnh Huệ trụ trì, thầy Tâm Thông thừa nhiệm quản lý, chăm sóc mọi sinh hoạt trong tự viện. Tuy nằm trên vùng đất bốn bề bao quanh sông nước, dù bị cô lập về địa lý, nhưng sinh hoạt của người dân nơi đây được kết nối  đất liền bằng ghe đò, xuồng máy.

Chính do bị cô lập trên vùng đất được xem là hòn đảo lớn, chùa nhìn ra sông, hướng mặt trời lặn, yên ả lạ thường.Tuy không phải là cổ kính, cũng chả mang dáng dấp kiến trúc tân thời nặng nề như các ngôi Tam bảo nơi phố thị rộn ràng.Những chú tiểu quê vẫn ngày cắp sách đến trường, ngoài giờ, được cô Mỹ Hiền hướng dẫn thêm Anh ngữ .Tăng phong đạo cách nơi đây được quần chúng ngưỡng mộ tôn kính.

Trang trí ngoại điện đơn giản, hoa đèn, quả vị,thực phẩm khá sung túc mang hương vị miền quê. Quần chúng địa phương quy tụ chật cả khuôn viên mà ngày thường, vườn cảnh hoa viên vẫn không phủ lấp sự trống trải sân chùa.

Bến sông trước mặt chùa, khi trời lặn, bên kia sông xóm nhà là một khối sương mờ được viền sáng bởi bóng chiều tà, phản chiếu dưới bóng nước tạo thành thế giới đảo ngược hư hư thực thực, tương thích với thế giới ảo ảnh trên không gian tâm thức.

Âm thanh đại Hồng chung sáng chiều lướt mặt sóng vươn xa, nhẹ nhàng len vào từng thôn xóm, báo hiệu sinh hoạt một ngày bắt đầu hoặc chấm dứt một ngày lao động; chim chóc cũng rời tổ tìm mồi hoặc bay về ủ ấm bầy con chờ hơi ấm.

Liên Trì mang dáng dấp chùa quê thời bình, xóa nhòa vết loan thời chinh chiến mà tiền hiền liệt Tổ ra công dựng xây.Những lễ hội đánh thức năm tháng đã chìm lắng cho người dân trên vùng đất cù lao còn nhớ những tháng ngày bon chen với cuộc đời vẫn còn có một góc tâm linh mang hồn dân tộc trên quê hương.

Trong thời kinh tế thị trường báo hiệu nhiều khó khăn, người dân khắp nơi, kể cả xa xôi như Bà Rịa Vũng Tàu, TP Ho chi Minh, các tỉnh lân cận  vượt khó, có mặt góp vui cho lễ hội.Cuộc sống cho dù thế nào, đức tin cũng không hề suy giảm.Dân địa phương, một số anh em chạy vòng ngoài, đưa đón khách Tăng rất nhiệt tình.

Ngoài số phẩm vật tín đồ các nơi dâng cúng, đặc biệt, gia đình bác Tư Tây ( còn gọi là bác Tư Liên),ở xã Mỹ Lương hai người con gái, con dâu cũng nhiệt tình phục vụ.

Một cuộc lễ trang nghiêm, không kèn trống ồn ào, thật đáng nhớ.

                                                      ***

Một đêm trú lại chùa quê, sân sau nhộn nhịp lửa hồng,bóng người làm bếp như  ong vỡ tổ. Trên căn gác hẹp, chư Tăng đàm đạo những tháng ngày chưa được mở lòng; từng nhóm nhỏ chia nhau tâm sự.

HT Hoằng Nghi, tuổi ngoài 80,đệ tử của cố HT Trí Tịnh, có tầm nhìn khá thoáng, ngài quan niệm: “chùa có chi sống nấy, không vận động xin xỏ, không nhận của bá tánh quá nhiều, tiền có thể nhận chút ít cho dân vui, không quá  mười ngàn đồng, không tích lũy. Xưa kia chư tổ tự túc cuộc sống mà vẫn tu chứng đắc; HT Phổ Tuệ, pháp chủ mà vẫn ra đồng cày cuốc, uy đức rạng rỡ, ,tuệ trí hơn người. Cổ đức thường khuyên – thâm tín chư Phật giai sung mãn, chỉ sợ mình không lo tu chứ đừng lo đói. Người thật tu, không giàu có nhưng chẳng đói bao giờ. Chính lo làm giàu, lo tích lũy, BON CHEN DANH LỢI TÌNH nên nội lực suy giảm, đánh mất chơn tâm, hiện tướng phàm tục mới bị quần chúng chê trách.”

Một xã hội, một tập thể bị nhuộm đen thì ai cũng như ai, không có một điểm sáng.Trong tăm tối ấy bổng xuất hiện một hiện tượng khác thường, không bị ô nhiễm, tức nhiên do bảo thủ bản ngã, óc đố kỵ phát khởi, cảm thấy bị xúc phạm không đồng bản chất, liền chống đối không chấp nhận, cho dù hiện tượng đó có tốt cách mấy.Trong rừng hoang, một con khỉ lạ xuất hiện, bầy khi rừng sẽ tấn công đối tượng lạ, đó là chuyện thường!

Nói như thế không phải hầu hết, cũng có những tâm hồn thoáng đạt, biết nhìn và chấp nhận cái hay, cái tốt của một hiện tượng mà chính mình không làm được, nhưng quá ít những vị cầu tiến.

Thành hội Thành phố, Giáo hội thường có  khóa tu 10 ngày tại Việt Nam Quốc Tự cho chư Tăng ni, bồi dưỡng trụ trì hầu chỉnh đốn Tăng phong đạo cách, lấy lại uy tín cho tu sỹ. Liệu đạt bao nhiêu phần trăm nếu tu sỹ không tự mình hướng nội phản quang??? Xưa kia, chưa có các trường Phật học, chưa có Tiến sỹ, cử nhân..lớp gia giáo trong chùa, thầy dạy cho đệ tử, ngoài kinh điển còn oai nghi Tăng cách, khi ra trụ trì quý thầy xứng đáng là bậc Thiên nhân sư, nhờ vậy mà trải qua bao thời cuộc thăng trầm, mạng mạch Phật giáo vẫn tồn lưu.

 Ngày nay, một vị Tiến sỹ sau khi du học về, thường phát ngôn lệch lạc, thiên về thế học, nặng về duy lý tục đế, lạc dẫn giáo lý, kinh điển, suy diễn theo hiện tượng;  cơn đau của đức Phật sau khi ăn tô cháo nấm chân heo của Thuần Đà, một tiến sỹ bảo là đức Phật bị ung thư bao tử, Tiến sỹ khác tốt nghiệp từ Đài Loan bảo La  Hán vẫn còn mộng tinh, Tiến sỹ khác xuất thân từ đại học Nalanda bảo La Hầu La con của thái tử Tất Đạt Đa lấy tên từ sao La Hầu…còn nhiều vị do thu nạp kiến thức một chiều, nặng về  thế trí nên suy diễn quá xa kinh điển.

Khoa bản, học vị trở thành danh ảo thời đại. Đức Phật, chư tổ không có một bằng cấp, thậm chí không biết chữ như lục tổ Huệ Năng đều là nhân tố trường lưu Phật pháp gần ba ngàn năm qua.Nếu ta viết: TS Huệ Năng, TS Thich Ca, TS Ananda, TS Ca Diếp…nghe vướng tai thì ngày nay hai chữ Tiến sỹ đứng đầu họ Thích đã trở thành hãnh diện, cho dù bằng TS mua, TS thuê viết, TS danh dự…

Một vị từ nước ngoài về quê thăm thầy, hãnh diện giới thiệu: “con đã tốt nghiệp Tiến sỹ ngành Tôn giáo học. Thầy nghe xong , hỏi lại – thầy tốt nghiệp TS vậy đức Phật tốt nghiệp bằng gì?

