Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

ĐỘNG CƠ VÀ NGUYỆN VỌNG

Nguyên tác: Motive and Aspiration (Trích từ quyển Awakening the Mind, Lightening the Heart)
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blankNhư những Phật tử, bất cứ những sự thực hành Giáo Pháp nào mà chúng ta thực hiện, cho dù chúng ta đọc lời cầu nguyện, bố thí – cúng dường hay lắng nghe giảng dạy, chúng ta phải bắt đầu bằng việc lặp lại những lời quy y và việc phát sinh tâm tỉnh thức[1]:
Con về nương tựa Phật, Pháp, và cộng đồng tâm linh,
Cho đến khi con đạt được thể trạng giác ngộ.
Bằng năng lực của bố thí và những phẩm chất khác[2],
Nguyện cho con đạt được quả Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Những vần kệ này tóm lược cốt tủy những lời Phật dạy và đặc biệt của những ai thuộc Đại thừa Phật Giáo. Hai dòng đầu dạy về quy y. Hai dòng cuối dạy về việc phát sinh tâm tỉnh thức vị tha tức là tâm giác ngộ hay tâm bồ đề.
Tất cả những ai đã quy y có một cảm giác gần gũi và tin tưởng đối với Tam Bảo – Đức Phật, Giáo Pháp (lời dạy của Ngài), và Tăng Già, cộng đồng tâm linh của tăng ni. Đây là nhân tố quyết định quý vị có phải là một Phật tử hay không. Nếu quý vị quy y Tam Bảo, quý vị là Phật tử; còn nếu khác đi thì không phải. Chúng ta có thể quy y ở nhiều trình độ khác nhau của sự thậm thâm, tùy thuộc trên mức độ thông tuệ của chúng ta. Càng thấu hiểu bản chất tự nhiên của Tam Bảo, chúng ta càng được thuyết phục bởi những phẩm chất đặc biệt của Tam Bảo. Sự tìm cầu nương tựa trong Ba Ngôi tôn quý của chúng ta sau đó sẽ vững vàng và sâu sắc hơn nhiều.
Cung cách chúng ta tìm cầu sự nương tựa trong Ba Ngôi tôn quý thì đa dạng. Một cách là tự phó thác chúng ta đối với Tam Bảo, xem Ba Ngôi tôn quý như những đối tượng siêu việt đối với chúng ta và tìm cầu sự bảo hộ, nương tựa, và giúp đỡ. Một cách khác là tìm cầu sự quy y trong Tam Bảo như một khuynh hướng để trở thành một vị Phật một ngày nào đấy bằng việc đạt được những phẩm chất của tri thức và tuệ giác. Hai cách quy y minh chứng cho những trình độ khác nhau của dõng khí và quyết tâm. Những người nào đấy tìm cầu sự giúp đỡ và bảo hộ từ một đấng siêu việt trong những lúc khó khăn và nguy nan rồi thì cần nhắc nhở người ấy nhớ lại nhằm để hoàn tất bất cứ điều gì đấy mà họ đã đề ra để hành động. Những người như vậy thì không thật sự có thể hành động cho chính họ. Tuy thế, những người khác can đảm hơn. Họ có thể thỉnh cầu một sự giúp đỡ nào đấy ban đầu, nhưng rồi họ quyết tâm để hỗ trợ chính họ. Họ sử dụng bất cứ nổ lực nào cần thiết để hoàn thành nguyện ước của họ. Họ có khuynh hướng trong việc trở nên độc lập, vì thế họ hành động cần cù để thân chứng những mục tiêu của họ và loại trừ những chướng ngại rắc rối của chính họ.
Trong việc quy y, cũng có những người không can đảm lắm. Họ tự phó thác chính họ đối với Tam Bảo, nguyện cầu để họ được ban cho sự bảo vệ và nương tựa. Họ thiếu sự quả quyết và niềm tin trong chính họ để thăng tiến đến vị thế của một Đức Phật. Đây là thái độ của những người chỉ tìm cầu cho sự giải thoát của riêng họ khỏi khổ đau và tái sinh. Những ai tìm cầu sự giải thoát cho tất cả chúng sinh là can trường hơn gấp bội. Họ cũng phó thác chính họ trong Ba Ngôi tôn quý để tìm cầu sự bảo hộ cùng nương tựa, nhưng khuynh hướng chính của họ là để đạt đến thể trạng siêu tuyệt của quả Phật cho chính họ vì thế họ mới có thể phụng sự những chúng sinh khác một cách tuyệt hảo nhất. Những người như thế quyết tâm tiêu trừ tất cả những dấu vết của những cảm xúc phiền não và thân chứng những đức tính toàn hảo của một vị Phật. Mô thức quy y này là thông tuệ rộng sâu [của những bậc hiền nhân].
Bởi vì rõ rằng việc tìm cầu nương tựa có thể có nhiều hình thức và có thể được hoàn tất trong nhiều trình độ, điều thiết yếu để nghĩ về bản chất tự nhiên của Phật, Pháp, Tăng và những đức tính đặc biệt trong khi tụng niệm thể thức quy y.
Bằng năng lực của bố thí và những đức tính khác,
Nguyện cho con đạt đến quả Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Hai dòng này biểu thị tâm tỉnh thức giác ngộ. Bằng việc trau dồi nguyện vọng đặc biệt này, những khuynh hướng cá nhân để đạt đến thể trạng tối thượng của giác ngộ trong sự quan tâm đến tất cả chúng sinh. Bắt đầu từ việc quy y, trong tất cà mọi hành động đạo đức hành giả nghĩ, “Tôi nên dấn thân trong những hành vi thánh thiện này vì thế chúng sinh có thể giải thoát khỏi khốn cùng và ở trong sự hòa bình hoàn toàn.”
Những hành vi tốt đẹp của hành giả không phục vụ cho tính vị kỷ. Nguyện vọng này phi thường, can trường, và chan hòa. Bằng năng lực của tư tưởng này, hành giả gieo những hạt giống và đặt nền tảng cho tất cả nhưng thứ diệu kỳ trong đời sống này và những kiếp sống sắp tới. Những dòng này chứa đựng tinh hoa và gốc rể những lời Phật dạy. Mặc dù những dòng này rất ngắn, nhưng ý nghĩa rất rộng lớn và sâu xa. Trong khi trì tụng những dòng này, chúng ta nên hướng tất cả những thực hành Phật Pháp của chúng ta, như thiền quán và bố thí hay giảng dạy, để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Chúng ta không nên chú ý hời hợt đến chữ nghĩa mà thay vì thế phản chiếu trên ý nghĩa là như thế nào.
Bất cứ khi nào chúng ta thể hiện sự thực hành Phật Pháp nào, chúng ta đều bắt đầu với những dòng quy y và phát tâm tỉnh thức này. Thông thường chúng ta trì tụng ba lần, mặc dù không có luật lệ nào bắt chúng ta không được đọc tụng nhiều hơn hay ít hơn ba lần. Mục tiêu của ba lần trì tụng này là để có thể phản chiếu trên ý nghĩa trong khi đọc tụng. Qua sự thực tập này chúng ta phải có thể tác động sự chuyển hóa thái độ của chúng ta, để tô điểm tâm thức chúng ta một cách tích cực. Để làm điều này có thể cần thiết để trì tụng những dòng trên nhiều lần. Tùy thuộc vào sự săp xếp của chúng ta, chúng ta có thể thích trì tụng hai dòng thể thức quy y nhiều lần, rồi trì tụng thể thức cho việc phát sinh tâm tỉnh thức trong cùng cách như thế. Trong cách này, chúng ta có thể tập trung trên một đề tài trong một thời điểm và tiến hành sự thực tập hiệu quả hơn. Sau khi trì tụng những dòng này khoảng mười lăm lần, phải có sự thay đổi trong trái tim chúng ta. Đôi khi chúng ta có thể rất xúc động đến nổi nước mắt tuôn tràn ra.
Chỉ khi nào tiến hành trong một sự thực tập thích đáng về quy y và phát tâm tỉnh thức chúng ta mới dấn thân trong bất cứ sự thực tập nào khác, chẳng hạn đọc lời nguyện cầu hay trì tụng chân ngôn. Năng lực của mỗi sự thực tập tùy thuộc trên phẩm chất và sức mạnh sự thực tập của chúng ta về quy y và tâm tỉnh thức. Có sự nghi ngờ rằng chỉ lập lại những lời cầu nguyện mà không có động cơ thích đáng có phải là sự thực hành Phật Pháp hay không? Có thể không có lợi ích gì hơn như việc sử dùng máy hát đĩa. Do thế, việc phát triển một động cơ tích cực là thiết yếu trong phạm vi này. Toàn bộ sự nhấn mạnh của việc thực hành tâm linh phải hướng trực tiếp đến việc tạo nên những tư tưởng cũng như hành động tích cực và lành mạnh.
Khi chúng ta chuẩn bị một bữa ăn, chúng ta cần bắt đầu với thành phần chính như gạo, bột, và rau cải. Gia vị và muối được thêm vào sau để tăng thêm mùi vị. Tương tự thế, khi những đối tượng của sự thực hành Giáo Pháp đã được hoàn thành bẳng việc tạo nên một thái độ tình thần tích cực và lành mạnh, những sự thực tập khác như cầu nguyện, quán tưởng, và thiền tập, cũng trở nên đầy đủ ý nghĩa.
Tất cả mọi tôn giáo đều có nguyên tắc căn bản là để hỗ trợ nhân loại trở nên những con người tốt đẹp hơn, tinh tế hơn và sáng tạo hơn. Trong khi những tôn giáo nào đấy sự thực hành chính yếu là tụng niệm những lời cầu nguyện và đối với những tôn giáo khác chủ yếu là sự hành xác để chuộc tội, trong Đạo Phật sự thực hành chính yếu là thấu hiểu để chuyển hóa và cải thiện tâm thức. Điều này có thể được nhìn trong một cách khác. So sánh đến những hành vi thân thể và lời nói, hoạt động tinh thần là vi tế hơn và khó khăn hơn trong việc kiểm soát. Những hành vi thân thể và lời nói thì rõ ràng hơn và dễ dàng hơn để học hỏi và thực hành. Trong phạm vi này, những việc theo đuổi tâm linh liên hệ đến tâm thức là phức tạp hơn và khó khăn hơn để đạt được.
Điều cần yếu cho chúng ta là thấu hiểu ý nghĩa thật sự của Đạo Phật. Thật là quý báu rằng sự hấp dẫn trong Phật Giáo đang gia tăng, nhưng quan trọng hơn là việc thấu hiểu Đạo Phật thật sự là gì. Ngoại trừ chúng ta thấu hiểu giá trị và ý nghĩa cốt yếu của lời Phật dạy, bất cứ cố gắng nào để bảo tồn, khôi phục, hay truyền bá Phật Pháp đều như đi trên một lối mòn lạc hướng. Giáo nghĩa và sự thấu hiểu Phật Pháp không phải là điều gì đấy thuộc thân thể vật chất. Do vậy, ngoại trừ nó được hoàn thành với sự thấu hiểu thích đáng, nếu không thì những việc xây dựng chùa viện hay trì tụng kinh điển thậm chí có thể không phải là thực hành Phật Pháp. Vấn đề là việc hành trì xảy ra trong tâm thức.
Sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ thay đổi áo quần, đọc lời cầu nguyện, hay lễ lạy phủ phục là bao hàm toàn bộ sự thực hành Phật Pháp. Để tôi giải thích. Khi chúng ta thực hiện sự lễ lạy hay đi nhiễu quanh chùa viện, mọi thứ tư tưởng khởi sinh trong tâm thức chúng ta. Khi chúng ta chán nản thì một ngày rất dài, đi quanh chùa viện có thể rất là dễ chịu. Nếu chúng ta gặp một người bạn thích nói đồng hành, thời gian giống như bay đi. Có thể đấy là cuộc đi bộ dễ thương, nhưng trong ý nghĩa thật sự thì không phải là thực hành Phật Pháp. Thậm chí có những trường hợp có thể đang hành trì Phật Pháp biểu lộ bên ngoài nhưng trong thực tế chúng ta đang tạo nên những nghiệp nhân tiêu cực. Thí dụ, một người đi nhiễu quanh chùa viện mưu tính một kế hoạch lừa dối người nào đấy hay dự trù trả hận chống lại một kẻ thù. Trong tâm tư người ấy, có thể đang nói là, “Đây là cách mà ta sẽ hạ gục đối thủ của ta, đây là những gì ta sẽ nói và đây là những gì ta sẽ làm.” Tương tự thế, chúng ta có thể đang trì tụng mật ngôn thánh thiện, trong khi tâm tưởng chúng ta ấp ủ những suy tư hiểm ác. Do vậy, những gì dường giống như sự thực hành Phật Pháp qua thân thể và lời nói có thể chứng tỏ là dối trá.
Chúng ta nói rằng khuynh hướng chính của sự thực hành Phật Pháp là để rèn luyện tâm thức. Chúng ta thực hiện việc ấy như thế nào? Hãy nghĩ về những hoàn cảnh khi chúng ta vô cùng giận dữ với người nào đấy mà chúng ta muốn làm bất cứ điều gì để tổn thương kẻ ấy. Bây giờ đúng là một hành giả chân chính, chúng ta cần suy nghĩ một cách phải lẽ về điều này. Chúng ta cần nghĩ về vô số những khiếm khuyết của sân hận và các kết quả tích cực của việc phát sinh từ bi. Chúng ta cũng phản chiếu rằng con người, đối tượng sự giận dữ của chúng ta là giống như chúng ta trong việc mong muốn đạt đến hạnh phúc và xa lánh khổ đau. Dưới những tình cảnh như thế, làm thế nào chúng ta có thể biện minh cho việc làm tổn thương người kia?
Chúng ta có thể tự nói với chính mình rằng, “Tôi tự nghĩ chính mình là một Phật tử. Thời khắc tôi mở mắt vào buổi sáng, tôi trì tụng những lời cầu nguyện quy y và phát triển tâm tỉnh thức(tâm giác ngộ). Tôi hứa nguyện hành động vì tất cả chúng sinh, và trái lại ở đây tôi đang làm cho có quyết tâm thôi thúc hung tợn và phi lý. Làm sao tôi có thể tự gọi mình là một Phật tử? Làm sao tôi có thể đối diện với chư Phật khi tôi làm một việc nhạo báng con đường của các Ngài?”
Chúng ta có thể làm tan biến một cách hoàn toàn thái độ cay nghiệt của chúng ta và cảm giác giận dữ bằng việc suy nghĩ trong cách này.Trong nơi chốn của chúng, những tư tưởng tế nhị và dịu dàng có thể được gợi lên bằng việc phản chiếu giận dữ sai lầm như thế nào với người kia và người kia xứng đáng với sự tử tế và thiện ý của chúng ta như thế nào. Trong cách này, chúng ta có mang đến một sự chuyển hóa chân thật cho trái tim. Đây là Giáo Pháp trong ý nghĩa chân thực của từ ngữ. Những tư tưởng tiêu cực trước đây có thể được xóa tan và thay thế bằng cảm giác tích cực cùng từ bi cho người kia. Chúng ta nên lưu ý sự thay đổi ấn tượng này. Đây là một bước nhảy vọt đáng lưu tâm. Đấy là ý nghĩa thật sự của những gì gọi là hành trì Phật Pháp, nhưng không phải là một vấn đề đơn giản.
