Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

HẠNH ĐỘC CƯ

 

 

 Xưa đức Phật dạy: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”. Nếu muốn tâm không phóng dật thì nên phòng hộ sáu căn cho chặt chẽ.

Trong nhà Phật, dù pháp môn tu nào, cũng phải chú trọng đến lục căn, vì từ lục căn có giao tiếp với lục trần mới sanh ra lục thức. Từ cơ bản đó, hành giả muốn bớt bị chi phối bởi ngoại cảnh, nên chọn đời sống độc cư.

Vậy độc cư là gì? Theo cái hiểu đơn giản, độc cư là ở một mình, sống một mình để tránh giao tiếp, đó là cách mà Phật dạy: Phòng hộ sáu căn chặt chẽ thì chỉ có hạnh độc cư là đệ nhất pháp.

Độc cư khác với biệt cư. Biệt cư tuy sống riêng biệt mà tâm ý vẫn lăng xăng, còn độc cư cho dù sống trong tập thể mà tâm ý độc lập, không bị chi phối, không thất niệm bởi ngoại cảnh.

Đời sống tập thể trong chốn Thiền môn khó tránh khỏi giao tiếp; ngay cả tín đồ muốn thủ hộ 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) cũng phải hạn chế việc nói năng, suy nghĩ. Khi 6 căn hoạt động thì tạp niệm khởi lên, một khi tạp niệm liên tục sanh khởi là căn bản cho việc phân tâm, đưa đến loạn tâm.

Người thích nói năng, lăng xăng đủ thứ thì khó thực hiện hạnh độc cư; nơi đây ta đề cập đến hành giả thực hiện hạnh độc cư cần thực hiện những bước cơ bản như:

Không nên ăn uống phi thời.( tức ngoài bữa chính không ăn uống linh tinh)

Không nên ngủ nghỉ phi thời.

Không nên phiếm luận chuyện không liên quan đến hạnh tu.

Luôn nghiêm túc đi đứng nằm ngồi theo tiêu chuẩn về hạnh độc cư.

Nếu hành giả vi phạm các tiêu chuẩn trên, xem như đã phá hạnh độc cư.

Ý thức hạnh độc cư giúp đưa hành giả vào Thiền định, nên Đức Phật từ giả năm anh em Kiều Trần Như đến trú dưới cội Bồ đề cho đến khi chứng đắc.

Như vậy độc cư không chỉ sống một mình, sống một mình chỉ là cơ địa vật lý, độc cư quan trọng ở tâm thức, cho dù sống giữa chợ đời mà hành giả vẫn giữ được tánh thanh tịnh, tâm ly trần cảnh vẫn gọi là độc cư. Sống một mình nơi núi thẳm rừng sâu mà tâm vẫn còn lo cái ăn cái mặc, lo sợ muôn thú, nghĩ đến sống chết vô thường, nghĩ đến thân bằng quyến thuộc…thì thân độc cư mà tâm chưa độc cư.Cũng vậy, mặc dù giáo đoàn hàng chục vị vẫn có thể gọi là độc cư nếu các hành giả biết thủ hộ 6 căn.

Ngoài độc cư thân và tâm, còn phải hành trì giới luật, vì Giới là căn bản của Định, nhờ định mà có Tuệ. Muốn giữ được giới hành giả phải thoát ly mọi ham muốn, kể cả ham muốn tu chứng.Hành giả một mực chuyên sâu thiền định, không bận tâm kết quả của việc hành trì, còn bận tâm thì thân độc cư mà tâm vẫn chưa độc cư, đó cách mà nhà Thiền gọi là “ly dục”.

Khi đức Phật đến thăm ba vị sống ẩn cư trong rừng, ngài hỏi:

“- Này các Anuruddha, như thế nào các ông sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm?”.

“- Này Anuruddha, các Ông có sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần không?”.

Ông A Na Luật đáp:.

“-Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân, nhưng giống như đồng một tâm.

Bạch Thế Tôn, như vậy chúng con sống hòa hợp, hoan hỷ với nhau, như nước với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm”.

“- Bạch Thế Tôn, thật sự chúng con sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.