Xã hội phát triển, con người phát triển, đương nhiên tôn giáo cũng phải phát triển tương thích với kiến thức thời đại. Phật giáo không thể theo nếp gia giáo xa xưa. Việc cập nhật kiến thức để triển khai giáo lý chứ không phải đi ngược lại kinh điển. Muốn không bị thế học và thế trí lạc dẫn, tu sỹ cần hướng nội hành trì để duy trì giềng mối đạo đức và trí tuệ. Thuần về kiến thức thế gian sẽ đi vào vết xe DANH-LỢI-TÌNH mà vô số người đã sa ngã, tức Phật pháp suy đồi như hiện nay.

                                          ***

Một HT cao niên miền Tỉnh trải qua nhiều thờii kỳ, un đúc nhiều kinh nghiệm giúp cho Tăng trẻ có một định hướng, nhưng liệu những kinh nghiệm đó đủ lay động thế hệ Tăng ni ngày nay, không những bị cuốn hút vào đời sống thực dụng, còn bị ràng buộc trong một tổ chức nặng về pháp lý và hành chánh, thời gian đâu để phản tỉnh quy chân?

Giữa đêm trường, lời tâm sự của bậc chân tu cao niên, giữa rộn ràng lễ hội, giữa không gian miền quê bao la, như những hạt mưa trong mùa khô hạn lọt thỏm trên giòng sông vây quanh, vẫn là đêm trên một cù lao thú vị, đáng nhớ!

 

MINH MẪN

12/12/2024

 

 

 

 

 


Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

TÂM TƯỞNG


Tâm tư và suy tưởng, đó là cái hiểu thông thường của một số người.

Tâm là một đại dương, tưởng là một đợt sóng.

Tướng tự tâm sinh, tướng tùng tâm diệt.

                                                      ***

Con người do tập nghiệp quá khứ đúc kết như một bản năng. Ví dụ con trẻ chưa đủ trí khôn, mọi đi đứng ăn nói, phản ứng hành động không do ý thức chủ động mà do tập khí được huân tập từ quá khứ trong tâm thức, do ảnh hưởng Gen di truyền của dòng tộc, và ảnh hưởng nếp sinh hoạt chung quanh.Lớn lên được giáo dục học đường, do tập quán xã hội, tiếp thu một số kiến thức trong cuộc sống, bắt đầu biết suy nghĩ, có hành động theo ý thức, từ đó nhân cách, hành động, nói năng dần dà thay đổi so với tuổi thơ.

Mạnh Tử,là người xiển dương  tư tưởng học thuyết của Khổng tử cho rằng “nhân chi sơ tánh bổn thiện”

Trái lại Tuân Tử, cho rằng :”nhân chi sơ tánh bổn ác”.

Thực ra Thiện và Ác không phải tuyệt đối do nhân chi sơ mà do hạt giống trong tiềm thức lưu trữ, cái nào mạnh nó phát tiết ra trước. Trong con người luôn tồn tại cả thiện và ác, khác nhau là cái nào nhiều hơn và mạnh hơn.Chỉ xuất hiện trong môi trường thích hợp. Nếu tính ác nhiều hơn, sống trong môi trường thiện lương, không có cơ hội cho nó phát triển và được giáo dục đạo đức thì mầm mống ác sẽ không có cơ hội phát xuất, đôi lúc chúng được chuyển hóa trở thành  lương thiện.Truyện tích trong nhà Phật có đề cập đến chàng Vô Não tìm giết cho đủ 100 người để lấy ngón tay làm xâu chuỗi đeo, gặp được Phật cảm hóa, đã thánh hóa đời Ngài, và tu đắc đạo.

Nhà vua Asoka từng Đông chinh phạt Bắc, sát hại vô số sanh linh để mở mang bờ cõi, nhưng sau khi biết đến đạo Phật, tính ác đã chuyển thành cực thiện, biết bố thí, phóng sanh, xây tháp thờ Xá lợi Phật, gửi cho con trai độc nhất xuất gia để đi truyền  đạo về phương Nam. Lịch sử truyền Phật giáo Nam tông đã có dấu ấn của Ngài.

Như vậy vấn đề Thiện và Ác chỉ là gợn sóng được hình thành và tích tụ trong một môi trường nhất định, môi trường nào thuận lợi cho một tính chất để phát triển thì hạt giống đó đậm đặc hơn.

Trở lại vấn đề Tâm Tưởng, đạo học Đông phương thường cho Tâm sanh Tướng.Trẻ con từ sơ sinh đến 10 tuổi, tánh tình, hiểu biết như cây non phát triển tự nhiên; từ 10 đến 20 tuổi khám phá mọi thứ, tò mò tìm hiểu và học hỏi, bắt đầu hình thành cá tính, nhân cách cũng xuất hiện, trong môi trường tốt thì nhân cách tốt, học đòi bạn xấu, thì tính xấu cũng được hấp thụ. Từ 30 tuổi trở lên, theo đức Khổng Khâu thì: “Tam thập nhi lập”,nghĩa là tuổi 30 đủ để đứng vững thành nhân cả về nhân cách lẫn sinh hoạt xã hội.Từ tuổi 30 trở đi thì: “ tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ”.Nghĩa là tuổi 40 không còn nghi hoặc vấn đề gì trong sự sống,50 tuổi đã hiểu mệnh Trời. tuổi 60 biết phấn đoán phân biệt mọi sự, tuổi 70 ý muốn không vượt khỏi khuôn khổ đạo lý.

Đó là quan niệm theo đạo học phương Đông, để có được mẫu người sống:”thuận Thiên giả tồn” đạo đức phải làm đầu. Đạo đức ngoài vấn đề giáo dưỡng cũng cần tư duy. Tư duy theo chiều hướng nào thì hạt giống ăn sâu vào tiềm thức sẽ tạo thành nhân cách đó.

Tưởng là hoạt dụng của tâm thức, là một phần của tư duy.Suy nghĩ luận giải một chủ đề cần đến tư duy; tưởng không thuộc luận giải, thuộc giả định. Ví dụ nhìn cuộn dây cứ tưởng con rắn, nhà Thiền gọi thất niệm cùng loại vọng tưởng. Tâm lan man thiếu tập trung là vọng tưởng.Người tu là người cần tập trung, cần định lực, do đó vọng tưởng là một chướng ngại. Càng nhiều vọng tưởng càng gieo vào tâm thức nhiều hạt giống bất định. Người hoang tưởng thường do vọng tưởng hoạt động mạnh.

Người bình thường thiếu tập trung  cho một công việc sẽ khó thành công, không đạt kết quả; một hành giả nhiều tưởng thức dễ đưa đến tẩu hỏa, hoang tưởng,bị lạc dẫn vào cảnh giới siêu thực. Tưởng thức là loại ma tâm, tần số tâm thức bị loạn nhịp hợp với tần số âm ngoại biên dẫn đến bất bình thường. Người không bình thường do hoang tưởng hiển lộ ra gương mặt, cặp mắt, hành động.Một người thiếu thiện cảm với ta, tuy không thể hiện ra hành động hay lời nói, ta vẫn cảm nhận được. Như vậy tưởng là loại năng lượng bao phủ quanh ta; tạp tưởng thì khó phát hiện, tưởng thức mạnh sẽ hiển lộ rõ nét.

Tâm tưởng đóng vai trò quan trọng nên gọi là tâm sanh tướng. Thiện ác, chánh tà,vui buồn …đều hiển lộ ra bên ngoài. Người giàu lòng từ bi, hiền lành, đạo đức luôn chiêu cảm người và vật chụng quanh, đó là năng lượng nội tại.Một năng lượng nội tại được dẫn dắt bởi tâm tưởng  thiếu chính đáng, không trong sáng là hạt giống kết tụ thành nhân cách và tướng mạo về sau.