Khi tâm thức được tác động bởi một tư tưởng đạo đức đầy năng lực, không suy tư tiêu cực nào có thể triển khai cùng một lúc. Nếu chúng ta được thúc đẩy bởi những tư tưởng ân cần và hoan hỉ, ngay cả những hành vi dường như tiêu cực có thể cũng mang đến những kết quả tích cực. Thí dụ, nói dối thông thường là tiêu cực, nhưng khi chúng ta thực hiện nó vì từ bi và một tư duy để giúp đỡ người nào khác, nói dối có thể được chuyển hóa thành điều gì đấy lành mạnh.
Tư tưởng vị tha của tâm tỉnh thức xuất phát từ sự thực hành bồ tát, từ ái và bi mẫn. Do vậy, trong vài trường hợp, một vị bồ tát được phép vi phạm những hành động tiêu cực của thân thể và lời nói. Những hành vi xấu thông thường cho sinh khởi những kết quả không thuận lợi. Nhưng tùy thuộc trên động cơ, đôi khi những hành vi này có thể là trung tính, và vào những lúc khác chúng có thể trở thành xứng đáng một cách diệu kỳ. Đây là một số lý do tại sao chúng tôi nhấn mạnh rằng Đạo Phật quan tâm một cách cơ bản với tâm thức. Những hành vi thân thể và lời nói của chúng ta chiếm lấy vai trò thứ yếu. Thế nên, phẩm hạnh hay sự thanh khiết của bất cứ sự thực hành tâm linh nào được quyết định bởi khuyn hướng và động cơ cá nhân.
Con người tự do có niểm tin trong bất cứ tôn giáo nào họ thích. Những người đối lập với tôn giáo cũng biểu hiện ra ý chí của họ. Con người lựa chọn theo đuổi một tôn giáo tùy thuộc sự thích thú và thiên hướng của họ. Không có cách nào để thúc ép mọi người đi theo Đạo Phật hay bất cứ tôn giáo nào khác. Trong cuộc đời của chính Đức Phật, Ngài đã không thể làm cho tất cả mọi người Ấn Độ trở thành Phật tử. Trong một thế giới đa dạng sở thích và xu hướng, mọi người không thể đều trở thành Phật tử. Con người thụ hưởng quyền tin tưởng hay không tin tưởng trong bất cứ tôn giáo nào như nguyện ước của họ.
Đối với chúng ta điều thiết yếu là chúng ta đã chọn lựa đi theo Đạo Phật và quyết chí quy y trong Phật Bảo. Dưới những tình cảnh như thế, chúng ta bắt buộc phải tôn trọng những ngôn từ của Đức Phật. Nếu người Tây Tạng chúng tôi không tuân theo lời Phật dạy mà đòi hỏi người Trung Cộng làm như thế, thì chỉ là buồn cười. Họ từ chối Đạo Phật; tại sao họ phải tuân theo lời Giáo huấn của Đức Phật? Nếu họ nói lời dối trá và ấp ủ những hành vi lừa bịp khác, chúng tôi có thể làm gì? Nếu họ bị tràn ngập bởi thù hận, chấp trước, và vô minh, họ sẽ không vui và sẽ làm rắc rối cho người khác. Do thế, đấy là nhiệm vụ của những người Phật tử, kể cả người Tây Tạng, hành trì Giáo nghĩa Phật Pháp. Sự thực hành của chúng ta là những cảm xúc phiền não – thái độ thù địch, chấp trước, và si mê – phải được tiêu trừ. Tâm thức chúng ta phải được tự do với những vọng tưởng này, và trên mãnh đất tâm thức của chúng chúng ta phải phát triển những đức tính tích cực.
Như những người Phật tử, chúng ta có những bức tượng hay tranh của Đức Phật trên bàn thờ ở nhà. Chúng ta đến chùa chiền hay tu viện để đỉnh lễ Đức Phật. Đây là tất cả những gì biểu lộ sự tôn kính và tin tưởng của chúng ta. Nhưng thử thách thật sự là chúng ta chân thành tuân thủ những lời Phật dạy được bao nhiêu. Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nói và tư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài. Ngay cả nếu chúng ta không thể tuân theo đấy một cách hoàn toàn, chúng ta phải nghiêm chỉnh tột bậc trong nỗ lực của chúng ta. Từ trong chiều sâu của trái tim chúng ta phải có một quyết tâm vững vàng để hành động trong những khuôn thước của giáo thuyết Phật Đà. Chúng ta cần bảo đảm rằng đời sống hằng ngày của chúng ta tương hợp lời xác nhận là những người Phật tử. Nếu chúng ta không thể thực hiện được những điều này, lời tuyên bố ấy sẽ là giả tạo và vô nghĩa, chúng ta hờ hững và quên lãng những lời Phật dạy, đây là một hình thức của sự lừa dối. Điều ấy thì mâu thuẫn và đáng thương. Phải nên có sự hòa hiệp giữa những gì chúng ta nói và những gì chúng ta làm.
Khi chúng ta bắt đầu sự thực hành Phật Pháp, chúng ta lập lại lời nguyện cầu quy yvà phát triển tâm giác ngộ, nhưng cùng lúc chúng ta phải tạo nên một động cơ lành mạnh được truyền cảm hứng bởi từ ái và bi mẫn. Sự thực hành kiểu này phải được hoàn thành bởi cả thầy và trò giống như nhau. Khi tôi ngồi trên pháp tòa, tôi không được có ý tưởng, suy nghĩ về việc tôi tuyệt vời như thế nào. Tôi cũng không nên nghĩ rằng tôi là một vị Đạt Lai Lạt Ma và có thể nói bất cứ điều gì tôi thích đến những học nhân của tôi. Một thái độ như vậy là không thích hợp. Tôi chỉ là một thầy tu Đạo Phật giản dị và là một môn nhân của Đức Phật. Trách nhiệm của tôi là cố gắng tận lực để thực hiện đầy đủ giáo huấn. Khi tôi thực hành giáo lý, tôi không cố gắng để làm vui lòng hay tâng bốc Đức Phật. Sự thực của vấn đề là tôi quan tâm cho hạnh phúc và khổ đau của chính tôi. Cho dù tôi thụ hưởng hạnh phúc hay trải nghiệm khốn khó tùy thuộc hoàn toàn trong chính tay tôi. Những nhân tố nền tảng này động viên tôi để dấn thân trong việc thực hành Phật Pháp.
Đức Phật đã giảng dạy từ kinh nghiệm của chính Ngài, những gì lợi lạc về lâu về dài và những gì tổn hại. Tôi, trước hết, muốn hạnh phúc và hy vọng lánh khỏi khổ đau. Đây là một nguyện vọng mà sự hiện hữu của những ai vượt qua năm tháng hay thậm chí cả cuộc đời này; nó mở rộng đến những đời sống bất tận. Tôi phải nhận ra ba loại thuốc độc - - những cảm xúc phiền não của tham dục, thù hận, và si mê – sự tin tưởng rằng mọi vật tồn tại như chúng xuất hiện, một cách độc lập, và tự do, không tùy thuộc trên những nguyên nhân – là nguồn gốc của những vọng tưởng này. Để đối phó với những tư tưởng si mê và chấp ngã này, tôi cần phát sinh từ ái, bi mẫn, vị tha, và tuệ trí hiểu biết tính không.
Tôi tin rằng vận mệnh của tôi hoàn toàn tùy thuộc trên đôi tay tôi. Những gì Đức Phật đã dạy có ý nghĩa vô vàn trong đời sống của tôi. Những lời của Ngài đang trở nên trong sáng hơn, và những gì Ngài đã dạy hơn 2.500 năm trước mãi mãi thích hợp. Mặc dù tôi không thể tìm hiểu tận chiều sâu tất cả những giảng dạy của Ngài, nhưng tôi có thể luận ra ý hướng của Ngài trong sự liên hệ đến những giảng giải của Ngài về hai chân lý (chân lý tối hậu – chân đế, và chân lý quy ước – tục đế), Bốn Chân Lý Cao Quý (khổ đau, nguyên nhân của nó, sự chấm dứt, và con đường đi đến sự chấm dứt), và v.v… Khi tôi lắng nghe và suy tư về triết lý Đức Phật đã dạy từ lâu xưa, hiếm có điều gì vô nghĩa đối với tôi. Tôi đạt được lợi lạc vô cùng từ những lời dạy của Ngài, và tôi tin rằng những người khác cũng lần lượt có thể lợi ích từ những lời của tôi. Với mục tiêu hỗ trợ này, tôi chia sẻ những ý tưởng và kinh nghiệm của tôi. Khi chúng ta hữu dụng đối với những người khác, thì chúng ta đang hành động phụng sự Giáo Pháp. Giúp đỡ thậm chí chỉ một người cũng quý giá.
Đức Phật ban đầu phát triển tư tưởng vị tha và sau đó dấn thân trong việc tích tập công đức. Cuối cùng Ngài đạt đến thể trạng giác ngộ của Quả Phật. Ngài đã thực hiện thật hoàn toàn trong sự quan tâm đến những chúng sinh khác. Được truyền cảm hứng bởi tâm giác ngộ, mà điều ấy là quan tâm đến người khác hơn là chính mình, Đức Phật đã hoàn thiện việc rèn luyện trên con đường tu tập. Qua lòng vị tha của Ngài, Đức Phật đã hành động để hoàn thành sự cát tường của những chúng sinh khác. Qua hàng vố số kiếp Ngài đã kiên cường trong sự theo đuổi ấy. Ngay cả sau khi đạt đến giác ngộ, chính nỗ lực của lòng vị tha ấy đã hướng Ngài đến việc chuyển pháp luân. Do vậy chủ đề nền tảng của Đạo Phật là lợi ích cho người khác. Khi chúng ta có thể giúp người khác phát sinh đức hạnh trong trái tim của họ, làm cho họ hạnh phúc và đời sống của họ đầy đủ ý nghĩa, đấy là sự phụng sự chân thật đến Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài. Chúng ta phải chuyên cần và hướng trực tiếp những nỗ lực tuyệt hảo nhất của chúng ta trong cách này. Thế đấy, tôi tin, là việc đáp ứng đến lợi ích của người khác cũng như của chính mình trọn vẹn như thế nào.
Phong tục truyền thống của vị thầy lễ phủ phục ba lần đến pháp tòa trước khi an tọa là rất quan trọng. Mục tiêu là để ngăn ngừa sự kiêu mạn. Khi chúng ta ngồi trên tòa cao, và thuyết giảng, người ta biểu lộ tôn kính của họ đến chúng ta bằng việc đỉnh lễ đến chúng ta. Dưới những tình cảnh như thế chúng ta phải cẩn thận một cách đặc biệt. Trái lại, có một hiểm họa vô vàn của sự kiêu mạn len lén bên trong. Trong một vài trường hợp điều này đã xảy ra. Những tu sĩ nào đấy, khởi đầu rất giản dị, sau khi thấy họ có nhiều học nhân và đã đạt được một vị thế nào đấy, và họ trở nên vênh váo, dương dương tự đắc. Chúng ta không thể trách họ; đấy là kết quả của những cảm xúc phiền não của chính họ.
Những cảm xúc phiền não thì cực kỳ gian dảo và ngoan cố. Khi một người ở dưới sự thống trị của phiền não được đặt ngồi trên pháp tòa, người ấy bị khống chế bởi vọng tưởng. Khi chúng ta nghe người ấy nói chuyện, lòng tự hào của người ấy phồng to lên ngày càng dài hơn khi người ấy tiếp tục. Đây là việc các cảm xúc phiền não hoạt động như thế nào. Hậu quả của cảm xúc phiền não là đáng kinh ngạc. Chúng có thể làm cho một vị thầy bất hòa với những người khác vì tham muốn nhiều học nhân hơn. Trong những trường hợp như thế, cả sự chấp thủ và thù oán cùng hoạt động.
May mắn thay, có một năng lực có thể chiến đấu chống lại những cảm xúc phiền não. Đấy là tuệ trí. Tuệ trí này trở nên trong sáng hơn và sắc bén hơn khi chúng ta áp dụng phân tích và thẩm tra. Nó sinh động và dẻo dai. Trái lại, tâm thức vô minh, mặc dù nó có thể là gian giảo, nhưng không thể chống lại sự phân tích. Dưới sự thẩm tra thông tuệ, nó bị sụp đổ. Sự thấu hiểu điều này cho chúng ta niềm tin vững chắc để giải quyết những rắc rối được tạo nên bởi các cảm xúc phiền não. Nếu chúng ta nghiên cứu và phản chiếu, chúng ta có thể đạt đến một sự thấu hiểu hoàn hảo về tuệ trí, và những cảm xúc phiền não như thái độ thù địch và chấp trước, những thứ được sản sinh bởi tâm thức tin tưởng rằng mọi thứ là thật, rằng chúng tồn tại như chúng xuất hiện. Tâm thức nhận thức về sự tồn tại thật sự là cực kỳ linh động, mạnh mẽ, và gian trá. Đồng lõa gần gũi của nó, thái độ vị kỷ, là tương đồng với táo bạo và ngoan cố. Đã từ lâu lắm, chúng ta đã hoàn toàn ở dưới sự thống trị của nó. Nó tự cho là bạn bè, hỗ trợ, và bảo vệ chúng ta. Bây giờ, nếu chúng ta cẩn thận và sáng suốt, chúng ta phải phát triển tuệ trí thấu hiểu rằng mọi thứ không tồn tại như chúng xuất hiện, rằng chúng vắng bóng loại sự thật này; điều này được gọi là tuệ trí của tính không. Bằng việc sử dụng vũ khí này với nổ lực bền bỉ, chúng ta sẽ có cơ hội để chiến đầu chống lại những cảm xúc phiền não.
Trong tiến trình của sự thực tập, chúng ta cần nghĩ về những lợi ích của việc yêu mến người khác và những khiếm khuyết của tính vị kỷ. Về đường dài, tư tưởng quan tâm đến người khác sẽ chứng tỏ tính siêu việt, và tính vị kỷ của chúng ta sẽ xuất hiện trong một ánh sáng mờ nhạt. Tất cả tùy thuộc trên việc chúng ta nghiêm chỉnh và cần mẫn ra sao. Nếu chúng ta có thể tự chứng tỏ bằng việc theo đuổi con đường đúng đắn với những nỗ lực phối hợp, chúng ta có thể chắc chắn rằng những cảm xúc phiền não có thể được tiêu trừ.