Cả ba Tôn giả  Nandiya, A Na Luật, và Kimbila cũng đều đáp giống nhau.

Khi đức Phật nhìn thấy các thầy Tỳ Kheo sống trong một tập thể mà vẫn giữ được lặng yên do tâm ý không bị chi phối ngoại cảnh, nên ngài khen:

 “Một hội chúng đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.

Lời vấn đáp trên giữa Phật và đệ tử  cho ta thấy, tuy sống chung, thân và tâm không chướng ngại nhau, hòa hợp như một, không khởi ý niệm phân biệt,vẫn lặng lẽ, thì vẫn là độc cư, nghĩa là không xen vào tạp ý phân biệt bất thiện, không liên hệ bên ngoài không liên quan đến việc tu.

Đức Phật hỏi tiếp các ông sống độc cư trọn vẹn như vậy các ông có làm chủ sinh, già, bệnh, chết chưa?

“- Lành thay, lành thay, này các Anuruddha! Này các Anuruddha, các Ông sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, các Ông có chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng, xứng đáng bậc Thánh, sống thoải mái, an lạc không?”.

Ông A Na Luật trình bày kết quả sự tu tập của mình trong khi sống trọn vẹn hạnh ĐỘC CƯ như vậy

                                                      ***

Người sống độc cư rất ít nói, chỉ nói những gì cần thiết, sống đơn giản từ tâm thức đến vật chất.Luôn kiểm soát 6 căn, bởi vì  đức thầy Huỳnh giáo chủ đã nói:“mắt thấy sắc thường hay bận bịu.Tai thích nghe những điệu âm thanh…” thoát khỏi lo âu, giận hờn, nóng nảy, khó chịu…Do 6 căn giao tiếp 6 trần sanh ra 6 thức gọi là căn trần thức tổng cộng 18 giới, xâu chuỗi 18 hột lần tay từ ý đó mà thành.

Không độc cư thì khó mà nhập định, đã sống đúng tiêu chuẩn độc cư thì ngồi nằm đi đứng đều an trú trong nhiếp tâm.Tâm hành giả luôn tĩnh lặng an nhiên.

“Quá khứ không truy tìm

Quá khứ đã qua rồi”.

Tương lai chưa biết chắc

Tương lai không vọng tưởng

 “Chánh Niệm Tĩnh Giác đây,

Tuệ tri quán Vô Lậu”.

Đây là cách để trụ tâm, khỏi chạy theo trần cảnh.

Hành giả đôi lúc đánh mất ý thức, hành xử theo thói quen do vô thức chủ động, cứ tưởng tâm thanh tịnh, nhà Thiền gọi là thất niệm.Thất niệm là không nhớ mình đang làm gì, để vọng tưởng suy nghĩ lung tung, hoặc hành động như một tập quán được an định, lúc đó tâm đã duyên trần cảnh sanh ra thất niệm.Một khi tâm đã định thì ngoại cảnh khó làm tâm giao động: “Không động không rung chuyển”.

Nhờ hạnh độc cư mà hành giả kiểm soát bao vọng tưởng từ tiềm thức hiện ra. Càng tĩnh lặng càng xuất hiện những hạt giống bất tịnh tích lũy lâu đời để hành giả nhận diện chuyển hóa.Nhờ tâm định mà có tỉnh thức, người có tỉnh thức luôn hướng nội nên an nhiên, thanh thản; người luôn hướng ngoại năng lượng bị suy hao, lo nghĩ nhiều thì hao thần, nói nhiều bị tổn khí, cảm thấy mệt mỏi, thiếu sinh lực.

Không giao kết bè bạn bàn chuyện nhảm nhí vô bổ

Dù sao ẩn cư nơi thanh vắng vẫn có lợi hơn phồn hoa đô hội.