Tâm tưởng tuy không thấy nhưng là một mãnh lực vô hình.Một người tâm địa không tốt, sau khi hoàn lương, tướng mạo cũng thay đổi. Một vị sau một thời gian tu tập, thần sắc tướng mạo cũng khác xưa.

Tướng mạo phản ảnh sức khỏe, nội tâm. Người luôn bất mãn với mọi thứ thì cuộc sống luôn cảm thấy khó khăn,mặt mày cau có, ngược lại, với tâm hồn trong sáng, nhân hậu thì cuộc sống cảm nhận được nhẹ nhàng, dễ thân thiện và gần gũi. Sự đau khổ trên gương mặt hay nhân dạng, tố cáo một tâm hồn bệnh hoạn mệt mỏi.

Tướng mạo là thừa hưởng tính di truyền, nghiệp lực,cọng thêm ảnh hưởng giáo dục từ gia đình và xã hội , đến thời điểm có ý thức sẽ hoàn chỉnh một mẫu người hợp với những yếu tố cấu thành.

Một tâm hồn lạc quan, vui vẻ, cơ thể sẽ tiết ra các loại hormone lành như endorphin và serotonin  giúp làn da hồng hào và khuôn mặt rạng rỡ hơn. Nếu cảm xúc luôn tiêu cực, lo âu,căng thẳng, phiền muộn sẽ xuất hiện nhiều nếp nhăn, khuôn mặt mệt mỏi già nua!Như vậy tướng mạo liên hệ đến đời sống tinh thần mà tâm tưởng đóng vi trò quan trọng.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: “Ngay cả khi chúng ta tiếp cận với những vấn đề khó khăn bằng một nụ cười, vấn đề sẽ trở nên dễ chịu hơn. Chúng ta sẽ ít gặp rắc rối hơn. Nếu các bạn nghiêm trang quá, các bạn chỉ đối diện với nhiều khó khăn hơn mà thôi”

Khi một phóng viên đề cập đến Tây Tạng bị khống chế, ngài vừa khởi cảm giác  bực bội, liền sau đó ngài hối hận:
“Tranh giành quyền lực, Ngài nói tiếp: Thật là xấu hổ cho trò chính trị nhỏ mọn. Cảm giác bực bội«. Ngài nói tiếp một cách nghiêm trang, »Thực ra nó không là gì cả. Khi tôi nghe về sự đàn áp dã man, về sự kỳ thị với dân Tây Tạng, thì dĩ nhiên, trong một thời gian ngắn, tôi thấy mình có chút cảm giác khó chịu, chút nóng giận, nhưng cảm giác ấy đến rồi đi. Có thể giải thích như thế nầy: Bản tâm ta ví như đại dương, thỉnh thoảng gợn lên vài cơn sóng vọng tưởng, như cơn giận chẳng hạn, nó đến rồi đi. Nhưng sóng vọng tưởng ấy chẳng ảnh hưởng gì đến bản tâm. Đó là nhờ tư tưởng Phật giáo và nếp sống văn hóa Phật giáo.

                                                            ***

Mỗi Tôn giáo, mỗi pháp hành đều có phương cách đem lại bình an, nhẹ nhàng và trong sáng cho tâm hồn. Ngoài pháp hành như Thiền định, còn cần có một thể lực khỏe mạnh thông qua ngủ nghỉ đủ giấc, tập thể dục, giải trí lành mạnh. Sống với thực tại, tránh nhiều hoang tưởng, vì tưởng là không thực, gieo vào tâm thức hạt giống tiêu cực.

Đức Đạt Lai Lạt Ma tâm sự: Lời kinh tôi thích nhất là: “Hư không thế giới vô tận, nỗi khổ đau của chúng sinh cũng vô tận. Con nguyện hiện thân ở đây để đem lại sự an vui lợi ích cho tất cả mọi loài”.

“Bài kệ nầy ban cho tôi sức mạnh. Thế nên, dù nếu tôi có vào Niết bàn, chẳng bao lâu cũng phải tái sinh trở lại. Lúc ấy, hiện thân của tôi sẽ luôn luôn ở cõi nầy, đó là quyết định của tôi.”

                                                      ***

Phải chăng Tâm sanh Tướng, tướng cũng tác hưởng đến tâm nếu tâm không làm chủ cảm xúc, hạn chế mọi cảm thọ và ý tưởng tiêu cực

Tâm là đại dương, Tưởng chỉ là gợn sóng, nếu tưởng  bị ô nhiễm thì một góc nào đó của đại dương cũng bị vẫn đục.

 

MINH MẪN

30/11/2024

 

 

 

 

 

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

ĐỘNG HOA VÀNG – LỆ NĂM CANH


Nhắc đến “Động Hoa Vàng” không ai không biết đến nhà thơ Phạm Thiên Thư, một nhân vật vào thập niên 60 -70 tại miền Nam Việt Nam.Những nhân vật rộ nở thời bấy giờ có Tuệ sỹ, Lê Mạnh Thát, Phạm Công Thiện..trong giới Phật giáo.

Năm 1966, những năm liên tục Phật giáo miền Nam xuống đường sau khi nhà Ngô bị truất phế, các thể chế kế tục khó ổn định tình hình, chư Tăng Ni bị cuốn hút vào phong trào đấu tranh, tại chùa Vạn Thọ Tân Định, Hòa Thượng Thiện Tường được HT Tâm Châu tiến cử làm Viện trưởng VHĐ của VNQT sau khi Phật Giáo bị phân hóa làm hai nhóm : Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự, từ đó chư Tăng trú tại chùa Vạn Thọ tham gia đấu tranh đều bị tẩn xuất.

                                                          ***

Căn nhà nằm sâu trong xóm,thuộc Bà Chiểu,Phạm Thiên Thư  chọn nơi đây để cho ra đời nhiều tác phẩm đình đám, được nhạc sỹ Phạm Duy phổ nhạc, nhất là nhạc bản “Ngày Xưa Hoàng Thị”, tiếp theo là “Động Hoa Vàng,10  bản Đạo Ca,Em lễ chùa này, ngày xưa người tình…”

Chàng thi sỹ dị tướng được các cô em chiếu cố, mặc dù bấy giờ đã có Tuệ Mai (con của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải) nâng khăn sửa túi.Trong số đó có một cô quê quán Củ Chi, tập tành làm thơ,thường xuyên tới lui để nhờ Phạm Thiên Thư sửa thơ, và dĩ nhiên ngoài đam mê tài năng của chàng, cũng mê mẫn luôn “cốt cách phi phàm, dị tướng” của chàng.

Ngày xưa ấy, mỗi sáng từ chùa Vạn Thọ Tân Định, chàng dắt chiếc Mobilet, đội nón cối màu xám trắng của các cụ miền Bắc xa xưa, lưng hơi khòm, răng vểnh, thong dong lãng đãng về đại học Vạn Hạnh góc cầu Trương Minh Giảng, tham dự các chứng chỉ Phật học là phụ, tìm cảm hứng giữa cảnh nhộn nhịp của nam nữ sinh viên, từ đây đã thi hóa kinh Kim Cang, gọi là “kinh Ngọc”, được HT Minh Châu, viện trưởng viện Đại học Vạn Hạnh ca ngợi và trang trọng giới thiệu như một tài năng trẻ can đảm làm một việc chưa ai dám làm.

                                                             ***

Tuy là thời chiến, nhưng trong thành phố vẫn cứ như thời bình, chưa tùng nghe tiếng đạn bom,.vì thế, thỉnh thoảng Phạm Thiên Thư, Tuệ Mai, nhà văn Nguyễn thị Vinh, Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn kéo nhau xuống chùa lá Huyền Trang của tôi, chọn cảnh thiên nhiên nơi đây để sinh hoạt thơ văn và đàm đạo.