Phật Quả là mục tiêu tối hậu trong sự thực hành của chúng ta, và sẽ rất hữu ích để thấu hiểu điều này có nghĩa là gì. Tạng ngữ cho chữ giác ngộ có hai phần; phần thứ nhất liên hệ đến việc tịnh hóa và phần thứ hai là sự làm giàu thêm hay đầy đủ. Chính yếu những gì chúng ta phải tịnh hóa là những khuyết điểm của tâm thức chúng ta. Sự tịnh hóa như thế không ngụ ý sự chấm dứt lập tức các khuyết điểm này, nhưng biểu thị hành động cẩn trọng của việc áp dụng những đối trị và hoàn toàn loại trừ chúng.
Bây giờ đây, những khuyết điểm mà chúng ta đang liên hệ đến là những nguồn gốc của khổ đau: nghiệp chướng và những cảm xúc phiền não cũng như những dấu vết [3] do chúng để lại. Những khiếm khuyết này có thể được loại trừ chỉ bằng việc áp dụng những đối trị thích ứng. Những dấu vết do các cảm xúc phiền não để lại làm chướng ngại con người đạt đến toàn tri toàn giác. Tâm thức từ bản chất tự nhiên của nó, có khả năng hiểu biết mọi thứ, nhưng những nhược điểm này che đậy hay chướng ngại tâm thức khỏi những tri giác như vậy. Loại trừ những chướng ngại này bằng việc phát triển những đối tác cần thiết được hoàn thành bởi tâm thức. Khi tâm thức hoàn toàn tự do khỏi chướng ngại, nó tự động trở nên tỉnh thức toàn diện, và hành giả thức tỉnh đến sự giác ngộ toàn triệt.
Thể trạng giác ngộ không phải là một loại thực thể vật lý nào đấy như một cư xứ thiên đàng. Đấy là phẩm chất nội tại của tâm thức khai mở trong năng lực tích cực toàn vẹn của nó. Do thế, nhằm để đạt đến thể trạng tỉnh thức này, hành giả phải bắt đầu bằng việc loại trừ những thứ tiêu cực của tâm thức và phát triển những phẩm chất tích cực từng thứ một. Đấy là tâm thức năng động áp dụng những đối trị trong tiến trình loại trừ những thúc đẩy và chướng ngại tiêu cực. Ở đấy đi đến một điểm khi những xúc cảm phiền não và chướng ngại tinh thần có thể không bao giờ tái diễn, bất chấp điều gì xảy ra. Cùng biểu hiện ấy, chính là tâm thức liên hệ độc nhất trong việc phát triển tuệ giác và tri thức tâm linh. Tuy thế, với một ít năng lượng tích cực có thể được bắt đầu, qua quá trình diễn biến tâm thức trở nên hoàn bị tròn đầy với tri thức và tỉnh thức của Phật Quả.
Mỗi tôn giáo thể giới có các đặc trưng phân biệt và những bông hoa riêng của nó. Nhưng, một cách căn bản, tất cả cùng chia sẻ những xu hướng và đối tượng chung. Kết quả, các tôn giáo đã là cội nguồn của lợi ích cho hàng triệu người qua hàng thế kỷ. Không có phủ nhận nào rằng qua sự thực hành chân thành, tín đồ tôn giáo đạt đến hòa bình của tâm hồn và trở nên những người mô phạm, khai hóa và tốt đẹp hơn. Họ đã tự làm cho họ thánh thiện, và cống hiến nhiều phụng sự vĩ đại cho nhân loại. Tuy nhiên, nhiều vấn nạn xã hội và chính trị cũng phát sinh từ việc lạm dụng tôn giáo. Họ đấu tranh với những người khác niềm tin, thậm chí đôi khi đi đến mức độ chiến tranh toàn diện. Tuy vậy, chúng ta nên tôn trọng sự đa dạng tôn giáo bởi vì con người có những tính khí và thiên hướng tinh thần khác biệt, sở thích và quan tâm bất đồng. Một tôn giáo , do thế, không thể thỏa mãn tất cả mọi người. Từ quan điểm này, trạng thái muôn màu muôn vẻ được ngưỡng mộ. 
Mỗi tôn giáo hữu dụng trong cách riêng của nó. Thật hão huyền để tưởng tượng nên chỉ có một tôn giáo cho toàn thế giới. Không phải mọi người Ấn Độ đều đã tiếp nhận Đạo Phật ngay cả trong chính thời Đức Phật tại thế. Điều này cũng đúng đối với những tôn giáo khác và những vị khai sáng nền đạo. Do vậy, tôi tin tưởng trong một sự hòa hiệp các tôn giáo, điều này là thực tiễn, có thể áp dụng, và có thể phát sinh những kết quả tích cực. Tôi ngưỡng mộ những việc làm tốt đẹp của những ai thuộc các tôn giáo khác. Đây là một cung cách thân thiện để kết giao bè bạn. Tôi có nhiều bằng hữu Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, và Ấn Độ Giáo. Trong phạm vi này, tiến hành những cuộc bàn cải và tranh luận triết lý dường như vô nghĩa đối với tôi. Điều gì tốt lành của việc thử thách vị thế giáo thuyết của những tín ngưỡng khác làm nên được?
Thay vì nuôi dưỡng sự ganh đua và tranh luận qua lại giữa tín đồ các tôn giáo, tôi đề nghị rằng chúng ta nên học hỏi từ những tín ngưỡng khác. Tu sĩ Phật Giáo Tây Tạng có thể thực hành những thí dụ của người Ki Tô Giáo trong việc phục vụ xã hội. Nhiều người đã cống hiến đời sống của họ để phụng sự những người đáng thương, nghèo cùng, và bị áp bức. Ở Calcutta[4], thí dụ có Mẹ Theresa. Nhiều Ki Tô hữu chăm sóc những người bệnh hủi mà hoàn toàn không quan tâm đến đời sống của chính họ. Có tu sĩ Tây Tạng nào làm việc đó không? Gần một nghìn năm trước, đại sư Tây Tạng Dromtonpa[5] thật sự đã làm việc ấy và đã đánh mất chân tay của ngài. Gần đây nhất, Tehor Kyorpon Rinpoche cũng chăm sóc những người khổ đau vì bệnh phong cùi. Do vậy, thay vì đối đầu, học hỏi với nhau sẽ thông tuệ hơn và có ý nghĩa hơn. Trong cách này, giáo đồ của mọi xu hướng tín ngưỡng có thể đóng một vai trò tích cực trong việc tạo nên thanh bình và hòa hiệp trong thế giới của chúng ta.
Bởi vì mọi người khác nhau và thiên hướng của họ đa dạng, nên Đức Phật đã dạy những quan điểm triết lý muôn màu sắc. Mục tiêu hoàn toàn trong giáo huấn của Ngài là để lợi ích chúng sinh, cuối cùng đưa họ đến hòa bình và giác ngộ. Giáo huấn của Đức Phật không phải là một lý thuyết cứng nhắc đòi hỏi tất cả môn đồ phải tuân thủ duy nhất và cùng một lý thuyết triết học. Trái lại, Đức Phật đưa ra nhiều trình độ khác nhau của việc giải thích để phù hợp với những trình độ thông tuệ và tính khí tinh thần đa dạng của đệ tử. Kết quả, ở Ấn Độ, bốn trường phái tư tưởng quan trọng đã hình thành. Thậm chí trong bốn trường phái tư tưởng chính, cũng có vô số các chi phái phụ.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng tất cả những gì Đức Phật đã dạy là muốn giúp chúng sinh và hướng dẫn họ trên con đường tâm linh. Giáo huấn của Ngài không phải là những ức đoán trừu tượng mà là bộ phận của tiến trình và kỷ năng cho việc chiến đấu với những cảm xúc phiền não. Chúng ta có thể nhận thức những thích hợp của các đối trị cho những cảm xúc phiền não khác nhau từ kinh nghiệm riêng của chúng ta. Đức Phật đã dạy rằng, để chống lại sân hận và thù oán chúng ta nên thiền quán trên từ ái. Đặt chú ý trên khía cạnh gớm ghiếc của đối tượng phục vụ cho việc làm xao lãng sự vướng mắc đến đối tượng. Có nhiều lập luận hợp lý để cho thấy rằng hiện tướng của sự tồn tại cố hữu (có tự tính) là một sai lầm. Nhận thức của sự tồn tại cố hữu là một loại si mê, và tuệ trí thân chứng tính không là đối thủ trực tiếp của nó.
Từ những giáo huấn như thế, chúng ta có thể kết luận rằng cảm xúc phiền não chỉ là những vọng tưởng tạm thời của tâm thức và chúng có thể được nhổ rể một cách hoàn toàn. Khi tâm thức hoàn toàn tự do khỏi những nhiễm ô, năng lực bản chất chân thật tự nhiên của nó – trong sáng và tỉnh thức – được khai mở một cách hoàn toàn. Khi sự thấu hiểu những điều này được làm phong phú, hành giả đi đến hiểu rõ giá trị khả năng của việc đạt đến niết bàn và Phật Quả. Điều này xảy đến như một sự phát giác diệu kỳ.
Chúng ta không phải xem những lời Đức Phật như điều gì đấy thiêng liêng mà chúng ta không thể khảo sát. Trái lại, chúng ta tự do để thẩm tra và xác minh giáo huấn của Ngài. Hành giả có thể nếm mùi vị những lời Phật dạy bằng việc đem chúng vào thực hành. Như một kết quả của kinh nghiệm cá nhân, hành giả đạt được sự thuyết phục và niềm tin trong giáo huấn. Điều này, tôi nghĩ, là đặc điểm vô song của Đạo Phật. Trong những tôn giáo khác lời của Thượng Đế hay đấng tạo hóa được xem như là tuyệt đối.
Có hai mục tiêu chính của con đường tâm linh trong phạm vi Đạo Phật. Đây là sự tái sinh cao thượng và những gì được biết là phẩm hạnh tốt đẹp rõ ràng, những điều liên hệ đến giải thoát khỏi tái sinh và tiếp cận sự giác ngộ hoàn toàn. Thật là mê ly để nghe một giải thích về những phương pháp chi tiết cho việc đạt đến những mục tiêu này. Môn đồ không bị đòi hỏi phải phụng thờ Đức Phật nhằm để đạt đến sự tái sinh cao quý. Nhưng được giải thích rằng sự tái sinh cao quý có thể đạt được bằng việc thực hành đạo đức của việc từ bỏ những hành vi bất thiện. Một sự chỉ dẫn như vậy là thực tiển và vững chãi một cách hợp lý. Do vậy, một cá nhân muốn đạt được sự tái sinh cao quý, như việc sinh ra như một con người, phải tránh những hành vi bất thiện.
Bây giờ chúng ta được sinh ra như một con người thành công và đẹp đẽ, người thụ hưởng một đời sống trường thọ, có những sự trao truyền vững chãi sâu xa. Để trở nên thịnh vượng trong tương lai, chúng ta cần thực tập bố thí trong kiếp sống này. Nếu chúng ta muốn thân tướng đoan chính với sự duyên dáng cá nhân, chúng ta phải được hướng dẫn thực tập kiên nhẫn và bao dung. Nhằm để thụ hưởng một đời sống trường thọ, chúng ta được chỉ dạy không tổn hại sự sống của những chúng sinh khác mà làm những gì chúng ta có thể giúp đỡ họ. Đây là những nguyên nhân và kết quả liên hệ một cách hợp lý với nhau.
Với sự tôn trọng thích đáng những tôn giáo khác, tôi tin tưởng rằng chỉ có Đạo Phật mới hướng dẫn giáo đồ của mình phát triển niềm tin và sức thuyết phục trên căn bản của luận lý [logic] và lý trí. Chắc chắn không có sự ép buộc hay thúc đẩy tin tưởng. Thực tế, một sự tiếp cận dựa trên lý trí được tôn trọng cao độ. Đức Phật đã từng nói rằng một cá nhân đạt đến sự tái sinh cao hơn bằng việc tạo nên những hành động tích cực và từ bỏ những hành vi tiêu cực như giết hại, trộm cắp, v.v… không phải bằng việc chỉ cúng dường hàng nghìn đèn bơ đến Đức Phật. Không phải chỉ niềm tin cho phát sinh những kết quả diệu kỳ, mà là để tâm tư đến những nguyên nhân đúng đắn.
Hãy để chúng ta thẩm tra một thí dụ đặc thù. Đức Phật đã hướng dẫn chúng ta thực tập nhẫn nhục do thế chúng ta sẽ được tái sinh như những con người tướng tốt. Sự biểu lộ đã rõ ràng. Khi một người sân hận, đôi mắt người ấy phồng lên và gương mặt phẫn nộ, cho dù người ấy thường có một khuôn mặt duyên dáng hay không. Không ai muốn ở gần những người sân hận, trái lại khi người nào đấy mỉm cười, chúng ta thích thú, ngay cả nếu đấy là một người xa lạ.
Những nền tảng giáo huấn của Đức Phật quan tâm việc quán chiếu luật nhân quả và thực tập Bốn Chân Lý Cao Quý. Do vậy, những ai khao khát hạnh phúc, thành công, và giải thoát rốt ráo cần tôn trọng triệt để những nền tảng này. Nếu chúng ta muốn những kết quả tích cực, chúng ta phải chú trọng những nguyên nhân đúng đắn của nó. Điều này có thể được soi sáng một cách đơn giản sau đây. Khi chúng ta muốn cải thiện hoàn cảnh tài chính, thật là khờ dại nếu cứ ôm giữ tiền bạc ấy và dấu nó dưới thắt lưng của chúng ta. Nó sẽ không tự tăng trưởng; chúng ta phải đầu tư nó. Điều này có nghĩa là ban đầu chúng ta phải lìa bỏ tiền bạc của chúng ta [qua việc đưa nó vào kinh doanh]. Chúng ta, do vậy, thấu hiểu luận lý của Đức Phật khi Ngài nói rằng thật quan trọng để thực hành bố thí nếu chúng ta muốn trở nên giàu có trong những kiếp sống sau. Từ những thí dụ như vầy, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng chúng ta có thể tin tưởng những lời của Đức Phật. Những gì Ngài dạy từ kinh nghiệm thân chứng của chính Ngài là thích đáng và lợi lạc cho mỗi chúng ta.
Nguyên tác: Motive and Aspiration (Trích từ quyểnAwakening the Mind, Lightening the Heart)
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
Ẩn Tâm Lộ ngày 01/06/2011

[1] Tâm tỉnh thức vị tha tức là tâm giác ngộ hay tâm bồ đề -bodhicitta
[2] Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và tuệ trí.
[3] Chủng tử nghiệp hay hạt giống phiền não
[4] Tên hiện tại là Kolkata, thủ phủ của tiểu bang Tây Bengal, và cũng là thủ đô thương mại của Đông Ấn Độ.
[5] Dromtonpa (AD 1004-1064) là một cao đồ của Atisa và là một trong những đạo sư truyền thừa của dòng Kadampa.
