PHẬT GIÁO NÓI: MỤC TIÊU CUỘC ĐỜI LÀ HẠNH PHÚC
- PSN - 6.2.2010 Swati Chopra phỏng vấn đức Dalai LamaTuệ Uyển chuyển ngữ 25.1.11
Cảnh sát thường phục bao phủ chung quanh khách sạn sang trọng ở Delhi, điện thoại di động kêu răng rắc trong tay. Sau việc kiểm soát an ninh thường lệ, chúng tôi được dẫn vào trong một phòng ngoài và được lịch sự yêu cầu chờ đợi – Đức Thánh Thiện đang gặp gỡ ngoại giao đoàn.
Những giây phút sau đấy (dường như hàng thế kỷ), chúng tôi được hướng dẫn đến một khu vực bên trong, nơi lưu trú tạm thời của Yeshe Norbu - Ngọc Ước - của Tây Tạng. Chúng tôi chờ đợi ngài lẫn lộn với lòng úy ái và tôn kính bởi sự sắp xếp của những người phụ trách nghiêm nghị của ngài. Không có điều gì chuẩn bị cho chúng tôi đối với việc ông thầy tu năng động, y áo màu nâu đỏ bước vào, chào đón lớn tiếng và bắt tay một cách nồng ấm tất cả mọi người. Chúng tôi cuối cùng đã mặt đối mặt với Đấng Hiện Diện – Kundun của Tây Tạng.
Giờ tiếp theo là dành để chia sẻ với vị hiền nhân, niềm tin, tín ngưỡng, và dĩ nhiên, cả nụ cười sảng khoái của ngài. Dường như Đức Thánh Thiện đã hoàn thiện ‘nghệ thuật cười’, nếu người ta có thể gọi như thế. Ngài sử dụng nó để nhấn mạnh cuộc tranh luận triết lý, vào những lúc để bắt cầu cho sự im lặng kỳ dị khi ngài suy nghĩ cho một câu trả lời thích hợp đến một câu hỏi, nhưng hầu hết, để chuyển tải lòng nhiệt tình tâm linh cao thượng của ngài. Có thể chuyển tải và chúng tôi thấm thía trong một lòng thân mật nồng nhiệt mỗi lần tiếng cười của ngài bùng lên. Chúng tôi may mắn được dự phần trong nguồn yêu thương từ ái của ngài, dù chỉ cho một vài thời khắc ngắn ngủi.
Ngài dường như hiện diện với vô số mức độ – như một nhân vật của thế giới, lĩnh tụ thế quyền và tâm linh của Tây Tạng, một lĩnh tụ tâm linh nổi tiếng của thế giới. Tuy nhiên, ngài thường liên hệ chính mình như một thầy tu giản dị. Ngài thật sự là ai?
Tôi tự thấy mình như một thầy tu giản dị trước, rồi là một hành giả của Na Lan Đà (trung tâm giáo dục nổi tiếng của Phật Giáo ở Ấn Độ, thành lập khoảng 200 B.C.) truyền thống tuệ trí. Những đạo sư của Na Lan Đà như Long Thọ, Thánh Thiên, Thánh Tăng, Pháp Xứng, Nguyệt Xứng, và Tịch Thiên đã viết kinh điển mà chúng tôi, như những Phật tử Tây Tạng, đã học tập và thực hành. Tất cả các ngài là những đạo sư của tôi. Tôi cảm thấy rằng tôi có thể đã tương tác với các ngài trong những đời sống quá khứ. Khi tôi đọc sách vở của các ngài và thiền quán trên tên tuổi các ngài, tôi cảm thấy có một sự liên hệ. Trong thời điểm này, tôi không nói là tôi thuộc truyền thống Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà là sự kế tục của Na Lan Đà.
Ngài được gọi là ‘Phật Sống’…?
Thuật ngữ ‘Phật Sống’ là sự diễn dịch chữ ‘Hoạt Phật’ từ Hoa ngữ. Trong Tạng ngữ, thực sự của chữ ‘lạt ma’ có nghĩa là ‘đạo sư’. Một đạo sư là người nào đấy không nhất thiết là một vị Phật, nhưng dày dạn kiến thức. Tôi tin rằng những đức Đạt Lai Lạt Ma tiền thân là hóa thân của Quán Thế Âm (đức Phật Từ Bi) và đức đệ ngũ Đạt Lai Lạt Ma được tin là hóa thân của Văn Thù Sư Lợi. Tôi may mắn là tái sinh của tất cả những đại lạt ma này! (cười)
Có phải bất cứ người nào cũng có thể trở thành một vị Phật?
Ô, vâng! Tất cả chúng sinh đều có hạt giống Phật trong họ.
Có phải cũng có thể nói rằng cuối cùng tất cả chúng sinh đều đạt đến Phật quả?
Vâng, điều này là bởi vì tất cả những cảm xúc phiền não của tâm thức có thể được loại trừ. Một khi tâm thức được tịnh hóa, chúng ta là Phật.