Trong căn phòng, ngậm ống píp, Phạm Thiên Thư thả hồn theo  khoanh khói để hồn bay bổng theo mây, nhìn chàng, Tuệ Mai ngưỡng mộ bổng thốt:’Người nhả khói trầm ngây ngất cao, người ung dung trong ánh bạch hào, Ta nâng cánh lượn vòng ưu ái, Ta yêu người như yêu trăng sao” .phụ nữ yêu là vậy, vẫn không cột trói hồn thơ của chàng, bềnh bồng theo mây, để rồi tiếp đến là những nàng ái mộ, nguyện chung chăn suốt đời, rồi chăn vẫn không đủ cho nhiều cô chung đắp.Đoạn cuối đường trần, dừng chân tại đường Hồng Lĩnh, làm chốn dung thân, bỏ lại bao tiếc nuối các hồng nhan một thuở.

“Động Hoa Vàng”và “Ngày xưa Hoàng Thị” là những tác phẩm ấn tượng cho những ai mộng mờ giữa thời chinh chiến. Những tình nhân chiến chinh đi không bao giờ trở lại, các nàng phải trở lại với ánh hào quang mộng mị một thời, từ đó, nhiều đau khổ thầm lặng của các cô thấm chất “Động hoa vàng”, để rồi vuột khỏi tầm tay, thế mới biết:”Động hoa vàng lệ năm canh, có chi trong đó mà xanh mộng vàng”

 

Minh Mẫn, hồi tưởng một thời chung sống với Phạm Thiên Thư, gần nhà thơ Trụ Vũ ở Bà hiểu.

 

MINH MẪN

01,11/2024

 

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2024

HIỆN TƯỢNG PHÁP HÀNH

 

“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.

  sao Tâm có thể tác động đến Tướng? Ngược lại, tướng cũng ảnh hưởng đến tâm không ít.

Do huân tập nhiều hạt giống tốt hoặc xấu lâu ngày trong tâm tưởng mà lộ diện; ví dụ, người nhiều sân hận sẽ lộ tướng hung dữ, khó chịu, thậm chí hiểm ác.Người xưa thường nói, nhìn mặt mà bắt hình vong. Người có gương mặt hiền từ, chắc chắn tâm địa không thể ác độc.

Đối với người bình thường là thế, không làm chủ tâm tưởng dễ bị tập khí  dẫn dắt.Một hành giả, bất cứ tu pháp nào, từ “năng lượng sinh học”, “Thủy hỏa ký tế”, “tiểu châu Thiên, đại châu Thiên” “Mật tạng”  “kỳ môn độn giáp”,“nam nữ song tu”, “khí công đan đạo”, “Đan kinh, Đạo tạng, Tính mệnh khuê chỉ, luyện đan…” “Thiền công án, thoại đầu, chỉ quán…” “ Độn giáp, tiểu ngã, đại ngã…” , “tứ niệm xứ”, “từ bi quán”,An ban thủ ý”, “minh sát tuệ”, “nhỉ căn viên thông”, “quán âm”, “thiền Đông độ”, “tiểu thừa, đại thừa thiền”… vô số pháp hành từ tà pháp đến chánh pháp tùy căn cơ chúng sanh mà xuất hiện.

Nơi đây, chỉ đề cập đến chánh pháp, nghĩa là pháp hành không thiên về lợi dưỡng, không mong cầu hiệu quả kinh tế, không xét đoán số mạng, không tiên tri vận hạn…hay không trị bệnh, cầu may, chỉ hướng đến giải thoát.

Hành giả đã chọn cho mình một pháp hành thích hợp với căn cơ, hành trì miên mật, đương nhiên kết quả sẽ đến. Thế nào gọi là kết quả?

Trải qua thời gian hành trì nghiêm túc và miên mật, không bị cuộc sống và ngoại cảnh chen vào ( không kể hành trì theo thời khóa lấy lệ), tâm định đưa đến an tĩnh, dứt được vọng tưởng (thất niệm), nhưng hạt giống kết tập nhiều đời trong tạng thức, khó mà hủy diệt. Chính những hạt giống này quấy nhiễu hành giả, hạt giống nào mạnh nhất sẽ xuất hiện trong cơn thiền định, kết hợp với định lực, chúng biến tướng đủ loại, hành giả dễ bị chúng đánh lừa.Nếu là tâm từ, chúng làm cho hành giả khởi ý thương tưởng chúng sanh, tạo năng lực trị bệnh, xem tướng, thậm chí quá độ ủy mị xót xa trước sự khổ đau của sanh chúng qua nhiều hình thức. Cũng đã có những hành giả trong lúc thiền định,mỗi lần nghĩ đến chúng sanh đều khóc ròng.

Cũng thế, tâm dục quá nặng, lúc thiền bị những hiện tướng cám dỗ đam mê xuất hiện, hành giả không ý thức để vượt qua sẽ bị dắt dẫn, nhẹ thì phạm giới, nặng sẽ tẩu hỏa đa dâm. Những tà pháp luyện ma thuật thường sa vào lối này.

Hành giả dẹp bản ngã, thập kiết sử, tưởng là vô ngã, an toàn, nhưng khi thiền định sâu, tàng thức sẽ xuất hiện vi tế ngã, nghĩa là ngã thô đã sạch nhưng ngã tế chưa tiêu. Nếu hành giả còn mơ tưởng đến cảnh giới thanh cao hay hy vọng sẽ đạt đến cảnh giới nào đó, đều lọt vào ma tưởng. Có những hành giả do công đức hành trì nhiều đời, đã đắc pháp đạt đến cảnh giới của pháp hành, tưởng là đắc đạo, trụ vào tướng đó, sẽ khó tiến đến cứu cánh.Chưa nói trường hợp hành giả nhập vào trạng thái mơ mơ màng màng của vô thức, vọng thức lạc dẫn đến cảnh giới ma huyễn.

Đường vào tâm linh đến một lúc như đứng trước ngã ba đường, không biết hướng tiến; cũng có lúc cứ như bị “treo máy”

Trong quá trình  hành trì, càng định sâu, năm mươi ngũ ấm ma xuất hiện, chỉ cần khởi ý thích thú, mãn ý, hoan hỷ hoặc sợ hải đều vấp ngay, nhẹ thì khó tiến, nặng thì tẩu hỏa.

Cái sai lầm người tu thiền mà không đọc kỷ Kinh Lăng nghiêm để thấy dạng tướng của ngũ ấm ma, dễ lạc vào tà pháp. Cái gọi là thể nghiệm qua cảnh giới tâm tưởng, có thể thật, có thể vọng.Nếu pháp hành được chân sư ấn chứng bảo hộ thì ngoại ma khó xâm nhập.Thể nghiệm được tái diễn nhiều lần giống nhau thì không thể là vọng, nhưng cũng không là tiêu chí đến đích.Dù có đắc pháp, có thể nghiệm, thậm chí sở hữu một năng lực tâm linh mà các hạt giống trần tục chưa sạch thì vẫn bị các nội ấm ngoại ma làm cho sa ngã.Có vị tuy khai tuệ nhãn, nhìn biết ý nghĩ của đối tượng, biết việc vừa xảy ra cho đối tượng, nhưng vẫn còn nóng tính, còn chấp nê…do tu pháp mà không tu tâm tính, cũng chỉ dừng lại công năng của pháp hành, gọi là đắc pháp chứ chưa đắc đạo.Người đắc đạo là không còn kiết sử, không còn vi tế phiền trược, tâm thức vắng lặng trong sáng, đạt được Niết bàn tại tâm.

Những trạng thái tâm xuất hiện qua những quả vị như Hoan hỷ địa,  Ly cấu địa …đều là công hạnh của một hành giả đạt đến tâm giới trong thập địa Bồ Tát.