Source: thuvienhoasen

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

TỪ BI CỘI NGUỒN CỦA HẠNH PHÚC

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Alexander Berzin 
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 20/07/2011

Mục tiêu của đời sống là phấn đấu cho hạnh phúc
 blankChúng ta ở đây; chúng ta hiện hữu và chúng ta có quyền để tồn tại. Ngay cả những thứ không phải hữu tình chúng sinh như bông hoa cũng có quyền để tồn tại. Nếu một năng lực tiêu cực được sử dụng để chống lại chúng, thế thì, trên một trình độ hóa học, bông hoa tự chuẩn bị để sống còn. Nhưng [hơn thế nữa], chúng ta những con người kể cả bao gồm những côn trùng, thậm chí những con ký sinh trùng amip, những động sinh vật nhỏ nhất cũng được xem là những chúng sinh. [Và như những chúng sinh, chúng ta có nhiều những cơ cấu kỹ xảo hơn để giúp chúng ta tồn tại.]
Mọi thứ có thể chuyển động dưới ý chí hay khát vọng của chúng, đấy là một phương kế của "chúng sinh", theo những đàm luận mà tôi có với những nhà khoa học. "Chúng sinh" không nhất thiết có nghĩa là biểu hiện ý thức hay là con người trên một trình độ ý thức. Một cách thực sự thật khó khăn để định nghĩa ''ý thức'' hay ''sự nhận biết" có nghĩa là gì. Thông thường nó có nghĩa là một khía cạnh rõ ràng nhất của tâm thức, nhưng rồi thì, có phải không có ý thức khi chúng ta ngất xỉu hay bất tỉnh? Côn trùng có không? Có lẽ tốt hơn là nói với "khả năng nhận thức" hơn là với ý thức.
Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, điểm chính mà chúng ta đang liên hệ ở đây [bởi năng lực nhận thức] là khả năng để trải nghiệm những cảm giác: đớn đau, vui sướng, hay cảm giác trung tính. Một cách thực sự, vui sướng và đớn đau [và hạnh phúc hay khổ sở] là những thứ mà chúng ta cần thể nghiệm trong mức độ sâu xa hơn. Thí dụ, mọi chúng sinh có quyền để tồn tại và, cho tồn tại, điều này có nghĩa là có một khát vọng cho hạnh phúc và hay thoải mái: đó là tại sao chúng sinh cố gắng để tồn tại. Vì vậy, sự tồn tại của chúng ta là căn cứ trên hy vọng - hy vọng cho điều gì đấy tốt đẹp: hạnh phúc. Do bởi thế, tôi luôn luôn kết luận rằng mục tiêu của đời sống là hạnh phúc. Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọng và hạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta. Sức khỏe tùy thuộc trên tình trạng hạnh phúc của tâm thức.
Sân hận trái lại căn cứ trên cảm giác không an toàn và đem sợ hãi cho chúng ta. Khi chúng ta chạm trán điều gì đấy tốt đẹp, chúng ta cảm thấy an toàn. Khi điều gì đấy de dọa chúng ta, chúng ta cảm thấy bất an và rồi chúng ta trở nên giận dữ. Giận dữ là một bộ phận của tâm thức tùy thuộc từ những gì tổn hại sự sống còn của chúng ta. Nhưng giận dữ [tự nó làm chúng ta cảm thấy tệ hại và vì thế một cách căn bản, nó] là bất lợi cho sức khỏe của chúng ta.
Gắn bó là một yếu tố hữu ích cho sự sống còn. Do vậy, ngay cả cây cỏ, không có bất cứ yếu tố ý thức nào, vẫn có một khía cạnh hóa học nào đấy để nó tự bảo vệ và giúp cho sự tăng trưởng của nó. Thân thể chúng ta, trên trình độ vật lý là giống như thế. Nhưng, như những con người, thân thể chúng ta cũng có một yếu tố tích cực trên mức độ cảm xúc đem đến cho chúng ta để có sự gắn bó với những người khác hay quyến luyến đến sự hạnh phúc của chúng ta. [Sân hận, trái lại, với] yếu tố của nó là làm tổn hại, đẩy chúng ta khỏi mọi thứ [kể cả hạnh phúc]. Trên mức độ vật lý, niềm sung sướng [mà hạnh phúc mang đến] là tốt cho thân thể; trong khi sân hận [và nỗi khổ đau nó tạo nên] là tổn hại. Do vậy, [từ nhận thức theo đuổi cho sự sống còn,] mục tiêu của sinh tồn là để có một đời sống hạnh phúc.
Đây là trình độ căn bản của con người mà tôi đang nói đến; tôi không nói về tôn giáo, trình độ thứ hai. Trong trình độ thứ hai, dĩ nhiên, có những sự giải thích khác về mục tiêu của đời sống. Khía cạnh thứ đến thật sự khá phức tạp; do vậy, tốt hơn là chỉ nói trên mục tiêu căn bản của con người.
Hạnh phúc là gì?
Vì mục tiêu và sự theo đuổi của sự sống là hạnh phúc, vậy thì hạnh phúc là gì? Đôi khi sự khổ đau thân thể có thể ngay cả mang đến một cảm giác toại nguyện sâu xa hơn [như đối với một vận động viên sau một buổi luyện tập rả rời]. Do thế, "hạnh phúc có nghĩa một cách chính yếu là cảm giác toại nguyện. Đối tượng của đời sống hay mục tiêu của đời sống, thế thì là sự toại nguyện.
Hạnh phúc, buồn rầu hay khổ đau - đối với những thứ này, có hai trình độ: một trình độ cảm giác và một trình độ tinh thần. Trình độ cảm giác là thông thường với những động vật có vú nhỏ bé, ngay cả những côn trùng - một con ruồi. Trong thời tiết lạnh, khi mặt trời ló dạng, một con ruồi biểu lộ là một côn trùng hạnh phúc: nó bay chung quanh một cách thích thú. Trong một phòng lạnh lẽo, nó chậm lại: nó biểu lộ dấu hiệu buồn rầu. Nhưng, nếu có một não bộ phức tạp hơn, thế thì ngay cả có một cảm giác mạnh mẽ hơn của khoái cảm. [Thêm nữa, mặc dù], não bộ phức tạp của chúng ta là lớn nhất và do vậy, chúng ta cũng có sự thông minh.
[Hãy xem trường hợp của] những người không cảm thấy một sự đe dọa vật lý. Người ta có một đời sống vui vẻ và thoải mãi, những người bạn tốt, tiền lương, và danh dự. Nhưng rồi thì, chúng ta chú ý rằng ngay cả một số nhà triệu phú, thí dụ thế - họ cảm thấy rằng họ làm một bộ phận quan trọng của xã hội, nhưng thường thì đây là những người rất bất hạnh. Trong một vài trường hợp tôi đã gặp những người rất giàu có và ảnh hưởng đã biểu lộ một cảm giác rất phiền não, rằng sâu bên trong, họ có một xúc cảm đơn côi, căng thẳng và lo âu. Do vậy, trên trình độ tinh thần, họ đang đau khổ.
Chúng ta có óc thông minh kỳ diệu, vì thế trình độ tinh thần của kinh nghiệm chúng ta là vượt trội hơn trình độ vật chất. Nỗi đau vật lý có thể làm giảm còn tối thiểu hay khuất phục nó. Như một thí dụ nhỏ, một lúc nào đó trước đây tôi có một chứng bệnh ngặt nghèo. Rất đau đớn trong ruột. Vào lúc ấy tôi ở Bihar, một tiểu bang nghèo nhất Ấn Độ và khi tôi đã đi ngang qua Đạo Tràng Giác Ngộ và Na Lan Đà. Ở đấy, tôi thấy nhiêu trẻ em rất nghèo. Chúng thu nhặt phân bò. Chúng không có những điều kiện học vấn và tôi cảm thấy rất buồn. Rồi thì, gần Patna, thủ phủ của tiểu bang, tôi đã vô cùng đau đớn và đổ mồ hôi. Tôi đã chú ý một người già bệnh hoạn, một người đàn ông bệnh, quấn một tấm vải trắng, vô cùng dơ bẩn. Không ai lo lắng cho người ấy; thật rất buồn. Đêm hôm ấy trong khách sạn của tôi, cơn đau thân thể vô cùng nghiêm trọng, nhưng tâm ý tôi đang nghĩ về những đứa trẻ kia và ông già đó. Sự quan tâm ấy làm giảm thiểu rất nhiều cơn đau đớn của thân thể tôi.
Lấy một thí dụ về những ai rèn luyện cho Thế Vận Hội. Người ta thực hiện việc rèn luyện rất mãnh liệt, và bất kể đau đớn và lao nhọc như thế nào họ trải qua, trên trình độ tinh thần họ có hạnh phúc. Do thế, trình độ tinh thần là quan trọng hơn trình độ vật chất. Vì vậy, điều thật sự quan trọng trong đời sống là hạnh phúc và toại nguyện.
Nguyên Nhân của Hạnh Phúc
Bây giờ, nguyên nhân của hạnh phúc là gì? Tôi nghĩ rằng vì yếu tố thân thể này tiến triển tốt đẹp với một tâm thức tĩnh lặng, không với một tâm tư phiền não, do vậy một tâm thức tĩnh lặng là rất quan trọng. Bất chấp tình trạng thân thể chúng ta, sự tĩnh lặng tinh thần là quan trọng nhất. Vậy thì làm thế nào chúng ta đem đến một sự tĩnh lặng tâm hồn?
Bây giờ, để loại trừ tất cả những vấn nạn, điều ấy sẽ không thực tế; và làm tâm thức mờ tối và quên lãng về những vấn nạn của chúng ta, điều đó cũng không thể được. Chúng ta phải nhìn một cách rõ ràng vào những vấn đề của chúng ta và đối diện với chúng, nhưng cùng lúc ấy hãy giữ một tâm tư tịch tĩnh vì thế chúng ta sẽ có một thái độ thực tiễn và chúng ta có thể đối xử với chúng một cách tốt đẹp, đối phó với chúng một cách thiện xảo.
Như đối với những ai dùng thuốc giảm đau - à, tôi không có kinh nghiệm ấy. Tôi không biết nếu vào lúc người ta dùng thuốc giảm đau, sự thông minh của họ sẽ sắc bén hay mờ tối; tôi phải hỏi. Thí dụ, vào năm 1959, Mussoorie[1] hay có lẽ là ai khác đấy đã bị quấy rầy và băn khoăn rất nhiều: giấc ngủ bị làm phiền toái. Bác sĩ giải thích rằng có những loại thuốc nào đấy mà họ có thể dùng, nhưng điều này có thể làm cho đầu óc mờ tối đi một ít. Tôi đã nghĩ lúc ấy rằng như vậy là không tốt. Về một mặt, nếu ảnh hưởng là mờ tối, điều này không tốt. Tôi muốn liên hệ đến một cách khác. Tôi muốn có một chức năng thông tuệ và chú ý và cảnh giác hoàn toàn, nhưng không bị quấy rầy. Một sự tịch tĩnh tinh thần không bị quấy rầy là tốt nhất.
Cho điều này, tác dụng từ bi của con người thật là quan trọng: tâm thức càng từ bi, chức năng của não bộ càng tốt hơn. Nếu tâm thức chúng ta gia tăng sợ hãi và sân hận, rồi thì khi điều ấy xảy ra, chức năng của não bộ sẽ tệ hại hơn. Trong một trường hợp tôi gặp một nhà khoa học đã hơn tám mươi tuổi. Ông tặng tôi một quyển sách của ông ta. Tôi nghĩ nó được gọi là Chúng Ta là những Tù Nhân của Sân Hận, điều gì giống như thế. Trong khi đàm luận về kinh nghiệm của ông, ông nói rằng khi chúng ta phát sinh sân hận với một đối tượng, đối tượng hiện hữu rất tiêu cực. Nhưng chín mươi phần trăm sự tiêu cực ấy là trong sự phóng chiếu tinh thần của chúng ta. Đây là từ kinh nghiệm của chính ông.
Đạo Phật cũng nói giống như vậy. Khi cảm xúc tiêu cực phát triển, chúng ta không thể thấy thực tại. Khi chúng ta cần thực hiện một quyết định và tâm thức bị khống chế bởi sân hận; rồi thì đấy là những dịp để chúng ta đưa ra những quyết định sai lầm. Không ai muốn thực hiện một quyết định sai lầm, nhưng tại thời điểm ấy, bộ phận thông minh và não bộ của chúng ta thực hiện chức năng để phân biệt đúng và sai và làm một quyết định tuyệt diệu nhất, lúc ấy nó hoạt động một cách nghèo nàn. Ngay cả những lĩnh đạo lớn cũng kinh nghiệm như vậy.
Do thế, từ bi và tình cảm giúp não bộ thực hiện chức năng một cách trôi chảy hơn. Thứ đến, từ bi cho chúng ta sức mạnh nội tại; cho chúng ta sự tự tin và điều ấy làm giảm thiểu sợ hãi, là điều, lại làm cho tâm thức chúng ta tĩnh lặng. Do vậy, từ bi có hai chức năng: nó làm cho não bộ chúng ta thể hiện chức năng tốt hơn va nó đem đến sức mạnh nội tại. Rồi thì những điều này là nguyên nhân cho hạnh phúc. Tôi cảm thấy nó là như thế.
Dĩ nhiên, những khả năng khác cũng tốt cho hạnh phúc. Mọi người thích tiền bạc, thí dụ thế. Nếu chúng ta có tiền, rồi thì chúng ta có thể thụ hưởng những năng lực tốt đẹp. Thông thường, chúng ta xem đây là những thứ quan trọng hàng đầu, nhưng tôi nghĩ không phải thế. Sự thoải mái vật chất có thể đến qua nỗ lực vật lý, nhưng sự thư thái tinh thần phải đến qua nỗ lực tinh thần. Nếu chúng ta đi đến một cửa hàng và đưa tiền cho người bán hàng rồi nói rằng chúng tôi muốn mua sự bình an của tâm hồn, người ta sẽ nói là họ không có gì để bán. Nhiều người bán hàng sẽ cảm thấy rằng đây là điều gì ấy điên rồ và họ sẽ cười vào chúng ta. Một số thuốc tiêm hay thuốc uống nào đấy có thể đem đến một niềm vui tạm thời hay tĩnh lặng tâm thức tạm thời, nhưng không phải ở mức độ trọn vẹn. Chúng ta có thể thấy với một thí dụ của tâm lý trị liệu rằng chúng ta cần xử trí cảm xúc qua thảo luận và lý trí. Vì vậy, chúng ta phải sử dụng một phương pháp tinh thần. Do thế, bất cứ khi nào tôi thuyết giảng, tôi nói rằng chúng ta những con người hiện đại nghĩ quá nhiều về sự phát triển ngoại tại. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến mức độ ấy, như vậy không đủ. Niềm hạnh phúc và toại nguyện chân thật phải đến từ bên trong.