Ngài diễn tả thế nào về khái niệm của Đạo Phật về tính không?
Tính không thì khác với Phật quả. Nó là thực tại tối hậu của mọi thứ. Để tịnh hóa tâm thức, điều cần yếu để biết tính bản nhiên của thực tại, mà đấy là tính không. Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ một nhận thức sai lầm về thực tại. Nhằm để loại trừ khổ đau, chúng ta phải thiền quán trên tính không.
Thế giới chúng ta cần gì để trở thành một nơi tốt đẹp hơn?
Không nghi ngờ gì, chúng ta cần từ bi hơn nữa.
Làm thế nào chúng ta thực hành từ bi?
Qua tỉnh thức! Tôi nghĩ rằng si mê và cảm xúc phiền não, được gọi là klesh trong Phạn ngữ, làm cho sinh khởi đến những hoàn cảnh không muốn. Như si mê được quan tâm, không chỉ Đạo Phật, mà mọi tôn giáo nhận ra nó là cội nguồn chính của khổ đau. Khắp mọi nơi trên thế giới, nhiều nổ lực được quan tâm trong giáo dục. Đấy là điều gì ấy thánh thiện như nó hỗ trợ để lìa bỏ si mê. Nhưng chúng ta phải cẩn thận về loại giáo dục mà chúng ta truyền đạt cho con cháu chúng ta. Bây giờ tôi thấy những người học vấn cao độ là những người quá thiếu hạnh phúc. Đôi khi, tôi nghĩ những người sử dụng tâm tư quá nhiều lại không hạnh phúc bằng những người giản dị không dùng đến trí óc. Tại sao họ không hạnh phúc? Là bời vì quá nhiều tham muốn, thù hận, và ganh tỵ. Đối trị đến sự làm yếu kém là việc tăng trưởng loại kiến thức đúng đắn. Tôi nghĩ, có lẽ kiến thức phối hợp với một trái tim nồng ấm mang đến trí tuệ.
Từ bi, hay karuna, phát xuất từ trí tuệ. Thí dụ, thú vật vói sự thông minh giới hạn của chúng, là vui vẻ hơn và an bình hơn chúng ta. Ngay cả thế, tôi từng quán sát rằng thú vật trở nên hung hăng hơn trong thời kỳ phối giống bởi vì lúc này có sự dính mắc đến bạn đời. Sự dính mắc hay luyến ái đánh thức những cảm giác của si mê trong chúng. Tương tự đối với chúng ta, nếu ít dính mắc hay luyến ái và ganh tỵ hơn, thì chúng ta có thể tập trung.
Tôi tin rằng cho dù con người có theo bất cứ tôn giáo nào hay không thì không quan trọng, người ấy phải có một trái tim lành mạnh, một trái tim ấm áp. Đây là căn bản cho một đời sống hạnh phúc, điều này quan trọng hơn quả Phật nhiều lắm. Đây là phần vụ mà tôi gọi là ‘đạo đức thế gian.’
Chúng ta không bị lệ thuộc bởi nghiệp báo quá khứ mà chúng không cho phép chúng ta được từ ái và bi mẫn chứ? Làm thế nào nghiệp báo được chuyển hóa?
Bằng việc hành động với tỉnh thức.
Làm thế nào chúng ta sống trong tỉnh thức?
Phân tích! Lấy thí dụ của Thánh Gandhi. Thực tế, ngài ốm yếu. Mặc dù ngài học vấn cao, nhưng có những người khác học cao hơn ngài. Thế thì tại sao ngài trở thành một bậc đại nhân, một vị thánh (mahatma)? Đấy là do bởi trái tim của ngài. Ngài không hành động cho cá nhân ngài hay sự thích thú riêng; đấy là lòng bi mẫn. Bi mẫn (karuna), tôi nghĩ, là yếu tố chính trong việc trở thành một con người thánh thiện. Stalin, Lê-nin, Mao Trạch Đông là những lĩnh tụ đầy quyền lực, nhưng họ thiếu lòng bi mẫn và không trở nên phổ biến.
Từ bi tự động đem đến hạnh phúc và tỉnh lặng. Rồi thì, ngay cả nếu quý vị nhận những tin tức rối rắm, sẽ dễ dàng đón nhận, khi tâm thức quý vị tỉnh lặng. Nhưng nếu quý vị khích động, ngay cả một vấn đề nhỏ xảy ra cũng sẽ làm quý vị khó chịu vô cùng.
Làm thế nào đem đến sự tỉnh lặng?