Nguyên tắc cơ bản của một hành giả là không nên tìm cách triệt tiêu các tâm sở, không khống chế vọng tưởng, không để thất niệm trong lúc hành trì.

Dù hành pháp nào (ngoại trừ tà pháp), thường nhật phải chuyển hóa những tập khí tiêu cực do những hạt giống tiềm ẩn.Mỗi người có một hạt giống tiêu cực mạnh nhất, không thể kềm chế, vì kềm chế thì hạt giống đó không thể hết mà chỉ ẩn tàng, có dịp sẽ trỗi dậy; ví dụ người thường sân hận, trước nghịch cảnh thay vì bộc lộ rõ bản chất, họ kềm chế vì lý do nào đó, lúc khác có dịp nó sẽ trỗi dậy. Hành giả còn tồn trữ những hạt giống tiêu cực đó, là một chướng ngại trên con đường tiến hóa tâm linh.

Những kiết sử dù thô dù tế đều là năng lượng xấu làm trì trệ công năng của hành giả.Trong Phật giáo phân tích rất cặn kẽ các loại tâm sở mà Duy thức học đã trình bày, nó như một phân tâm học sâu sắc hơn cả phân tâm học của Sigmund Freud.

Một số pháp hành chuyên chú vào hành pháp, cho dù có đắc pháp, có sở hữu năng lực nào đó do định lực mạnh, nhưng các hạt giống của tâm sở (kiết sử) vẫn bị dậm chân tại chỗ khó tiến đến giải thoát. Trong pháp môn Tịnh độ, đới nghiệp vãng sanh,quan điểm hành giả chưa dứt sạch mọi phiền trược, mọi tập khí, vẫn có thể về cảnh giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà,trên đó tiếp tục chuyển hóa.

Từ những sai lầm của một ít người được gọi là đắc pháp, đời sống vẫn còn mang nợ máu chúng sanh, vẫn còn say sưa ăn nhậu, cái cảnh giới được đắc đó, có thể là một dạng tâm thức ở tầng song hành của thế giới vật chất, tức vẫn chưa sạch vô minh vi tế, chưa thoát vĩnh viễn sanh tử luân hồi.Tâm thức họ có thể thanh nhẹ ít nghiệp lực hơn.Tuy còn mang thân vật lý mà tâm thức đã kết duyên với cảnh giới vô hình trong tiền kiếp.

Để chuẩn bị cho con đường tiến hóa tâm linh, hành giả phải thanh lọc các chủng tử tiêu cực hàng ngày, càng thanh cao trong sáng càng tốt.Không dùng năng lực thiền định để chữa bệnh, can thiệp vào nghiệp quả của chúng sanh, mục đích tu thiền để thoát ly sanh tử chứ không phải can thiệp vào nghiệp quả của người khác.

Bản thân không tạo thêm nghiệp mới, không can thiệp vào nghiệp xấu của người, không phô bày năng lực do công phu thiền định có được, và thường xuyên kiểm soát tâm hành, hành giả ít gặp ma chướng.

Hiện tướng con người nói chung và hành giả tâm linh nói riêng luôn “tùy tâm sanh tướng” đó là pháp hành của một hiện tượng.

 

MINH MẪN

21/10/2024

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2024

KHÚC XẠ


ĐỊNH LUẬT SNELL, ánh sáng xảy ra  khi đi qua mặt phân cách giữa 2 môi trường trong suốt có chiết suất khác nhau được ánh sáng đổi hướng

 Khúc xạ là dùng chỉ hiện tượng ánh sáng khi đi qua mặt phân cách giữa hai môi trường trong suốt có chiết suất khác nhau

Đây là hiện tượng đổi hướng  đi của bức xạ điện từ, hay các sóng nói chung, khi lan truyền trong môi trường không đồng nhất.

                                                        ***

Vật lý là thế, Tâm Vật tương đồng.Sơ tâm xuất gia hướng đi lâu dài, do sự thay đổi môi trường, sóng tâm cũng bị tác động lệch hướng nếu không duy trì sự kiên cố “sơ tâm ban đầu”.Một tu sỹ khi tần sóng tâm thức bị giao động từ môi trường bình thường sang môi trường thuận lợi, danh-lợi-tình được kích hoạt, bản ngã trổi dậy được gọi là khúc xạ tâm lý, sẽ lệch pha tùy góc độ tương phản.

Một tu sỹ học cao hiểu rộng quên sơ tâm xuất gia, quên mục đích ban đầu cầu đạo giải thoát thì:

“Bác văn ái đạo, đạo tất nan hội

Thủ chí phụng đạo, kỳ đạo thậm đại”

(Học rộng mến đạo, đạo ắt khó gặp

Thủ chí hành đạo thì đạo kia rất lớn).

 Đây là trường hợp rất phổ biến hiện nay trên người mang quá nhiều danh vị, quyền chức, học thức khoa bảng…thường phát ngôn thiếu chuẩn xác, đôi khi ngược lại giáo lý, giáo luật. Ví dụ một danh Tăng bảo: tâm làm gì có Phật, Phật cao thước chín làm gì ở trong tâm; có vị truyền đạt cho nhóm đệ tử trẻ không cần giữ ngủ giới kể cả sát sanh với mục đích để bảo vệ sư phụ.Cũng có học vị Tiến sỹ đồng thuận với Đại Thiên cho là La Hán vẫn còn xuất tinh, Tiến sỹ xuất thân từ đại học Delhi University suy diễn La Hầu La xuất phát từ sao La Hầu…ôi tu sỹ trí thức VN ngày nay phải chăng nặng về khoa học vật lý, khoa học thực dụng, thiếu nội hàm nên bị chệch hướng?

 

Ánh sáng từ mặt phẳng này chuyển sang mặt phẳng khác thường bị khúc xạ, từ không gian chiếu xuyên qua mặt nước, đường đi sóng quang bị lệch, cũng thế, con người từ nghèo đột xuất trở thành giàu có, hay từ giàu có bị trắng tay, tâm lý thường bị thay đổi, cuộc sống từ đó cũng khó giữ trạng thái ban đầu. Một tu sỹ vào đạo mang bao ước mơ với tâm trong sáng, quyết chí đi đến giải thoát, ra làm đạo được quần chúng tôn kính, vật chất đồi dào, môi trường thuận lợi, pháp sự đa đoan, tham-sân –si  xuất hiện, ai đụng chạm đến mình sẽ khó kềm chế, dù là Tiến sỹ, danh Tăng cũng ăn miếng trả miếng cho hả dạ không khác người thế tục.

Bát Đại Nhân Giác chép: “…quảng học đa văn, tăng trưởng trí tuệ, thành tự biện tài…”. Người học rộng tăng trưởng trí tuệ mà không hướng nội chuyên tu trở thành một trong bát nạn.

Người xuất gia phải hội đủ 5 yếu tố căn bản:

• Phát tâm xuất gia, hoài bội đạo cố. (là Phát tâm xuất gia vì thiết tha với Đạo Pháp)

• Huỷ kỳ hình hảo, ứng pháp phục cố ( là Xã bỏ hình tướng tốt đẹp để xứng với Pháp phục, Ryonen người Nhật đã hủy nhan sắc để được tu viện nhận cho xuất gia) Ryonen đã ghi lại những dòng hồi tưởng:

“Trong khi hầu hạ hoàng hậu yêu quí, ta đã đốt hương để ướp thơm những áo quần tuyệt đẹp của ta.

Bây giờ muốn làm một tên ăn mày không nhà, ta đốt mặt ta để được bước vào Thiền viện”

• Cát ái từ thân, vô thích mạc cố. ( là Cắt đứt sợi dây ân ái vì không còn thân sơ)

• Uỷ khí thân mạng, tôn sùng đạo cố.  ( là Xả bỏ thân mạng vì tôn sùng Đạo Pháp)

• Chí cầu Đại thừa, vị độ nhân cố. (là Chí cầu Đại Thừa vì cứu độ chúng sanh)

Tổ Qui Sơn cũng đã từng đề cập trong Cảnh sách văn:

“Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiệp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”.