Những yếu tố căn bản cho điều ấy là từ bi và tình cảm nhân loại, và những điều này đến từ sinh học. Như một đứa bé, sự sinh tồn của chúng ta tùy thuộc một cách duy nhất vào tình cảm. Nếu có tình cảm ở đấy, chúng ta cảm thấy an toàn. Nếu nó không ở đấy, chúng ta cảm thấy băn khoăn và bất an. Nếu chúng ta bị tách rời khỏi bà mẹ chúng ta, chúng ta khóc. Nếu chúng ta trên đôi tay của mẹ và ôm chặt, ấm áp, thế thì chúng ta cảm thấy mừng vui và chúng ta yên lặng. Như một đứa bé, đấy là nhân tố sinh học. Thí dụ một nhà khoa học, vị thầy của tôi, một nhà sinh học liên hệ với việc chống lại bạo lực hạt nhân - ông nói với tôi rằng sau khi sinh ra, sự xúc chạm sinh học của bà mẹ trong vài tuần là rất quan trọng để làm lớn mạnh não bộ và sự phát triển của đứa bé. Nó đem đến một cảm giác an toàn và thoãi mái và điều này đưa đến một sự phát triển thích đáng về sự tăng trường thân thể, kể cả não bộ.
Do thế, hạng giống của từ bi và tình cảm không phải là điều gì đến từ tôn giáo: nó đến từ sinh học. Mỗi chúng ta đã đến từ bào thai của bà mẹ chúng ta và mỗi chúng ta sống còn qua sự săn sóc và tình cảm của bà mẹ chúng ta. Trong truyền thống Ấn Độ, chúng ta quan tâm đến việc sinh ra từ hoa sen ở cõi Tịnh Độ. Điều ấy nghe rất lý tưởng, nhưng có lẽ người ta có nhiều tình cảm hơn với những bông sen hơn là cho con người. Thế nên được sinh ra từ bào thai của một bà mẹ là tốt hơn. Sau đó chúng ta trang bị sẵn sàng với hạt giống từ bi. Vậy thì đấy là những nguyên nhân của hạnh phúc.
Compassion as the Source of Happiness
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama
Nottingham, England, 24 May 2008
Transcribed and lightly edited by Alexander Berzin
With clarifications indicated in violet between square brackets
Ẩn Tâm Lộ ngày 02/08/2011
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_lamrim/advanced_scope/bodhichitta/compassion_source_happiness.html

[1] Mussoorie là một thành phố và là nơi đặt ban đô thị (municipal board) của quận Dehradun thuộc bang Uttaranchal,Ấn Độ.

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

TÁM ĐỀ MỤC CHUYỂN HÓA TÂM

The Eight Verses of Thought Transformation 
By His Holiness the Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

blankTám đề mục chuyển hóa tâm, một văn bản của Kadampa hành giả Langri Tangpa giải thích tuệ trí và phương pháp thực hành của Ba la mật thừa (Paramitayana ), bảy đề mục đầu nói về phương pháp - từ bi yêu thương, tâm giác ngộ hay tâm bồ đề - đề mục thứ tám nói về tuệ trí.
1- Quyết định đạt đến lợi ích to lớn nhất có thể cho tất cả chúng sinh, những người quý báu hơn những viên ngọc ước, tôi sẽ luôn luôn ôm ấp họ như những người thân thương nhất.
Tự chính chúng ta và tất cả những chúng sinh khác muốn hạnh phúc và hoàn toàn thoát khỏi khổ đau. Trong điều này chúng ta thật sự bình đẳng. Tuy vậy, mỗi chúng ta chỉ là một cá thể, trong khi những chúng sinh khác là vô lượng.
Giờ đây, có hai thái độ để quan tâm: đó là vị kỷ yêu mến chính chúng ta và đó là yêu mến những những người khác. Thái độ tự yêu mến một cách vị kỷ làm cho chúng ta cứng nhắc, chúng ta nghĩ là chúng ta cực kỳ quan trọng và khao khát căn bản của chúng ta là cho chính chúng ta được hạnh phúc và cho mọi thứ diễn tiến tốt đẹp cho chúng ta. Tuy vậy, chúng ta không biết làm thế nào để đem đến điều này. Trên thực tế là hành động yêu mến vị kỷ không bao giờ làm cho chúng ta hạnh phúc.
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác. Và, hành động trong cách này, ngẫu nhiên tự họ trở nên rất hạnh phúc. Thí dụ, những chính trị gia chân thành quan tâm giúpđỡ hay phục vụ người khác thu hoạch những thành tích với sự tôn trọng, trong khi những ai đó luôn luôn lợi dụng và làm những việc xấu cho những người khác hạ bệ như những thí dụ của những kẻ xấu.
Tạm thời bỏ qua một bên tôn giáo, đời sống tái sinh và niết bàn, ngay cả trong đời sống hiện tại những người vị kỷ đem đến những phản ứng tiêu cực ngược lại cho chính họ bởi những hành động của vị kỷ của họ. Về phương diện khác, những người như mẹ Teresa, người chân thành cống hiến cả cuộc đời và năng lực vô vị lợi phục vụ cho những người nghèo túng, khốn cùng, và neo đơn, luôn luôn được ghi nhớ bởi những hành động cao quý của họ, với sự kính trọng; những người khác không có bất cứ điều gì tiêu cực để nói về họ. Thế thì, điều này là kết quả của sự yêu mến những kẻ khác: cho dù chúng ta có muốn hay không, ngay những kẻ không phải là người thân của chúng ta luôn luôn yêu thích chúng ta, cảm thấy vui vẻ với chúng ta và có một cảm giác ấm áp đối với chúng ta. Nếu chúng ta là loại người luôn luôn nói năng lịch sự trước mặt những người khác những lại nói xấu sau lưng họ, dĩ nhiên, không ai thích chúng ta.
Vì vậy, trong đời sống này, nếu chúng ta cố gắng giúp đở kẻ khác bằng nổ lực tối đa mà chúng ta có thể làm và có ít nhất những tư tưởng ích kỷ, chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm của hạnh phúc. Đời sống chúng ta không quá dài; một trăm năm là tối đa. Nếu trải qua đời sống này chúng ta cố gắng ân cần, với một trái tim ấm áp, lưu tâm cho lợi ích của những người khác và ít vị kỷ cùng giận tức, điều ấy sẽ thật tuyệt vời, xuất sắc, điếu ấy thật sự là nguyên nhân của hạnh phúc. Nếu chúng ta ích kỷ, luôn luôn đặt chính mình trước nhất và những kẻ khác là thứ yếu, kết quả chắc chắn là chúng ta sẽ hoàn tất cuối cùng. Trong ý nghĩ đặt chúng ta sau cùng và những người khác trước nhất là con đường để chúng ta tiến ra phía trước.
Vì vậy đừng lo lắng về kiếp sống tới hay niết bàn; những việc này sẽ tiến đến dần dần. Nếu trong kiếp sống này chúng ta duy trì là một người tốt, ấm áp, không ích kỷ, chúng ta sẽ là một công dân tốt của thế giới. Cho dù chúng ta là một Phật tử, một Ki tô hữu hay là một người cộng sản không quan hệ; điều quan trọng là khi nào chúng ta vẫn là một con người chúng ta nên là một con người tốt. Đấy là giáo nghĩa của Đạo Phật; đấy là thông điệp của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.
Tuy nhiên, giáo nghĩa của Đạo Phật chứa đựng mọi kỹ năng để loại trừ và nhổ gốc rễ vị kỷ và biến thành hiện thực thái độ yêu mến người khác. Thí dụ, văn bản tuyệt diệu của Tôn giả Bình Thiên (Shantideva), "Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát", rất hữu ích cho điều này. Tự chính chúng tôi thực hành theo quyển sách ấy; nó hữu dụng một cách tuyệt vời. Tâm tư chúng ta cực kỳ giảo quyệt và rất khó kiểm soát, nhưng nếu chúng ta tiến hành những tác động ảnh hưởng liên tục và kiên định, hành động không mệt mõi với suy luận hợp lý và phân tích cẩn thận, chúng ta sẽ có thể kiểm soát và chuyển hoá nó tốt hơn.
Một số triết gia Tây phương nói rằng chúng ta không nên đàn áp sự giận tức của chúng ta mà bày tỏ nó - rằng chúng ta nên thực tập giận tức! Tuy nhiên, chúng ta nên có một sự phân biệt rõ ràng quan trọng ở đây giữa những vấn đề tinh thần nên bày tỏ, biểu lộ và những vấn đề không nên làm như vậy. Thỉnh thoảng chúng ta có thể có những sai lầm thật sự và thật đúng đắn để chúng ta bày tỏ để gỡ mối day dứt, tự thán thay vì để nó trở thành một nội kết phiền muộn trong tâm ta. Nhưng chúng ta không nên biểu lộ nó bằng sự giận dữ. Nếu chúng ta nuôi dưỡng, ấp ủ những tâm tư phiền não tiêu cực như giận tức chúng sẽ trở thành một thành phần của cá nhân chúng ta; mỗi lần chúng ta biểu lộ giận dữ nó trở nên dễ dàng để biểu lộ như thế một lần nữa. Chúng ta cứ làm như thế lần này rồi lần khác cho đến khi chúng ta đơn giản chỉ là một người cuồng dại hoàn toàn không thể kiểm soát. Vì vậy, trong phạm trù của những vấn đề tinh thần, có những vấn đề nào đấy thích đáng để bày tỏ còn những vấn đề khác thì không nên.
Trước tiên chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc cố gắng để kiểm soát những tâm tư phiền não tiêu cực. Ngày đầu tiên, tuần đầu tiên, tháng đầu tiên chúng ta không thể kiêm soát chúng tốt đẹp được. Nhưng với sự liên tục tác động những tiêu cực của chúng ta sẽ dần dần giảm xuống. Tiến trình trong sự tu dưỡng phát triển tâm không phải đến từ việc dùng thuốc uống hay những thứ hóa chất khác; nó tùy thuộc vào việc kiểm soát tâm.
Vì vậy chúng ta có thể thấy rằng nếu chúng ta muốn hoàn thành những nguyện ước của chúng ta, là tạm bợ tức thời hay căn bản rốt ráo, chúng ta nên hướng thệ nguyện đến những chúng sinh khác nhiều hơn cả là những viên ngọc ước và luôn luôn yêu mến họ trên tất cả những thứ khác.
Câu hỏi: Có phải tất cả những mục tiêu của việc thực tập này để tu dưỡng phát triển tâm chúng ta hay thực sự là làm những việc để giúp đỡ những người khác? Điều nào là quan trọng hơn?
Trả lời: Cả hai đều quan trọng. Trước tiên, nếu chúng ta không có động cơ trong sạch, bất cứ những gì chúng ta làm có thể không hài lòng. Vì vậy, việc trước nhất chúng ta nên làm là phát triển động cơ trong sạch. Nhưng chúng ta không phải chờ cho đến khi động cơ ấy hoàn toàn phát triển trước khi thật sự hành động giúp đỡ những kẻ khác. Dĩ nhiên, để giúp đỡ những kẻ khác trong những phương thức hữu hiệu nhất có thể chúng ta phải hoàn toàn giác ngộ như những Đức Phật. Ngay cả giúp đỡ những người khác trong những phương thức rộng lớn bao quát cùng khắp chúng ta cần đạt đến những tầng bậc của một vị Bồ tát, đấy là, phải có kinh nghiệm trực tiếp, nhận thức vô phân biệt thực tại của tính không và phải đạt đến những năng lực ngoài những giác quan cảm giác thông thường, hay thần thông. Tuy vậy, có nhiều trình độ khác nhau để giúp đỡ những người khác. Ngay cả trước khi chúng ta đạt đến những phẩm chất này chúng ta có thể hành động như những vị Bồ tát, nhưng thông thường những hành động của chúng ta kém hiệu quả hơn những vị ấy. Vì vậy, không phải đợi cho đến khi chúng ta đầy đủ hoàn toàn những phẩm chất, chúng ta có thể phát sinh những động cơ tốt đẹp, hảo thiện và với sự cố gắng đấy để giúp đỡ những kẻ khác trong những phương thức tốt nhất mà chúng ta có thể hành động. Điều này là một sự tiếp cận cân bằng hơn và tốt hơn là chỉ đơn giản ẩn trú một nơi cô lập nào đấy để thiền định và tụng niệm. Dĩ nhiên, điều này tùy thuộc rất nhiều trên từng cá nhân. Nếu chúng ta tin tưởng rằng an trú tại một nơi biệt lập chúng ta có thể đạt được những sự thực chứng rõ rệt trong một thời điểm nào đấy, đó lại là chuyện khác. Có lẽ tốt nhất nên dành phân nửa thời gian của chúng ta để hoạt động và phân nửa kia để thực tập thiền định.
Câu hỏi: Tây Tạng là một xứ sở Phật giáo. Nếu những giá trị mà Ngài đã diễn tả là của Đạo Phật, tại sao có rất nhiều thứ không cân bằng trong xã hội Tây Tạng.
Trả lời: Con người yếu đuối. Mặc dù Tây Tạng đúng thực là một xứ sở Phật giáo, nó cũng có những người xấu hay hư đốn. Ngay cả trong những cơ sở chùa chiền, tu viện, cũng có thể trở thành thối nát hay biến thành nơi bị lợi dụng. Nhưng tất cả đều giống nhau, so sánh với nhiều xã hội khác, Tây Tạng thanh bình hơn, hòa hiệp hơn và ít có những vấn nạn hơn.
2- Khi kết thân với những người khác, tôi sẽ xem như tự mình là thấp nhất trong tất cả, và từ chiều sâu của con tim ôm ấp những người khác thân thương và quan trọng nhất.
Không kể chúng ta là ai với chúng ta, chúng ta thường nghĩ những việc như, “Tôi mạnh hơn người kia, “tôi đẹp hơn người kia”, tôi thông minh hơn người kia,” tôi giàu có hơn”, tôi xứng đáng hơn người kia rất nhiều”, v.v và v.v…- chúng ta phát sinh rất nhiều tự hào. Điều này không tốt. Thay vì vậy, chúng ta nên luôn luôn duy trì khiêm tốn. Ngay cả khi chúng ta giúp đỡ những kẻ khác và tham gia vào hoạt động từ thiện, chúng ta không nên xem chính mình trong cách kiêu căng như những người hộ vệ vĩ đại lợi ích những kẻ yếu. Điều này cũng là kiêu ngạo. Tốt hơn, chúng ta nên liên hệ trong những hành động như thế một cách thật khiêm tốn và nghĩ rằng chúng ta dâng hiến sự phụng sự của chúng ta đến mọi người.