Theo kinh nghiệm của các chân sư tiền bối, người sống độc cư phải ít nói chuyện, chỉ nói khi cần thiết.sống riêng, làm việc riêng cho đến giai đoạn tưởng chừng không làm gì hết mà vẫn làm rất nhiều cho nội tâm mà đạo gia gọi là “vô vi vô bất vi

Ngày nay chùa nhiều, tu sỹ đông nhưng hạnh tu và sở đắc chưa đủ tạo dấu ấn cho Phật giáo trong xã hội. Trái lại tuy chỉ có vài vị mang học vị cao, địa vị lớn, có tiếng tăm lại là người làm mất thanh danh cho Phật giáo, để Tôn giáo bạn dạy khôn một cách nhục nhã cũng vì chưa ly dục, ly ác pháp, tâm chất chứa hơn thua, đố kỵ; cũng do không thủ hộ 6 căn, không biết độc cư nội tâm, phải chăng Phật giáo đang suy tàn vì đa phần thiếu hướng nội; đồng thời có ai đó miên mật nhiệt tâm hướng nội độc cư lại bị lên án, xuyên tạc, chỉ trich???

 Người tu cần tu phải thể hiện nhân cách để bảo tồn uy tín cho đạo, khiến cho Phật pháp được xương minh.Người tu cầm chừng không có ích cho mình, cho người, mà còn có hại cho Đạo. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. 

Hạnh độc cư không những giúp hành giả tiến vào chánh định mà còn sanh ra phước vô lậu, nên kinh Độc cư lý tưởng đức Phật nói:

“Chúng ta không thể nào điều đình với cái chết đã thu hút vô số người, nhưng kẻ nào an trú như trên một cách tinh tấn, ngày đêm không mệt mỏi, thì kẻ ấy bậc Thánh gọi là“Người Yêu Thích Hạnh Độc Cư Lý Tưởng.”

 

MINH MẪN

 23/8/2025

Thứ Tư, 20 tháng 8, 2025

THIỀN TRÀ TRI ÂN






Rừng thông phủ nhẹ cơn mưa bụi; chưa đến 19 giờ, cả vùng Resort K’Lan gần hồ Tuyền Lâm Dalat như chìm trong tĩnh lặng.

Rãi rác học viên Yoga từ các lối mòn trong rừng âm u, tĩnh mịch, đổ về hội trường,  với phong cách vui vẻ, hòa ái, thân thiện.

Trang trí thanh nhã, thiền vị, hình ảnh các tư thế Yoga xen lẫn thư pháp họa tiết, hoa và đèn tạo nên một không gian huyền ảo trong phòng khánh tiết.

Tháng bảy sắp về,Vu lan thắng hội rộn ràng trên quê hương; các chùa đều chuẩn bị cho mùa Hiếu hạnh.Trong rừng Thiền Yoga “chữa lành sức khỏe và phục hồi tự nhiên” cho hàng trăm học viên trong và ngoài nước tham dự khóa học, đêm nay hưởng ứng buổi “Trà thiền Tri ân” do cô Ngọc Mỹ tổ chức nhân sinh nhật tuổi 74 của mình. ( cô Ngọc Mỹ là Đạo sư Yoga và Trà sư tại Việt Nam)

Trên bàn chứng minh có Đạo sư Swami Sitaramananda (giáo viên chính thức chuyên về sức khỏe tinh thần, Thiền định và  giải tỏa căng thẳng)

Swami Adiparashaktiananda phụ trách Hatha Yoga.Tất cả là chuyên viên từ nước ngoài về tham dự.

Dọc bậc lên Thiền đường, học viên thắp nến trong hoa sen giấy tưởng chừng ngõ vào Thiên thai.

Hàng trăm thiền sinh sắp hai hàng đối diện trên tọạ cụ, trước mặt là khay trà, mứt gừng, bánh đậu xanh,thêm một nhánh hoa và ngọn đèn sáp.

Đèn điện tắt trong giây lát, tất cả  chìm trong Thiền tĩnh; đến khi đèn sáng, đồng loạt trổi giọng với âm điệu du dương thoát tục.