( Người xuất gia là người cất bước đến cõi siêu việt, thân tâm khác tục, nối thạnh dòng Phật, nhiếp phục ma quân, mong đền bốn ơn, cứu giúp ba cõi).

Tu sỹ nhập thế trang bị kiến thức để phục vụ cho hoằng pháp chứ không phải thể hiện bản ngã kiến thức uyên bác hầu phô trương với đời, chứng tỏ hiển thị bản ngã đi ngược lại tinh thần vô ngã của một hành giả.Hoằng pháp là “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”

 

Các bậc Thượng nhân đại sỹ, chí khí kiên cường luôn bảo toàn năng lượng khi gia nhập cuộc sống thế nhân, năng lượng được bảo toàn thì động lượng cũng cũng khó suy giảm, đó là nguyên chất cho dù giao thoa trên mọi mặt phẳng của cuộc sống, ví như nguồn sáng xuyên thấu không gian không có khí quyển cản lực.Sở dĩ các hành giả vượt mọi cám dỗ, thắng mọi chướng duyên do duy trì được sơ tâm ban đầu không bị chệch hướng.

Để giúp cho người sơ tâm xuất gia, thúc liễm thân tâm, Thiền môn chế tạo 24 oai nghi đi đứng nằm ngồi cho hành giả, Sa di phải nằm lòng Tỳ ni nhật dụng; Tỳ kheo,khi Bồ đề tâm tăng trưởng, hành giả luôn thể hiện ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh. Khuôn phép đó giúp cho tâm không rong ruổi theo ngoại cảnh, thân hành được nghiêm trang đạo phong kiên cố. Có ra hành đạo nhập thế cũng nhờ đó mà không bị phàm trần pha loãn, dẫn đi lệch hướng, thể hiện “đường đường tăng tướng dung mạo khả quan”

Trong Kinh Pháp Cú, kệ thứ 9 Đức Phật dạy:

“Ai mặc áo Ca Sa

Tâm chưa rời uế trược

Không tự chế, không thật

Không xứng áo Ca sa”

                                                            ***

Đi biển không có la bàn, thuyền trưởng dễ bị lạc hướng; tu sỹ không có giáo luật và không nằm lòng giáo lý sẽ đánh mất sơ tâm xuất gia. Việc này không chỉ thể hiện những ai học cao hiểu rộng, ngay cả những vị có chức sắc trong hệ thống giáo hội, không tự cân nhắc mình là người xuất gia, ỷ thị quyền hạn, đánh mất lòng từ bi, dễ làm đau khổ đồng đạo dưới tay mình. Không thấy lỗi mình, chỉ nhắm vào lỗi người với tâm đố kỵ thù hằn tha hồ sát phạt.Biết bao tu sỹ âm thầm khổ đau do bị áp chế trước đây, tuy nhiên bây giờ không nhiều nhưng vẫn là đau khổ  đến độ nhiều vị phải gửi y áo để trở lại cuộc sống thường dân hoặc âm thầm ẩn thân nơi non cào rừng thẳm.Cũng không thiếu vì lòng tham muốn chiếm đoạt tài sản cơ sở của nhau.

Do đâu nhân cách như vậy? chỉ khác thế tục chiếc áo và cái đầu, hành xử do tham-sân-si sai khiến. Có lúc nào đó ngồi tĩnh tâm nhìn lại việc mình làm khổ người để tự ăn năn hay để thỏa mãn tâm đố kỵ?

Buồn thay GHPGVN ngày nay không thiếu những “thuyền trưởng” bị chệch hướng vì không cần đến la bàn, các thủy thủ cũng quên bẵng mục đích vượt khơi. Sự sống luôn biến dịch như giòng chảy con nước, qua đồi núi, sông rạch, môi trường,địa thế luôn thay đổi, tâm không chuyên nhất sẽ bị đổi thay theo thế cuộc, phải chăng làn sóng tâm thức bị khúc xạ trong từng môi trường huyển mộng!!!

 

MINH MẪN

 11/9/2024

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

HUYỀN SỬ LA HẦU

 

Những dân tộc có nền văn minh lâu đời từ hàng ngàn năm, đều được xây dựng trên nền tảng mang tính thần thoại.

 Halloween trong các truyền thuyết  của người Celt. .Các truyền thuyết của người Celt tập trung vào vị thần tự nhiên như thần rừng, thần thú vật, cùng với các câu chuyện ma quỷ. Nếu như Ireland là quê hương của câu chuyện về Jack có đầu bí ngô từ cõi người chết về mặt đất, nổi tiếng trong Halloween thì Macedonia chính là nơi mà truyền thuyết về Dracula cùng ma cà rồng bắt đầu.(ST)

Thần thoại La Mã

Thần thoại La Mã là bộ tín ngưỡng của người La Mã cổ đại, lấy nhiều yếu tố từ thần thoại Hy Lạp và các đạo đức tôn giáo khác như Ai Cập và Ba Tư. 

Trong Thần thoại La Mã, Jupiter tương đương với thần Zeus, Neptune là Poseidon, Mars là Ares, Cupid là Eros, Venus là Aphrodite, Diana là Athena... Thần tình yêu Cupid nổi tiếng nhất, với hình ảnh của một thiên thần nhỏ cầm cung tình nhân. Các tên thần trong Thần thoại La Mã còn được đặt cho các ngôi sao trong hệ mặt trời như Jupiter (sao Mộc), Mars (sao Hỏa), Mercury (sao Thủy), Pluto, Venus (sao Kim), Saturn (sao Thổ), Uranus (sao Thiên Vương), Neptune (sao Hải Vương).(ST)

. Các truyền thuyết Ả Rập

là thần thoại của người Ả Rập và người Hồi giáo. Trong Hồi giáo, câu chuyện nổi tiếng nhất là về nhà tiên tri Mohammed, người được Chúa trời (Allah trong tiếng Ả Rập) chọn để truyền đạt khải huyền và hướng dẫn nhân loại. Mohammed thường được người Hồi giáo kính trọng là 'nhà tiên tri vĩ đại' hoặc 'sứ giả của thượng đế'.

Ngoài ra, Các truyền thuyết Ả Rập còn chứa những câu chuyện nổi tiếng như Aladdin và cây đèn thần, Ali Baba và 40 tên cướp. Tất cả được kể trong bộ Nghìn Lẻ Một Đêm, một tuyệt tác văn hóa tiếng Ả Rập trong thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo.(ST)

Thần thoại Ấn Độ

Thần thoại Ấn Độ là bộ sưu tập câu chuyện độc đáo xuất hiện trong văn học Vệ Đà, các sử thi như Mahabharata và Ramayana, Purana, và văn học khu vực như Periya Puranam.
Để hiểu rõ tư tưởng và văn hóa Ấn Độ, kiến thức về thần thoại Ấn Độ là không thể thiếu. Thần thoại Ấn Độ thường được chia thành thần thoại Vedas và thần thoại sử thi và Prana.
Ai Cập - là nơi nền văn minh phương Tây bắt nguồn,thì Ấn Độ lại là nơi sinh ra nền văn minh phương Đông. Thần thoại Ấn Độ đã ảnh hưởng sâu sắc đến quốc gia đông dân thứ nhì trên thế giới và còn có tác động lớn đến các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Lào, Campuchia, Thái Lan; cũng như đến nền văn minh Java, Champa, Khmer trước đây của Đông Nam Á. Trong Thần thoại Ấn Độ, Trimurti - gồm Thần Brahma (Đấng tạo hóa), Thần Vishnu (Đấng bảo hộ), và Thần Shilva (Đấng hủy diệt) là ba vị thần quan trọng nhất, cùng với nhiều thần A-tu-la khác.(ST)