Khi chúng ta so sánh chúng ta với những con thú, thí dụ, chúng ta có thể nghĩ, “ta có thân thể một con người” hay “ta là người thọ giới” và cảm thấy cao hơn những người khác. Cũng từ quan kiến ấy, chúng ta có thể nói rằng chúng ta có thân thể con người và đang thực hành lời Phật dạy và vì vậy chúng ta thật rất là hơn hẳn những côn trùng. Nhưng bằng cách khác, chúng ta có thể nói rằng những côn trùng thì thật vô tội và chẳng bao giờ lừa đảo, nhưng trái lại chúng ta thường dối trá, xuyên tạc, bóp méo chính mình trong trong những cách không thành thật để đạt đến mục tiêu cuối cùng hay tự làm mình hơn những người khác. Từ quan kiến này chúng ta phải nói là chúng ta thật tệ hơn những côn trùng, điều mà chúng chỉ tiến đến những hành động của chúng mà không giả vờ bất cứ điều gì. Đây là một phương pháp rèn luyện trong khiêm tốn nhún nhường.
3- Thận trọng, tỉnh giác, thời khắc một vọng tưởng xuất hiện trong tâm tôi, nguy hại cho chính mình và những người khác, tôi sẽ đối diện và ngăn ngừa nó không chút chậm trễ.
Nếu khảo sát tâm chúng ta tại những thời điểm mà chúng ta thật ích kỷ và bận rộn với chính mình để loại trừ những người khác, chúng ta sẽ thấy rằng tâm thức phiền não tiêu cực là gốc rễ của thái độ này. Vì lẽ chúng quấy rầy tâm chúng ta cực độ, thời điểm chúng ta để ý rằng chúng ta đang tiến đến gần sự ảnh hưởng của chúng, chúng ta nên áp dụng một số biện pháp hóa giải chúng. Đối thủ phổ thông với tất cả những tâm thức phiền não là thiền định trên tính không, nhưng cũng có thuốc giải đến từng loại đặc hữu mà chúng ta những người mới bắt đầu có thể áp dụng. Vì vậy, đối với chấp ngã, thủ trước, dính mắc, chúng ta thiền định trên tính xấu xí; với giận tức, trên yêu thương; với mù quáng si mê, trên duyên khởi; cho nhiều tư tưởng phiền não, trên hơi thở và năng lượng của gió.
Hỏi: Điều gì là tùy thuộc hưng khởi hay duyên khởi?
Trả lời: Mười hai khoen nhân duyên, hay nguyên khởi tùy thuộc tương liên. Chúng bắt đầu bằng vô minh và đi qua đến già và chết. Trên những trình độ vi tế hơn chúng ta có thể dùng duyên khởi như một nhân để chứng minh rằng mọi sự, mọi vật thì trống rỗng trong sự hiện hữu thật sự.
Hỏi: Tại sao chúng ta nên thiền định trên tính xấu xí để vượt thắng chấp ngã, thủ trước, hay dính mắc?
Trả lời:  Chúng ta phát triển sự chấp trước đến những sự kiện, sự vật bởi vì chúng ta thấy chúng như là rất hấp dẫn. Cố gắng để nhìn chúng như là không hấp dẫn, hay xấu xí, làm nó mất tác dụng hay hóa giải nó. Thí dụ, chúng ta có thể phát triển chấp trước đến thân thể một ai đấy, thấy hình dáng người ấy rất hấp dẫn. Khi chúng ta bắt đầu phân tích sự dính mắc này chúng ta thấy rằng nó chỉ căn cứ trên hình ảnh đơn thuần của làn da. Tuy nhiên, tính tự nhiên của thân thể này xuất hiện đến chúng ta như đẹp đẻ là thịt, máu, xương, da v.v… của điều nó tập hợp. Giờ đây hãy phân tích làn da con người: thí dụ, lấy của chính chúng ta. Nếu một mảnh da rơi ra và chúng ta để nó trong một ngăn khoảng vài ngày nó trở nên ghê gớm thật sự. Đây là tính tự nhiên của da. Tất cả những phần khác của thân thể cũng như vậy. Không có sự xinh đẹp trong từng mảnh thịt, của con người; khi chúng ta thấy máu chúng ta có thể cảm thấy sợ, không vướng bận. Ngay cả một khuôn mặt mỹ miều xinh đẹp: nếu nó bị trầy xước không có gì đẹp đẽ về nó; rửa sạch phấn son – không còn gì cả! Xấu xí là tính tự nhiên của thân thể vật lý. Xương người, cả bộ xương người, cũng là ghê sợ; hình ảnh sọ người cùng xương chéo X có một ý nghĩa thật tiêu cực và dữ dội.
Vâng đấy là phương pháp để phân tích đối với những gì mà chúng ta dính mắc, ái luyến, hay yêu mến - sử dụng ngôn ngữ này trong ý nghĩa tiêu cực của sự dính mắc khao khát ước vọng. Hãy suy nghĩ thêm những đối tượng về phương diện xấu xí; phân tích tính tự nhiên của con người hay sự vật từ quan điểm này. Ngay cả nếu điều này không kiểm soát sự vướng mắc, chấp trước của chúng ta hoàn toàn, tối thiểu nó cũng giúp chúng ta giảm bớt sự dính mắc một ít. Đây là mục tiêu của thiền định hay thiết lập nên thói quen quán sát khía cạnh xấu xí của những sự vật.
Một loại yêu thương khác, sự ân cần tử tế, nó không căn cứ trên lý do rằng “những người như vậy và như thế là xinh đẹp, vì vậy, tôi phải tôn trọng và tử tế.” Căn bản thiết yếu của lòng yêu thương tinh khiết là, “Đây là một chúng sinh muốn vui tươi hạnh phúc, không muốn phiền muộn khổ đau và có quyền để hạnh phúc. Vì vậy, tôi nên cảm nhận yêu thương và từ bi.” Loại yêu thương này hoàn toàn khác biệt với loại yêu thương đầu tiên, điều căn cứ trên sự si mê vô minh và vì vậy hoàn toàn không lành mạnh, không chính đáng. Đấy là những lý do của lòng yêu thương rộng lớn hay từ bi là lành mạnh, chính đáng, đúng đắn. Với tình yêu căn cứ trên sự chấp trước, hay dính mắc, nếu có một sự thay đổi nhỏ trên đối tượng, như một tí thay đổi của thái độ, lập tức là nguyên nhân để chúng ta đổi thay. Đấy là bởi vì cảm xúc của chúng ta chỉ căn cứ những gì trên bề mặt rất cạn cợt. Lấy một thí dụ, một cuộc hôn nhân mới mẻ. Thường thì sau vài tuần, vài tháng, hay vài năm cặp hôn nhân trở thành những kẻ thù và cuối cùng đi đến ly dị. Họ đã kết hôn trong sự yêu thương sâu lắng – không ai chọn thành thân với sự thù ghét – nhưng sau một thời gian ngắn mọi thứ thay đổi. Tại sao? Do bởi căn cứ cạn cợt trên bề mặt của mối quan hệ; một sự thay đổi nhỏ của một người là nguyên nhân cho một sự thay đổi hoàn toàn thái độ của người kia.
Chúng ta nên nghĩ, “người kia là một con người như tôi. Chắc chắn là tôi muốn hạnh phúc; vì vậy, cô ta /cậu ta cũng phải muốn hạnh phúc. Như một chúng sinh tôi có quyền để hạnh phúc; cùng lý do ấy, người kia cũng thế, có quyền để hạnh phúc an lạc. “Lý do chính đáng này cho khởi lên một lòng yêu thương và từ bi. Thế thì không cần biết quan niệm của chúng ta với sự thay đổi của người kia là thế nào – từ tốt đến xấu đến vô cùng tệ hại - người kia luôn luôn căn bản là một chúng sinh. Vì vậy, lý do chính để hiển lộ lòng từ bi yêu thương là luôn luôn ở đấy, cảm nhận của chúng ta đối với người kia là kiên định một cách toàn hảo.
Thuốc giải độc cho sân hận-giận tức là thiền định về yêu thương, bởi vì sân hận-giận tức là một tâm thức rất thô lỗ, sống sượng, cộc cằn vì thế cần được làm dịu dàng, mềm mỏng với tình yêu thương.
Khi chúng ta vui thích với những đối tượng mà chúng ta nối kết, gắn bó, hay dính mắc, chúng ta chắc chắn trải qua kinh nghiệm hân hoan, khoái lạc hay thú vị; nhưng như Tổ Long Thọ đã từng nói, điều ấy như có một mụn ngứa và gảy ngứa; nó cho chúng ta sự thích ý nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu trước tiên chúng ta đừng có cái mụn ngứa ấy. Cũng giống như thế, khi chúng ta nhận được những thứ mà với chúng ta bị ám ảnh, mê thích chúng ta cảm thấy vui sướng, nhưng chúng ta sẽ khá hơn nếu chúng được tự do với điều mà chúng ta bị dính mắc, vướng bận, mong mỏi và là nguyên nhân để chúng ta trở nên bị ám ảnh với những thứ ấy.
4- Bất cứ khi nào tôi thấy những chúng sinh xấu xa, tệ ác, nguy hại một cách tự nhiên và tràn ngập bởi những hành vi bạo động tiêu cực và khổ đau, tôi sẽ ôm ấp những người yêu mến hiếm hoi như vậy, y như là tôi vừa tìm thấy một kho tàng trân quý.
Nếu chúng ta quán sát những người như bởi tự nhiên rất bạo ác, thô lỗ, tục tằn và khó chịu, phản ứng thông thường của chúng ta là lẫn tránh người ấy. Trong những trường hợp như thế tình yêu thương của chúng ta hướng đến người khác có khả năng bị giảm sút. Thay vì cho phép tình yêu thương của chúng ta đến người khác yếu đuối bởi suy nghĩ rằng kẻ kia là một người xấu ác hay tội lỗi, chúng ta nên thấy người ấy như một đối tượng đặc biệt của tỉnh thương và từ bi và yêu mến người ấy dường như là chúng ta tình cờ bắt gặp một kho tàng quý giá, khó khăn để tìm thấy.
5- Khi, vì sự thèm muốn, đố kỵ, ghen tỵ, những người khác ngược đãi tôi với sự lạm dụng, xỉ vả hay gièm pha, …, tôi sẽ chấp nhận thua cuộc và dành thắng lợi cho những kẻ khác.
Nếu có những người xỉ vả, ngược đãi hay bình phẩm, chỉ trích chúng ta, nói rằng chúng ta kém cõi, bất tài, không đủ khả năng làm bất cứ việc gì, v.v…, chúng ta chắc là có thể rất giận dữ và phản bác lại những gì người kia nói. Chúng ta không nên hành động như vậy, thay vì thế, với sự khiêm tốn và bao dung, chúng ta nên chập nhận những gì đã được phát biểu.
Nơi mà nói rằng chúng ta nên chấp nhận thất bại và nhường sự thắng lợi cho người khác, chúng phải phân làm hai loại khác nhau của tình trạng. Nếu một mặt, chúng ta bị ám ảnh với lợi ích của chính chúng ta và động cơ rất là ích kỷ, chúng ta nên chấp nhận thua cuộc và nhường chiến thắng cho kẻ khác, ngay cả có thể đời sống chúng ta bị lâm nguy. Nhưng có thể về phương diện khác, trường hợp tình trạng như vậy mà quyền lợi của những kẻ khác bị lâm nguy, chúng ta phải hành động thật năng nỗ và đấu tranh vì quyền lợi của những người khác, và không chấp nhận thua cuộc với bất cứ giá nào.
Một trong bốn mươi sáu thệ nguyện của một vị Bồ Tát liên hệ đến một trường hợp khi mà ai đấy làm những hành vi rất là tai hại và chúng ta phải dùng đến những biện pháp vũ lực hay bất cứ cách nào khác cần thiết để chấm dứt những hành vi bạo ngược của kẻ ấy lập tức – nếu chúng ta không hành động, chúng ta vị phạm lời thệ nguyện ấy. Có thể thấy rằng lời thệ nguyện của một vị Bồ Tát và đề mục thứ năm này, nói rằng một người nên chấp nhận thua cuộc và nhường thắng lợi cho kẻ khác, là mâu thuẫn, nhưng không như vậy. Thệ nguyện của một vị Bồ Tát đáp ứng với một tình trạng mà điểm chính yếu là sự quan tâm của một người đối với quyền lợi của những kẻ khác: nếu ai đấy đang làm những hành vi cực kỳ tai hại và nguy hiểm thì thật là sai lầm nếu không có những hành động mạnh mẻ để chấm dứt chúng, nếu cần thiết.
Ngày nay, ngay trong những xã hội tranh đua, những hành động tự vệ mạnh mẽ hay tương tự như thế thì thường luôn luôn được đòi hỏi. Động lực như thế này không nên bị ích kỷ nhuốm màu nhưng là những cảm giác rộng rãi bao la của ân cần và từ bi yêu thương đối với kẻ khác. Nếu chúng ta hành động với những cảm nhận, ý thức như thế để hổ trợ, cứu giúp kẻ khác tránh khỏi tai họa do những nghiệp cảm tiêu cực tạo ra, điều này hoàn toàn đúng đắn.
HỎI: Nếu đôi khi có thể cần thiết để có những hành động mạnh mẽ khi chúng ta thấy những điều gì ấy là sai, nhưng phán đoán của ai mà chúng ta có thể tin tưởng đối với những quyết định như thế? Chúng ta có thể dựa trên nhận thức của chính chúng ta đối với thế giới không?
ĐÁP: Điều ấy thật phức tạp. Khi chúng ta quyết định nhận lấy phần thua cho chính mình, chúng ta phải thấy hoặc nhường phần thắng cho kẻ kia sẽ lợi ích cho họ căn bản hay chỉ tạm thời. Chúng ta cũng phải quan tâm ảnh hưởng mà khi nhận phần thua trên chính mình sẽ có trên khả năng hay năng lực của chúng ta để hỗ trợ kẻ khác trong tương lai. Nó cũng có thể là bằng việc hành động điều gì ấy mà tai hại đến kẻ khác ngay bây giờ, chúng ta tạo nên một công đức to lớn và nó sẽ có thể hỗ trợ cho chúng ta làm những việc lợi ích rộng lớn hơn cho những kẻ khác về lâu về dài; đây là một nhân tố khác chúng ta phải tiếp nhận vào trong nhận thức và tạng thức, về tầm quan trọng của nó.