Trà chủ mở đầu giới thiệu các học viên từng người mang các trà cụ  lần lượt xuất hiện, có cả những học viên nữ nước ngoài mang trang phục truyền thống Việt Nam, phong cách như phụ nữ Việt trông điệu đà dễ mến-Cô Ngọc Mỹ giới thiệu thầy Thanh Sơn nói về ý nghĩa sở thích của mỗi người về trà: “trà ngon không phải là loại đắc tiền mà là loại thích hợp khẩu vị từng người’; Bằng sự chuyên nghiệp,Trà chủ nói qua về cách thức tẩy chung trà, ấm trà, pha trà, châm trà và mời trà; sự khác biệt  cách nâng chung trà giữa hai giới tính, cách châm trà tiễn khách…và nhân mùa Hiếu hạnh sắp đến, kết hợp Sinh nhật trà chủ, diễn ra  một cách hài hòa, để tri ân các đấng sanh thành, ân tổ quốc,ân thầy Tổ, ân vạn loại chúng sanh đem lại trong cuộc sống.

Đạo sư Swami Sitaramananda và học viên tặng quà chúc mừng sinh nhật trà chủ.Các điện thoại thi nhau chớp ảnh, lóe lên nhiều tia sáng hạnh phúc từ những tâm hướng thiện và hòa hợp.

Dàn nhạc không chuyên trình bày ba nhạc phẩm của nhạc sĩ Ngyễn thé Vinh nói về mẹ. Các nhạc “công” đều sử dụng đàn Mandolin khá chuyên. Các em học viên hưởng ứng băng nhịp vỗ tay.

Người phục vụ  mang bình trà rót vào từng chung trước mặt mọi người như gửi gắm từng giọt yêu thương và đồng cảm.

Khí lạnh cao nguyên, không gian lắng đọng, rừng thông phủ sương ấp ủ cho nội thất đêm thiền trà tri ấn nhiều ấn tượng.

Nơi đây hiện rõ sinh hoạt nề nếp, phục vụ, thân thương, đoàn kết, tự nguyện, trách nhiệm của những học viên nội  trú tuổi còn trẻ mà hầu như lớp tuổi này ngoài xã hội có được mấy ai!

Học viên nội trú sinh hoạt rất khuya, rồi tản mát vào những căn nhà ẩn khuất trong rừng tối, cũng từ đó, lần lượt xuất hiện trên các lối mòn đêm qua, khi chân trời chưa phát những tia sáng qua kẽ lá rừng cây, từng nhóm, từng người lặng lẽ, hai tay xỏ vào túi áo lạnh, phủ trùm mũ ấm, đầu cúi, lầm lũi lang thang trên dốc đồi dẫn vào bìa rừng.

Thiền trà qua đêm, trả lại không gian sinh hoạt tĩnh mịch, ghi một dấu ấn nghệ thuật trong những nghệ thuật lắng đọng, cân bằng thân tâm, chữa lành tâm lý mà các học viên tiếp thu trong thời khóa học tập Yoga trị liệu.

Tất cả sinh hoạt diễn ra trong yên tĩnh, nhẹ nhàng.

Một Thiền trà tri ân tại Resort K’lan, là một sao đêm giữa không gian  mưa bụi, khí lạnh, cô tịch phủ rộng tình người đang có mặt đêm nay.

MINH MẪN

 18/8/2025









Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

PHẬT GIÁO VÀ KHỔ HẠNH

 

Thường chúng ta lầm lẫn giữa Phật giáo và Phật pháp.

Phật giáo là lời dạy của Phật, Phật pháp là pháp hành trên con đường giải thoát.

Phật giáo thường đóng khung trong một tổ chức, một Giáo hội, giáo đoàn, lập thành một quy chế, một giáo luật để dẫn dắt đồng tu,hướng dẫn Phật tử.

Thời đại xã hội có tiến bộ, mọi sinh hoạt có nề nếp, Phật giáo không thể sinh hoạt đơn lẻ tách rời xã hội,Phật giáo trở thành một bộ phận trong xã hội, ví dụ tại Việt Nam hiện nay, Phật giáo là một đơn vị của Mặt trận, vì thế, ngoài việc truyền bá giáo lý, hoạt động Phật sự,Tăng đoàn còn phải chấp hành những quy chế  ràng buộc vào hành chánh, đôi khi còn phải tiếp thu những ngoại khóa về tư tưởng chính trị, chủ trương nhà nước, hưởng ứng phong trào…Một số tu sỹ được đề bạt gia nhập đảng xét thấy nhân thân tốt, đóng góp hoạt động nhiệt tình và những tiêu chuẩn của một đảng viên.