Sách Thánh Hebrew (Do Thái)

Sách Thánh Hebrew là một phần quan trọng của Sách Thánh chung trong đạo Do Thái và Kitô giáo. Tên gọi Hebrew liên quan đến ngôn ngữ Hebrew hay người Hebrew (đặc biệt là người Do Thái, sử dụng tiếng Hebrew làm ngôn ngữ chính ở Israel, hoặc làm ngôn ngữ cầu nguyện và học thuật trong cộng đồng dân tộc) hoặc cả hai.
Với những câu chuyện về Chúa trời, Adam, Eva... trước khi Chúa Jesus ra đời, Sách Thánh Hebrew là nơi chứa đựng những câu chuyện này. Trong Sách Thánh Hebrew có những câu chuyện kinh điển như sứ mệnh của Abraham từ Chúa Trời, Noah cứu lấy các loài vật khỏi đại hồng thủy, và đặc biệt là sự tích Moses mở đường cho người Do Thái thoát khỏi sự áp bức của người Ai Cập.(ST)

Thần thoại Trung Hoa

Ở phương Đông, Thần thoại Trung Hoa được coi là một trong những thần thoại phổ biến nhất. Xuất phát từ thời Tam hoàng Ngũ đế ở Trung Quốc, Thần thoại Trung Hoa trở thành niềm tin chính thức trên khắp Trung Hoa, kết hợp với triết lý Đạo giáo của Lão Tử và tồn tại qua thời gian.

Trong Thần thoại Trung Hoa, các vị thần sống trên trời, Ngọc hoàng thượng đế đứng đầu, cai quản toàn bộ vũ trụ. Tiếp theo là nhiều vị thần khác nhau, như Vương Mẫu Nương Nương, Thái Thượng Lão Quân, Thái Bạch Kim Tinh, Linh Bảo Thiên Tôn, Nam Tào, Bắc Đẩu, Phúc Tinh, Lộc Tinh, Thọ Tinh...(ST)

Đầu tiên, Thần thoại Trung Hoa chỉ chứa các câu chuyện về sự hình thành của trời đất, hiện tượng tự nhiên như Nữ Oa vá trời, Bàn Cổ khai thiên lập địa, nàng Tinh Vệ lấp biển... Sau đó, thần thoại mở rộng và kết nối với nhau, từ Nữ Oa đại diện cho mẫu hệ, chuyển giao sang Ngọc hoàng đại diện cho phụ hệ. Nhiều vị thần khác được đặt tên theo các sao và ngũ hành như Thái Bạch Kim Tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu... Các thần mới như Lý Thiên Vương, Na Tra, Nhị Lang Thần, Khương Tử Nha cũng được thêm vào Thần thoại Trung Hoa từ truyền thuyết phong thần hoặc theo câu chuyện dân gian như ông Tơ bà Nguyệt, ngưu Lang chức Nữ. Ngoài ra, thần thoại còn có nhiều loại yêu tinh như Hồ Ly Tinh, Bạch Cốt Tinh...

Phức tạp và đa dạng, Thần thoại Trung Hoa kết hợp các câu chuyện dân gian, triết lý Đạo giáo, và các tác phẩm văn học như Phong thần diễn nghĩa, Liêu trai chí dị, Tây Du Ký... Tuy nhiên, niềm tin này vẫn rất mạnh mẽ, thậm chí đến thời hiện đại. Thần thoại Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Việt Nam. Tại Việt Nam, truyền thống thờ cúng nhiều vị thần trong Thần thoại Trung Hoa như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Táo Quân, Thổ Địa, Thần Tài, Phúc-Lộc-Thọ vẫn được duy trì.(ST)
3. Thần thoại Hy Lạp

Trong số thần thoại quốc gia, nổi bật không kém Thần thoại Hy Lạp. Đã từng thống trị tôn giáo của nền văn minh lớn nhất 3000 năm trước, thần thoại Hy Lạp gây ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn minh Phương Tây.

Thần thoại Hy Lạp là bản hợp nhất của những huyền thoại và truyền thuyết người Hy Lạp cổ đại về vị thần, anh hùng, bản chất thế giới, và nguồn gốc cũng như ý nghĩa của tín ngưỡng, nghi lễ tôn giáo. Nó là một phần của tôn giáo Hy Lạp cổ đại và nay là một phần của tôn giáo hiện đại được gọi là Hellenismos. Thần thoại Hy Lạp được coi là mang tính logic hơn vì giải thích một cách rõ ràng về thế giới và các sự kiện có thật.

Bắt đầu với sự hình thành vũ trụ từ hỗn độn (Chaos), Thần thoại Hy Lạp kể về vị thần nguyên thủy, Titan, Cyclop; chiến tranh giữa thần già và thần trẻ cho đến khi Thần Zeus (Thần Dớt) - lãnh đạo thần trẻ, chiến thắng và cai trị đỉnh Olympia. Nhiều nhân vật nổi tiếng như Zeus, Poseidon, Hades, Athena, Hercules, Achiles, Medusa... cũng như nhiều câu chuyện và biểu tượng trong Thần thoại Hy Lạp trở nên nổi tiếng.(ST)

Thần thoại Bắc Âu

Ở Châu Âu, một thần thoại được biết đến không kém Thần thoại Hy Lạp là Thần thoại Bắc Âu. Khác với Thần thoại Hy Lạp đến từ phương Nam, Thần thoại Bắc Âu xuất phát từ phương Bắc, là thần thoại chung của các quốc gia như Na Uy, Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Iceland, Đức... Nó không được viết thành sách như Kinh thánh, hoặc được sưu tập từ người hát rong, mà thay vào đó, Thần thoại Bắc Âu được kể qua các câu chuyện truyền miệng, với niềm tin mạnh mẽ vào vị thần.

Những vị thần nổi tiếng như Odin (thần chiến tranh), Thor (thần sấm), Njord (thần gió, biển cả và lửa), Frey (thần thời tiết, sự sinh sôi), Hod (thần mùa đông và bóng tối), Loki (thần gian xảo, lừa lọc)... trong Thần thoại Bắc Âu sống ở cung điện Asgard. Điều độc đáo là có thiên đường trong Thần thoại Bắc Âu, giống với Kinh thánh, điều mà Thần thoại Hy Lạp không có. Thiên thần trong Thần thoại Bắc Âu là Vanaheim.

Thần thoại Bắc Âu bắt đầu phát triển mạnh trong thời kỳ Viking, khi những chiến binh Viking từ phương Bắc xâm lược Anh, Scotland, Đức. Trong giai đoạn này, Thần thoại Bắc Âu trải qua cuộc chiến tôn giáo và chiến tranh đất đai với người theo Công giáo.(ST)

Kinh thánh Christian

Chắc hẳn bạn đã nghe đến những truyền thuyết về Adam và Eva, 'thiên thần sa ngã' Lucifer trở thành quỷ Satan, hay câu chuyện Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá. Tất cả những câu chuyện kinh điển trên đều thuộc Kinh thánh Christian (bibel), còn được gọi là Công giáo. Kinh thánh Christian có nguồn gốc chung với Kinh Torah của người Do Thái và Qu'ran của người Hồi giáo, đều bắt nguồn từ Abraham. Trong kinh Cựu Ước, sự khởi nguồn của Thế giới trong Kinh thánh Christian, cũng như trong Do Thái giáo và Hồi giáo, là do Thượng Đế sáng tạo. Tuy nhiên, đặc điểm độc đáo của Kinh thánh Christian là tập trung vào phần Tân Ước, kể về Chúa Jesus giảng thích, thu thập đệ tử, bị đóng đinh trên thánh giá và tái sinh.