Như đã nói trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát” (Bodhicaryavatara), chúng ta phải thử nghiệm, cả bề mặt và chiều sâu, không biết những lợi ích của những hành động vốn vị cấm đoán là có nhiều tác dụng hơn là nhược điểm hay không. Tại những thời điểm khi nó thật khó khăn để mà phán quyết, chúng ta nên kiểm soát lại động cơ thúc đẩy. Trong Toát yếu Giáo nghĩa Đạo Phật (Shiksa-Samuccaya), Bình Thiên Tôn giả nói rằng những lợi ích của những hành động được làm với tâm bồ đề có tác dụng nhiều hơn là những tiêu cực đối với khi hành động không có động cơ như thế. Mặc dù nó cực kỳ quan trọng, những có thể đôi khi thật khó khăn để thấy lằn ranh giữa điều gì nên làm và điều gì không nên làm, vì vậy, chúng ta nên học hỏi những kinh luận giải thích về những điều như thế. Trong những luận giải thấp hơn nó sẽ nói rằng những hành vi nào đấy là bị cấm đoán trong khi những luận giải cao hơn nói với chúng ta rằng cũng cùng những hành vi ấy nhưng được cho phép. Càng thông hiểu hơn về tất cả những điều này nó càng dễ dàng hơn, nó sẽ được quyết định điều gì nên làm trong bất cứ mọi trạng huống.
6- Khi những ai đấy mà tôi đã từng làm lợi ích đến và trong những ai đấy tôi đã từng có những niềm hy vọng lớn lao lại mang đến cho tôi những tai họa khủng khiếp, tôi sẽ nhìn người ấy như bậc đạo sư thánh thiện của tôi.
Thông thường chúng ta dự tưởng rằng những ai đấy mà mình từng giúp đở những gì to tát là phải rất biết ơn chúng ta và nếu họ lại hành động đến mình với sự vô ơn chắc là chúng ta phải giận dữ. Trong những trường hợp như thế, chúng ta không nên khó chịu nhưng thay vì thế phải thực hành nhẫn nại. Hơn thế nữa, chúng ta nên thấy những người như thế là những vị thầy thử thách sự nhẫn nhục của chúng ta và vì thế nên đối xử với họ một cách tôn trọng. Đề mục này chứa đựng tất cả trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố Tát” về nhẫn nhục.
7- Trong vắn tắt, cả trực tiếp và gián tiếp, tôi xin dâng hiến mọi niềm hạnh phúc, an lạc và lợi ích đến tất cả những bà mẹ của tôi. Tôi sẽ gánh vác một cách bí mật trên tôi tất cả những hành động tai hại và khổ đau của họ.
Điều này hướng đến việc thực hành gánh vác trên chính chúng ta tất cả những khổ đau của những người khác và dâng hiến đến họ tất cả những niềm hạnh phúc, an lạc của chúng ta, động cơ thúc đẩy bởi lòng từ bi và yêu thương mạnh mẽ. Tự chính chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau và có thể thấy rằng tất của hữu tình chúng sinh cũng cảm nhận như thế. Chúng ta cũng có thể thấy rằng những hữu tình chúng sinh khác ngập tràn khổ đau nhưng không biết làm thế nào để lìa xa chúng. Vì vậy, nên phát sinh ý niệm gánh vác tất cả những khổ đau và nghiệp báo tiêu cực và nguyện cầu cho nó chin muồi, trổ quả trên chính chúng ta ngay lập tức. Giống như thế, rõ ràng những hữu tình chúng sinh trống vắng hạnh phúc, họ tìm kiếm nhưng không biết làm thế nào để gặp được hạnh phúc. Vì vậy, không có chút gì bỏn xẻn xen lẫn, chúng ta nên dâng hiến cho họ tất cả những hạnh phúc của chúng ta – thân thể, phú quý và công đức – và cầu nguyện cho những điều này chín muồi, kết quả trên họ ngay lập tức.
Dĩ nhiên, không chắc rằng chúng ta thật thực sự có thể gánh vác những khổ đau của kẻ khác và trao tặng hạnh phúc của chúng ta cho họ. Khi những hoán chuyển như thế giữa những hữu tình chúng sinh thật sự xảy ra, nó là kết quả của một số liên hệ nghiệp quả liên tục rất mạnh mẽ nào đấy từ quá khứ kiếp. Tuy thế, sự thiền định đề mục này là rất mãnh liệt có ý nghĩa của việc xây dựng nên sự can đảm trong tâm chúng ta và vì thế là một thực hành có lợi ích cao thượng.
Trong “Bảy điểm chuyển hóa tâm” nói rằng chúng ta nên luân phiên thực hành “cho và nhận” và trang bị chúng trên từng hơi thở. Và ở đây, Langri Tangpa nói rằng những điều này nên được hoàn thành một cách bí mật. Khi nó được giải thích trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bồ tát”, điều thực hành này không thích hợp với tâm lý những Bồ tát sơ tâm – nó là những gì được chọn lựa ở một số ít hành giả. Vì thế, nó được gọi là bí mật.
HỎI: Trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, Bình Thiên Tôn Giả nói rằng: “…nếu vì lợi ích của kẻ khác mình làm tổn hại chính mình, tôi sẽ đảm nhận tất cả, điều ấy thật cừ khôi, trác tuyệt. Mặt khác, Tổ Sư Long Thọ nói rằng, chúng ta không nên hành hạ thân thể mình. Thế thì, trong phương thức nào của Tôn Giả Bình Thiên lại có ý nghĩa một người nên làm tổn hại chính mình?
ĐÁP: Điều này không có nghĩa là chúng ta phải tự đánh vào đầu mình hay những việc tương tự. Tôn Giả Bình Thiên (Shantideva) đang nói rằng tại nhưng thời điểm khi những tư tưởng tự luyến ái khởi lên mãnh liệt chúng ta phải tranh luận rất mạnh mẽ với chính mình và dùng những ý nghĩa sinh động đầy sức thuyết phục để chinh phục hay làm dịu chúng xuống; trong ý nghĩa khác, chúng ta phải tự làm tổn hại hay hao mòn tâm thức tự ngã ái luyến chính mình. Chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa cái "tôi" hoàn toàn bị ám thị với những quyền lợi của chính nó và cái "tôi" sẽ trở nên giác ngộ: đấy là một sự khác biệt lớn lao. Và chúng ta phải thấy câu này của “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố tát”, trong văn bản với những dòng này trước và thực hành theo. Có nhiều cách khác nhau cái "tôi" được bàn cãi: sự vướng mắc chấp trước chính là đặc tính của cái "tôi", ái luyến tự ngã, cái "tôi" mà chúng ta phối hợp với nó trong sự quán sát những sự kiện từ quan điểm của những kẻ khác và v.v... Chúng ta phải thấy sự bàn luận về tự ngã trong những luận giải khác nhau.
Nếu nó thật sự lợi ích cho người khác, nếu nó lợi ích ngay cả cho một chúng sinh, nó xứng đáng cho chúng ta đảm đương trên chính mình những khổ đau hiện hữu trong tam giới hay đi đến một trong những địa ngục, và chúng ta nên có sự can đảm, dõng cảm để làm điều này. Để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của chúng sinh chúng ta nên hoan hỉ, quyết tâm và tự nguyện để sống ở địa ngục thấp nhất, ngục A tỳ, trong thời gian vô tận. Đây là ý nghĩa của việc đảm đương những tổn hại, điều làm khổ sở, đớn đau,ưu phiền của kẻ khác trên chính chúng ta.
HỎI: Chúng ta phải làm gì để vào địa ngục thấp nhất?
ĐÁP: Điểm để phát triển lòng quả cảm, can đảm, dõng mãnh là quyết tâm tự nguyện để đi đến một trong những địa ngục; nó không có nghĩa là chúng ta thật sự phải đi đến đấy. Khi hành giả Kadampa geshe Chekawa đang sắp viên tịch, ngài đột nhiên gọi đệ tử của ngài và yêu cầu họ làm những sự cúng dường, những đàn tràng và cầu nguyện cho ngài bởi vì những sự hành trì của ngài đã không thành tựu. Những đệ tử rất bất an bởi vì họ nghĩ rằng có điều gì kinh khiếp không lành sẽ xảy ra. Tuy nhiên, ngài giải thích rằng, mặc dù suốt cuộc đời ngài đã từng cầu nguyện để được sinh ra trong những địa ngục vì lợi ích của kẻ khác, giờ đây, ngài tiếp nhận một linh cảm thuần khiết của những gì sẽ tiếp diễn - ngài sẽ được tái sinh ở cõi Tịnh Độ thay vì ở địa ngục - và đấy là tại sao ngài bối rối. Cũng như thế, nếu chúng ta phát triển một nguyện ước mãnh liệt, chân thành để tái sinh trong những cảnh giới thấp nhất vì lợi ích của những chúng sinh khác, chúng ta sẽ tích tập được một công đức to lớn vô biên và điều ấy sẽ mang đến những kết quả ngược lại.
Đó là tại sao chúng tôi nói rằng, nếu chúng ta ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông minh. Thực tế, hay hẹp hòi, ích kỷ làm nguyên nhân chúng ta đi xuống; thông minh ích kỷ đưa chúng ta đến Phật quả. Điều ấy thật sự thông tuệ! Bất hạnh thay, điều chúng ta thường làm trước nhất là đến với Phật quả. Theo kinh điển, chúng ta hiểu rằng để đạt đến Phật quả chúng ta cần tâm bồ đề và nếu không có nó chúng ta không thể trở nên giác ngộ; vì vậy chúng ta nghĩ, "tôi muốn quả Phật, vì thế tôi phải thực hành bố đề tâm." Chúng ta không quá quan tâm nhiều đến bồ đề tâm cũng như Phật quả. Điều này là sai lầm một cách chắc chắn. Chúng ta phải làm ngược lại; hãy quên động cơ ích kỷ và thật sự nghĩ làm thế nào để giúp kẻ khác.
Nếu chúng ta đến địa ngục chúng ta không thể giúp đỡ cho người khác hay chính mình. Chúng ta làm thế nào để giúp? Không phải chỉ bằng bố thí cho họ vài thứ gì đấy hay thi thố thần thông, nhưng bằng diễn giảng giáo pháp. Tuy nhiên, trước nhất chúng ta phải có đủ năng lực để giảng dạy. Hiện tại chúng ta không thể giải thích toàn bộ con đường - tất cả những sự hành trì và kinh nghiệm mà một người phải tiến từng bước từ trình độ thứ nhất đến cuối cùng, giác ngộ. Có thể chúng ta có thể giải thích một vài cấp độ sơ cơ qua kinh nghiệm của chính chúng ta, nhưng không thể nhiều hơn thế. Để có thể hỗ trợ những người khác trong phương pháp rộng rãi nhất bằng sự hướng dẫn họ theo toàn bộ con đường giác ngộ, trước hết chúng ta phải giác ngộ cho chính mình. Vì lý do này chúng ta nên thực hành tâm bố đề. Điều này hoàn toàn khác biệt với cách suy nghĩ thông thường của chúng ta, khi mà chúng ta bị buộc phải nghĩ về những người khác và dâng hiến trái tim của chúng ta cho họ do bởi sự quan tâm ích kỷ về sự giác ngộ của chính chúng ta. Cách này hướng về những thứ hoàn toàn sai lạc, một loại lừa phỉnh.
HỎI: Tôi đọc trong một quyển sách nói rằng chỉ bằng thực hành giáo pháp chúng ta ngăn ngừa chín thế hệ thân quyến của chúng ta phải sinh vào địa ngục. Điều ấy có đúng không?
ĐÁP: Đấy là một ít phô trương! Thật sự khả dĩ những việc như thế có thể xảy ra, nhưng thông thường nó không quá đơn giản như thế. Thí dụ, chúng ta trì niệm mật ngôn OM MANI PADME HUM và dâng hiến công đức ấy cho sự nhanh chóng đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Chúng ta có thể nói rằng chỉ bằng sự trì niệm mật ngôn chung ta sẽ tốc chứng giác ngộ, nhưng chúng có thể nói rằng những sự thọ trì như thế hành động như sự đóng góp cho NHÂN của giác ngộ. Giống như thế, trong khi sự thực hành giáo pháp của chúng ta sẽ không tự hỗ trợ thân quyến của chúng ta không đến những sự tái sinh thấp hơn, nhưng nó có thể hoạt động như một sự góp phần cho NHÂN này.
Cho dù đây không phải là trường hợp, nếu sự hành trì của chúng ta hoạt động như nguyên nhân chính yếu của một kết quả kinh nghiệm bởi những người khác, nó sẽ mâu thuẫn với luật nghiệp báo, sự liên hệ giữa nguyên nhân và hiệu quả. Thế thì chúng ta chỉ giản dị ngồi lại và nghĩ ngơi thoải mái và để chư Phật cùng các vị Bồ Tát làm mọi thứ cho chúng ta; chúng ta sẽ không phải nhận lấy một trách nhiệm nào đối với lợi ích của chính mình. Tuy thế, Đấng giác ngộ hoàn toàn đã từng nói rằng tất cả những gì ngài có thể làm là giảng dạy, chỉ dẫn chúng ta giáo pháp, con đường giải thoát khỏi khổ đau, và thế là nó tuỳ thuộc vào chúng ta đặt mình vào sự thực hành - Ngài đã rửa tay của Ngài đối với trách nhiệm ấy! Như đạo Phật đã dạy rằng không có đấng tạo hoá và rằng chúng ta tạo dựng mọi thứ cho chính chúng ta, vì thế chúng ta là đạo sư của chính chúng ta - trong giới hạn của luật nhân quả. Và đây là luật nghiệp báo dạy rằng nếu chúng ta làm việc lành chúng ta sẽ trải qua kết quả kinh nghiệm lành và nếu chúng ta làm việc xấu chúng ta sẽ phải trải qua những kinh nghiệm của bất hạnh, khổ đau.
HỎI: Làm thế nào để phát triển nhẫn nhục?
ĐÁP: Có rất nhiều phương pháp. Tri thức và tin tưởng vào luật nghiệp báo tự chinh nó sinh ra nhẫn nhục. Chúng ta nhận thức rằng, "điều khổ đau này tôi đang gánh chịu là lỗi lầm của tôi hoàn toàn, kết quả của những hành động của chính tôi tạo nên trong quá khứ. Vì rằng tôi không thể tránh khỏi nó tôi phải sống với nó. Tuy vậy, nếu tôi muốn tránh khổ đau trong tương lai tôi cũng có thể hành động bằng sự phát triển đạo đức như nhẫn nhục chẳng hạn. Tức tối hay giận dữ với khổ đau này sẽ chỉ tạo nên những nghiệp tiêu cực, nguyên nhân của bất hạnh tương lai". Đây là một cách thực hành nhẫn nhục.
Một việc khác chúng ta có thể làm là thiền định trên sự khổ đau tự nhiên của thân thể: "Thân thể và tâm thức này là cơ sở của tất cả những khổ đau, nó là tự nhiên và không có cách nào trông mong rằng khổ đau ơi, đừng khởi lên." Loại nhận thức này hỗ trợ rất hiệu quả cho việc phát triển nhẫn nhục.
Chúng ta cũng có thể nhắc lại những gì đã nói trong “Hướng dẫn về đời sống của con đường Bố Tát” (Bodhicaryavatara):
Tại sao không vui vẻ với những gì, Nếu nó có thể được cứu chữa? 
Và điều gì là thói quen của chúng sinh không vui vẻ về những gì, Nếu nó không thể được cứu chữa?