Chính những hoạt động nặng về thế tục theo định hướng xã hội, một số cán sự của Phật giáo không đủ thời gian hướng nội và quên nhiệm vụ của một Tăng bảo thời hiện đại, lơ là việc hành trì, quên khích lệ đại chúng trở về tâm linh, dần đi xa mục đích lúc sơ tâm xuất gia, chí nguyện hướng thiện và hướng thượng dần phai nhạt;dẫn đến cuộc sống không khác thế tục, đôi khi trở thành thành phần thượng lưu, được xã hội xem như mặc nhiên và đương nhiên phải như vậy, từ đó, ỷ thị quyền cao chức trọng tuyên bố thiếu kiểm soát, xem mọi người dưới mắt mình, chỉ trích ngạo mạng với bậc chân tu giới đức tinh nghiêm; cho đến khi xuất hiện một thành phần giữ trọn phẩm hạnh nguyên chất của nhà Phật, bấy giờ quay lại nhìn sinh hoạt Tôn giáo mình đang theo, mọi người ngỡ ngàng đặt lại vấn đề.

Quần chúng hướng về bậc chân tu là một cảnh báo nguy hại cho những tu sỹ sống xa hoa, cách xa quần chúng.Hầu như trên 80% tu sỹ Phật giáo nằm trong cơ chế Giáo hội đều không thích người thể hiện hạnh đức khác thường với tập thể, là một chiếc kính chiếu rõ bộ mặt nhếch nhác, biến thái khác thường của tập thể đang lún sâu trong Danh-lợi-tình của thế tục.

Một tâm hồn Giác ngộ là quay về nội tâm, buông bỏ mọi vướng bận trần tục.Để thử thách khả năng buông bỏ, hành giả chọn con đường khó nhất, thường tình gọi là khổ hạnh, đối với hành giả không xem là khổ hạnh mà là chọn lối sống tối giản của nhu cầu vật chất, dồn tất cả thời gian và khả năng cho việc hướng nội.

Trong thời gian đức Cồ Đàm hướng đến giải thoát, ngài cũng chọn con đường khổ hạnh ép xác để từ đó rút ra bài học Trung đạo. Như học sinh lớp cao cũng phải kinh qua lớp thấp để có bước căn bản. Hành giả không qua khổ tu, mọi nhu cầu vật chất đầy đủ sẽ khó mà buông bỏ, khó mà hướng đến bài học tâm linh;tâm linh và vật chất,hai phải chọn một, không thể bước chân trên hai con thuyền cùng lúc để di chuyển.

Tại sao đức Phật ca ngợi hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca Diếp mà không khuyến khích mọi người theo, hoặc ngăn cấm hạnh Đầu đà?

Đầu đà là hạnh tu tự nguyện tùy khả năng của hành giả.Hạnh Đầu đà không chỉ giới hạn ở số 13. Thời bấy giờ các hành giả Bà La Môn, Yoga và nhiều hệ phái khổ hạnh có thể hành thêm những động tác như đứng một chân, trồng chuối, đứng phơi nắng, dang tay, ăn cây lá, đậu mè …Cũng có thể giảm bớt vài động tác cho thích hợp với cơ địa, không nhất cứ phải đủ 13 công hạnh.

Tóm lại, Trung đạo của đức Phật không quá khổ hạnh, cũng không quá thừa thải tiện nghi hưởng thụ, vừa đủ nuôi sống cơ thể vật chất; tuy nhiên, hành giả cảm thấy cần tăng cường một số công hạnh để thúc đẩy sự tỉnh thức, có thể chọn những điều khác bình thường.Do đó,Đức Phật tuy tán thán hạnh Đầu đà của Tôn giả Ca Diếp nhưng không khuyến khích để cho các hành giả tự chọn.

Mọi khổ hạnh cho đến hạnh Đầu đà đều là những pháp hành, không thể gọi là tà giáo ngoại đạo.

 

MINH MẪN

 11/8/2025