Với hơn 2000 năm phát triển, Kinh thánh Christian đã vươn ra khỏi biên giới Do Thái để trở thành tôn giáo chính ở các nước Phương Tây, như Italia, Anh, Pháp, Mỹ, Brazil... Đến ngày nay, không chỉ riêng người theo Công giáo mà còn rất nhiều người tin vào Kinh thánh Christian, tin rằng Chúa có thực sự. Nhiều câu chuyện trong Kinh thánh Christian đã trở thành kinh điển của nền văn minh nhân loại, như truyện Adam và Eva phạm trái cấm, bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng, 'thiên thần sa ngã' Lucifer chống lại Chúa, bị các thiên thần khác do Michael đánh bại, bị đày ải xuống địa ngục thành Quỷ Satan; Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá...

Với sự phổ biến như vậy, Kinh thánh Christian là cái tên đứng đầu trong Top 10 thần thoại nổi tiếng nhất Thế giới, dù không phải là thần thoại của một quốc gia cụ thể nào.(ST)

                                                             ***

Như vậy, Thần thoại là điều ắt có và đủ để xây dựng một qua trình liên lũy của một dân tộc bất kỳ xuất hiện trên tinh cầu. Ngay Việt Nam ta, cha ông đã cho ra đời Âu Cơ và Lạc Long Quân.Một dân tộc không có nguồn gốc là một dân tộc thiếu nền tảng vững chắc. Ai bảo những chuyện Thần thoại là chuyện viễn vông bịa đặt? Đành rằng xa xưa khoa học chưa phát triển, không vì thế cha ông, tổ tiên không đủ chứng tích để tạo nên huyền sử mà ngày nay gọi là chuyện giả tưởng.

Các tôn giáo cho thấy,vật chất phát triển thì tâm linh giảm sút. Tâm linh và vật chất là hai mặt trong một cuộc sống, cái này thạnh thì cái kia phải suy.Ông cha ta chưa bị vật chất áp đảo thì tâm linh thanh thoát, hướng thiện; càng chìm sâu vào tâm linh thì cảm thức càng nhạy bén. Các nhà tiên tri đương thời đã tiên đoán trước những sự kiện chưa xảy ra, họ thuần về tâm linh. Ngay cả Abhigya Anand, nhà tiên tri thần đồng Ấn Độ, tuy sử dụng chiêm tinh, thiên văn cổ của Ấn  để xét đoán sự di dịch các vì sao, thực ra đó chỉ là một phần nếu không kết hợp với tâm linh đặc biệt (một loại tâm linh khai mở con mắt thứ ba). Thế thì cổ nhân với tâm thức thánh thiện có thể dùng con mắt thứ ba để thấy một số vấn đề mà người bình thường không thể thấy.

                                                        ***

 

 

La Hầu là một trong (chín hành tinh) của chiêm tinh học Vệ Đà. Rahu kala được coi là điềm gở. Theo truyền thuyết, trong Samudra manthan,

Trong thần thoại HinduRāhu phiên âm tiếng Việt thành La Hầu, là một con rắn đôi khi nuốt mặt trời hay Mặt Trăng gây ra hiện tượng thiên thực.. La Hầu là một trong  chín hành tinh) của chiêm tinh học Vệ ĐàRahu kala được coi là điềm gở.

Về mặt thiên văn học, La Hầu và Kế Đô đánh dấu hai giao điểm trên giao tuyến của các mặt phẳng chứa hai đường bạch đạo và hoàng đạo (tương ứng là đường di chuyển của Mặt Trăng và Mặt Trời khi chúng di chuyển trên bầu trời. Vì thế, La Hầu và Kế Đô tương ứng được gọi là các giao điểm Mặt Trăng bắc và nam. Một thực tế là hiện tượng thực chỉ xảy ra khi Mặt Trời và Mặt Trăng cùng Trái Đất nằm trên một đường thẳng đi qua một trong hai điểm này đã sinh ra huyền thoại về việc nuốt Mặt Trời hay Mặt Trăng.(ST)

 

Trong chiêm tinh học Trung Hoa, La Hầu (羅喉) và Kế Đô (計都) là hai hư tinh trong thất chánh tứ dư, với thất chánh là Thái DươngThái ÂmThái BạchMộc ĐứcThủy DiệuVân HánThổ Tú còn tứ dư bao gồm Nguyệt Bột, Tử Khí, La Hầu và Kế Đô. Thực chất La Hầu và Kế Đô chỉ là hai giao điểm trên hoàng đạo và bạch đạo (tương ứng là giao điểm của các đường di chuyển của Mặt Trời và Mặt Trăng trên thiên cầu).(ST)

Phật giáo

La Hầu được đề cập rõ ràng trong một cặp kinh từ Samyutta Nikaya (Tương ưng Bộ Kinh) của kinh sách Pali. Trong Candima Sutta và Suriya Sutta, La Hầu tấn công Chandra, thần Mặt Trăng và Suriya, thần mặt trời, trước khi buộc phải thả họ ra bởi họ đã đọc một đoạn thơ ngắn truyền đạt sự tôn kính của họ đối với Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật đáp lại bằng cách sai khiến La Hầu phải thả họ, và La Hầu phải làm điều này nếu không thì "đầu của ông ta sẽ bị vỡ ra thành bảy mảnh".[2] Các câu thơ kể lại bởi hai vị thần này và Phật kể từ đó đã được đưa vào trong nghi thức tế lễ Phật giáo như là các câu thơ bảo vệ (paritta) được các nhà sư đọc lại khi cầu kinh để mong nhận được sự che chở.(Wikipedia)

Như vậy La Hầu hay Kế đô là những hư tinh theo cái nhìn thiên văn, nhưng là thể hiện bản chất của mỗi sao khi cổ nhân cảm ứng tính chất của nó; từ bản chất, ngũ hành của mỗi sao mà con người theo Á Đông tin khi vận hạn mỗi năm gặp phải. Ví dụ sao La Hầu thuộc hành Kim đối xung với hành hỏa, người bị La hầu chiếu mệnh nên sử dụng các vật tùy thân thuộc hành hỏa và thủy để khống chế và hóa giải tính chất xấu.

Những hung tinh không nhất cứ phải lệ thuộc vào cúng kính theo tín ngưỡng mà chỉ cần hóa giải theo luật tương sinh tương khắc của ngũ hành.

                                                    ***

Có ba yếu tố trong giáo luận nhà Phật: “cảnh-trí-giáo”. Xét một hiện tượng hoặc thực hoặc hư thuộc bổn môn hay tích môn, còn gọi là hiện tượng và bản thể. Bản thể đôi lúc suy luận đôi lúc cảm ứng cảnh giới của “vô phân biệt trí”. Cùng một cảnh giới, chúng sanh thấy uế trược, chư Phật thấy là tịnh độ. Hiện tượng giao thoa trong tâm thức không thể giải trình bằng ngôn ngữ và kiến thức thường tục, do vậy không thể diễn dịch từ đặc thù sang suy luận. La Hầu là hung tinh không có nghĩa diễn qua La Hầu La là sự ràng buộc. Tương tự không hẳn là giống nhau, cùng một tính chất.

Tính đa Thần của các dân tộc sơ khai, mọi hiện tượng thiên nhiên đều được cai quản bởi một vị Thần, tuy huyền thoại nhưng không hẳn là phi thực khi tâm thức đạt đến cảnh giới “vô phân biệt trí”. La Hầu không hẳn Trung quốc du nhập từ huyền sử Ấn độ. Đã là hư tinh thì không tùy thuộc vào chiêm tinh, nhưng hư tinh biểu thị bản chất xấu tốt trong cuộc sống thì chúng vẫn là thực tính.

Vậy sao La Hầu không thể là La Hầu La một trong 10 vị đại đệ tử của Phật đương thời mà thầy Trí Minh đã diễn dịch sai lệch.

MINH MẪN

 30/8/2024