Nếu có một phương pháp vượt thoát khổ đau hay một cơ hội để làm như thế, chúng không phải lo lắng. Nếu thật sự không có gì chúng ta có thể làm để thoát khổ, lo lắng không giúp được gì cả. Điều này thật đơn giản và rất rõ ràng.
Những gì khác chúng ta có thể làm là suy tư sự bất lợi của tức giận và thuận lợi của thực hành nhẫn nhục. Chúng ta là những con người - một trong những phẩm chất hơn hẳn của chúng ta là khả năng suy nghĩ và phán đoán của chúng ta. Nếu chúng ta mất nhẫn nại và lại tức giận, chúng ta mất đi khã năng để thực hiện những phán xét cụ thể và vì thế mất đi một trong những công cụ hiệu lực nhất mà chúng ta có để giải quyết những vấn nạn: đấy là tuệ trí của con người. Đây là những gì mà thú vật không có. Nếu chúng ta mất đi nhẫn nhục, và lại cáu tức chúng ta đang làm tổn hại đến công cụ quý giá này. Chúng ta nên nhớ điều này; nó càng tốt hơn nhiều để có can đảm và quyết định và đối diện với khổ đau bằng nhẫn nhục.
HỎI: Làm thế nào chúng ta có thể khiêm tốn hay bình thường trong khi cùng lúc hiện thực về những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta sở hữu?
ĐÁP: Chúng ta phải phân biệt giữa sự tin tưởng vào những khã năng và tự hào của chúng ta. Chúng ta phải nên tin tưởng vào bất cứ những phẩm chất và khả năng thiện xảo mà chúng ta có và sử dụng chúng một cách quả cảm, can trường, nhưng chúng ta không nên có cảm xúc kiêu căng, ngạo mạn, tự mãn về chúng. Hiện hữu khiêm tốn hay bình thường không có nghĩa là cảm thấy hoàn toàn bất tài, kém cỏi, và không tự lo liệu được. Sự khiêm tốn nhún nhường được phát triển như sự đối lập với tự kiêu, nhưng chúng ta nên sử dụng bất cứ những phẩm chất tốt đẹp nào mà chúng ta có đến sự trọn vẹn của nó.
Một cách lý tưởng, chúng ta nên có một sự đáp ứng rộng rãi của lòng can trường, quả cảm và năng lực nhưng không phải là sự khoác lác, niềm kiêu hãnh hay làm một sự phô trương lớn về nó. Rồi thì, những khi cần, chúng ta nên vươn lên đến những trường hợp cụ thể và chiến đấu một cách dõng mảnh cho những gì đúng. Điều này là toàn hảo. Nếu chúng ta không có những phẩm chất tốt đẹp này mà lại khoác lác mọi nơi rằng chúng ta vĩ đại thế nào và trong khi cần thiết lại co đầu rút cổ lại một cách hoàn toàn, chúng ta chỉ là ngược lại. Người thứ nhất thì rất can đảm, quả cảm nhưng không tự hào; người kia thì rất tự kiêu nhưng không có can trường, dũng cảm.
8- Thuần khiết trước những vết nhơ của sự mê tín, vướng mắc trên tám sự lưu tâm thế gian, nguyện cho tôi, bằng sự nhận thức tất cả những hiện tượng như ảo tưởng, được giải thoát khỏi sự trói buộc của vướng mắc, chấp trước.
Đề mục này tương ứng với tuệ trí. Tất cả những thực hành trước không nên bị nhuốm bẩn bởi những vết nhơ của mê tín, vướng mắc đối với tám pháp thế gian (Bát phong: khổ - vui, được – mất, hơn – thua, khen – chê). Tám điều này có thể liên hệ như trắng, đen hay lẫn lộn. Chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hoàn hảo nếu chúng tôi giải thích đề mục này từ quan điểm của những sự thực hành được hoàn tất mà sự hiện hữu của chúng không bị nhuốm bẩn bởi nhận thức sai lạc của vưởng mắc đến sự tồn tại thật sự- sự mê tín, chấp trước của tám pháp thế gian.
Làm thế nào một người có thể tránh bị nhuốm bẩn sự thực hành của mình trong cách này? Bằng sự nhận thức tất cả sự hiện hữu hay tồn tại như ảo tưởng và không liên hệ với sự tồn tại thật sự. Trong cách này, một người được giải thoát khỏi trói buộc của loại liên hệ hay bám víu này.
Để giải thích ý nghĩa của "ảo tưởng" ở đây: sự tồn tại thật sự xuất hiện trong khía cạnh của nhiều đối tượng khác nhau, bất cứ nơi nào chúng là rõ ràng hiển nhiên, nhưng thực tế không có sự tồn tại thật sự ở đó. Sự tồn tại thật sự xuất hiện, nhưng không có gì- nó là một ảo tưởng. Mặc dù mọi thứ tồn tại xuất hiện như sự hiện hữu một cách thật sự, nó thì trống rỗng, một sự tồn tại trống rỗng. Thấy những đối tượng là trống rỗng của hiện hữu - rằng ngay cả sự tồn tại thật sự xuất hiện, không có gì, nó là ảo ảnh, hão huyền, không thực có - một người phải nên định rõ sự hiểu biết về ý nghĩa của tính không: tính không xuất hiện rõ ràng, sự xuất hiện rõ ràng của tính không.
Trước nhất một người nên chắc chắn rằng tất cả mọi hiện tượng là trống không của sự tồn tại thật sự. Rồi thì về sau, khi mà có điều thuần tuý tự nhiên xuất hiện là tồn tại một cách thật sự, người ấy phản bác lại sự tồn tại thật sự bằng sự nhắc lại điều hiểu biết chắc chắn của mình trước đây là hoàn toàn vắng bóng của sự tồn tại thật sự. Khi chúng ta đặt hai điều này chung với nhau - sự hiện hữu của sự tồn tại thật sự và tính không của nó như kinh nghiệm trước đây - chúng ta khám phá sự ảo tưởng của mọi hiện tượng.
Tại thời điểm này không cần một sự giải thích về phương thức những sự kiện xuất hiện như ảo tưởng tách rời với những điều vừa trình bày. Bài này chì giải thích đến sự thiền định trên tính không. Mật tông tantric giảng dạy như Guhyasamaja tantra, rằng điều gọi là ảo tưởng thì hoàn toàn riêng biệt; trong đề mục này. điều được gọi là ảo tưởng không phải được biểu hiện một cách riêng biệt. Vì vậy, sự tồn tại thật sự của điều hoàn toàn tự nhiên là đối tượng của sự phản bác và nên bị bẻ lại. Khi những sự kiện, sự vật xuất hiện dứơi phương thức ảo tưởng hưng khởi một cách gián tiếp: chúng dường như là tồn tại một cách thật sự nhưng chúng không như thế.
HỎI: Làm thế nào những thứ không thể tìm thấy và tồn tại một cách đơn thuần bởi sự đổ vấy cho cơ chế vận hành?
ĐÁP: Điều ấy thật khó khăn. Nếu chúng ta có thể nhận thức rằng chủ thể và hành động tồn tại bởi lý do của sự hiện hữu tùy thuộc hưng khởi, tính không sẽ xuất hiện trong sự tùy thuộc hưng khởi hay duyên khởi. Đây là điều khó khăn nhất để hiểu.
Nếu chúng ta đã từng nhận thức rõ vô hữu thực hữu tồn tại, kinh nghiệm của đối tượng tồn tại nói lên chính nó. Rằng chúng tồn tại bởi tự nhiên bị bác bỏ một cách hợp lý (logic), và chúng ta có thể chắc chắn một cách hợp lý rằng những sự kiện không (tồn tại) - không có cách nào chúng có thể (tồn tại) – tồn tại một cách cố hữu. Tuy nhiên chúng hiện hữu một cách rõ rệt bởi vì chúng ta biết, thấy, cảm nhận, và kinh nghiệm chúng. Vậy thì chúng tồn tại như thế nào? Chúng tồn tại một cách đơn thuần bởi năng lực của danh xưng. Điều này không đang nói rằng chúng không tồn tại; nó chưa bao giờ nói rằng những sự kiện không tồn tại. Thế thì điều gì được nói là chúng tồn tại bởi năng lực của danh xưng. Đây là một điểm khó; những gì mà chúng ta có thể hiểu một cách chậm rãi, một cách chậm rãi qua kinh nghiệm.
Trước nhất chúng ta phải phân tích hoặc là những thứ tồn tại thực sự hay là không, thật sự có thể tìm thấy hay không: chúng ta không thể tìm thấy chúng. Nhưng nếu chúng ta nói rằng chúng thật không tồn tại gì cả, đây là một lỗi lầm, bởi vì chúng ta quả có kinh nghiệm về chúng. Chúng ta không thể chứng minh qua lý luận hợp lý (logic) rằng những sự kiện tồn tại một cách có thể tìm thấy, nhưng chúng ta quả biết qua kinh nghiệm rằng chúng tồn tại. Vì vậy, chúng ta có thể làm một kết luận rõ ràng rằng những thứ ấy quả tồn tại. Bây giờ, nếu những thứ ấy tồn tại chỉ có hai cách trong điều chúng có thể làm như thế: hoặc là từ căn bản của chính chúng hoặc là bởi dưới sự kiểm soát của những nhân tố khác, đấy là, hoàn toàn độc lập hoặc là một cách lệ thuộc. Vì lý luận hợp lý không thể chứng minh rằng những thứ ấy tồn tại một cách độc lập, thì chỉ còn cách là chúng có thể tồn tại một cách tùy thuộc.
Trên điều gì làm những thứ ấy tùy thuộc cho sự tồn tại cuả chúng? Chúng tùy thuộc trên căn bản được gắn nhãn hiệu và sự tư duy những nhãn hiệu ấy. Nếu chúng có thể tìm thấy được khi truy tầm, chúng phải tồn tại bởi tính tự nhiên của chính chúng, và vì vậy Trung Quán Luận nói rằng, những thứ ấy không tồn tại bởi tinh tự nhiên của chính chúng, sẽ là sai. Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy những thứ ấy khi truy tầm chúng. Những gì chúng ta tìm thấy tồn tại dưới sự khống chế của những nhân tố khác, vì vậy điều được nói là tồn tại chỉ đơn thuần trong danh xưng. Từ ngữ “đơn thuần” ở đây chỉ cho biết là những thứ gì ấy đang bị cắt đứt: nhưng điều gì đang bị cắt đứt thì không phải là danh xưng, nó cũng không là điều có một ý nghĩa và là đối tượng của một tâm thức có căn cứ. Chúng ta không đang nói rằng không có ý nghĩa gì đến những thứ khác hơn là những danh xưng của chúng, hay là ý nghĩa không phải là danh xưng không là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Điều gì bị cắt đứt là điều mà nó tồn tại bởi những thứ khác hơn là năng lực của những danh xưng. Những thứ tồn tại đơn thuần bởi năng lực của danh xưng, nhưng chúng có ý nghĩa, và ý nghĩa ấy là đối tượng của một tâm thức có sở cứ. Nhưng tính tự nhiên của những thứ ấy là chúng tồn tại thường là bởi năng lực của danh xưng.
Không có cách nào khác, chỉ là năng lực của danh xưng. Điều ấy không có nghĩa là bên cạnh danh xưng không có gì. Có sự kiện, có một ý nghĩa và có một danh xưng. Ý nghĩa là gì? Ý nghĩa cũng tồn tại đơn thuần trong danh xưng.
HỎI: Tâm là những gì mà tồn tại một cách thật sự hay nó cũng chỉ là một ảo tưởng?
ĐÁP:  Nó cũng giống như thế. Theo trường phái Trung Quán Prasangika, quan điểm tối thượng, chính xác nhất, nó cũng giống như thế cho dù nó là một đối tượng bên ngoài hay là nhận thức bên trong hiểu rõ, thấy rõ, nhận thức thấu đáo nó: cả hai tồn tại bởi năng lực của danh xưng; không có thứ nào thật sự tồn tại. Tư duy tự nó tồn tại đơn thuần trong danh xưng; tính không, Phật, tốt, xấu, và trung tính cũng thế thôi. Mọi thứ tồn tại duy chỉ bởi năng lực của danh xưng.
Khi chúng ta nói “duy chỉ danh xưng” thì không có cách nào để hiểu nó có ý nghĩa gì khác hơn là nó cắt đứt những ý nghĩa mà những ý nghĩa không chỉ là danh xưng. Thí dụ, nếu chúng ta lấy một người thật sự và một người ảo tưởng, cả hai là giống nhau trong điều họ tồn tại chỉ đơn thuần là danh xưng, nhưng có một sự khác nhau giữa họ. Bất cứ điều gì tồn tại hay không tồn tại chỉ đơn thuần là nhãn hiệu gắn lên, nhưng trong danh xưng, có những thứ tồn tại và những thứ khác không tồn tại.
Theo trường phái Duy Tâm (hay duy thức) những hiện tượng bên ngoài xuất hiện vốn dĩ tồn tại, nhưng thực tế là sự tồn tại bên ngoài vốn dĩ trống không, trong khi ấy tâm là thật sự tồn tại (Thị chư thức chuyển biến, Phân biệt sở phân biệt, Do thử bỉ giai vô, Cố nhất thiết duy thức). Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng điều này cũng đủ về giáo lý đạo Phật.
HỎI: Có phải “tâm” và “thức” là những thuật ngữ tương đương?
ĐÁP: Có những sự phân biệt trong tiếng Tây Tạng, nhưng thật khó khăn để nói có hay không những từ ngữ tiếng Anh mang cùng ý nghĩa. “Tâm” (mind) liên hệ đến thức chính yếu (tâm vương) nó hầu như giống với “thức” (bát thức-consciousness). Trong tiếng Tây Tạng, “tỉnh thức” (awareness) là thuật ngữ thông dụng nhất và được phân chia thành thức chính yếu (tâm vương) và những nhân tố tinh thần thứ yếu (tâm sở), cả hai có những sự phân chia thêm nữa. Cũng thế, khi chúng ta nói về tỉnh thức thì có tỉnh thức của tinh thần và tỉnh thức của giác quan, và trước đây có nhiều sự phân chia thành những trình độ của thô và vi tế. Có hay không những từ ngữ tiếng Anh tương ứng với thuật ngữ Tây Tạng một cách chính xác… thì thật khó khăn để nói.
His Holiness the Dalai Lama gave this teaching in Dharamsala, 7 October 1981. It was translated by Alexander Berzin, clarified by Lama Zopa Rinpoche, edited by Nicholas Ribush and first published in the souvenir booklet for Tushita Mahayana Meditation Centre's Second Dharma Celebration, November 5-8 1982, New Delhi, India.
Published in 2005 in the LYWA publication Teachings From Tibet.
http://www.lamayeshe.com/index.php?sect=article&id=381
The Eight Verses of Thought Transformation 
By His Holiness the Dalai Lama
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Source: thuvienhoasen