Thù hận, ganh tỵ và dính mắc cực đoan tạo nên khổ đau và kích động. Tôi cảm thấy rằng, một lần nữa, đấy là từ bi có thể giúp chúng ta vượt thắng những điều này để đi tới một thể trạng tỉnh lặng của tâm thức. Từ bi không phải chỉ là tử tế với bạn bè của quý vị. Đó là dính mắc hay luyến ái bởi vì nó căn cứ trên sự mong đợi. Bi mẫn là khi chúng ta làm điều gì tốt đẹp mà không mong đợi, ngay cả không biết người kia là ai. Đấy là trong nhận thức rằng người kia cũng chỉ giống như tôi. Nhận thức ấy là căn bản trên điều mà chúng ta có thể phát triển bi mẫn. không chỉ đối với những người ở chung quanh chúng ta mà cũng đối với kẻ thù của chúng ta. Thông thường, khi chúng ta nghĩ về kẻ thù của chúng ta, chúng ta nghĩ về việc làm tổn thương kẻ ấy. Thay vì thế, hãy nhớ rằng kẻ thù cũng là một con người. Người kia có quyền để vui sống, giống như chúng ta. Nói với chính mình, có thể tôi cũng có một số kẻ thù.
Có phải ngài nói về Trung Cộng?
Không, không! Tôi đang nói một cách lý thuyết. Nếu người ta có một kẻ thù, người ta muốn kẻ nọ phải khổ đau. Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy thù hận với kẻ thù, hãy nghĩ về người ấy như một con người. Đó chính là bi mẫn thật sự bởi vì chúng ta đang cảm nhận về nó cho kẻ thù của chúng ta. Chúng ta không có sự tử tế của người khác để căn cứ cho sự từ bi của chúng ta; người kia thật sự làm tổn thương chúng ta! Đó là tại sao tôi nói bi mẫn [1] thật sự là không định kiến. Những gì chúng ta thường cảm nhận là lòng bi mẫn thành kiến, khi nó bị trộn lẫn với dính mắc. Bi mẫn chân thành tuôn chảy đối với tất cả chúng sinh, đặc biệt đối với kẻ thù của chúng ta. Chúng ta phải giữ trong tâm thức rằng phát triển bi mẫn có thể không làm lợi ích cho người kia một cách trực tiếp. Nếu chúng ta cố gắng để phát triển lòng bi mẫn đối với kẻ thù chúng ta, người kia có thể thậm chí không biết về điều ấy. Nhưng nó sẽ lập tức làm lợi ích cho chúng ta! Như thế nào? Bằng sự tỉnh lặng tâm thức của chúng ta. Trái lại, nếu chúng ta giữ tâm tư rằng mọi thứ tệ hại như thế nào, chúng ta sẽ lập tức đánh mất sự hòa bình của tâm hồn.
Và điều đó sẽ giúp cho kẻ thù?
Không nhất thiết giúp đỡ kẻ thù càng nhiều càng tồn hại chính mình. Bằng việc thay đổi tư tưởng, chúng ta lập tức có sự yên bình của tâm hồn. Nhiều người cũng nghĩ rằng sự thực hành bi mẫn lợi ích cho kẻ khác và không ích gì cho tự thân. Sự suy nghĩ như thế là một sai lầm nghiêm trọng. Nó phải được vượt thắng qua tỉnh thức, là điều như tôi đã đề cập trước đây, tức là qua phân tích, nó đến từ sự phân tích quán chiếu.
Ngay cả những nhà nghiên cứu y khoa hiện đại đã đi đến kết luận rằng sự hòa bình của tâm hồn là căn bản cho sự lành mạnh của sức khỏe. Thẩm tra cho thấy rằng đối với những người thực hành từ ái [2] và bi mẫn dễ lấy lại một thể trạng hòa bình của tâm hồn sau khi bị kích động.
Vào tháng Năm năm nay, tôi đã chứng kiến một thí nghiệm được tiến hành trên một tu sĩ ở đại học Wisconsin, người bị bắt phải chịu một âm thanh ồn ào. Nó chỉ có một ít tác động trên vị tu sĩ và vị ấy có thể hồi phục sự tĩnh lặng không khó khăn gì. Điều này minh chứng rằng sự thực hành từ bi thật sự mang tỉnh lặng cho chúng ta một cách đáng kể.
Tôi không nói rằng bi mẫn phải được thực tập bởi vì đức Phật đã dạy nó. Không. Nó phải được thực tập một cách bình đẳng bởi người Phật tử, Ấn giáo, Kỳ Na giáo, Ki Tô giáo. Nó là bộ phận của ‘đạo đức thế gian’ mà tôi nói đến. Không có gì thiêng liêng hay tôn giáo về việc ngưỡng mộ một tâm thức tỉnh lặng. Con người chỉ cần nhận ra rằng nó tốt cho sức khỏe chúng ta! Sự đề xuất của tôi là để thúc đẩy những giá trị mà có thể làm cho con người có một tâm thức tĩnh lặng.
Có một tâm thức tĩnh lặng thực sự hoạt động kỳ diệu. Nhận thức được điều này sẽ làm tôi muốn phát triển nó.
Điều này phải được làm cho rõ ràng đến mỗi cá nhân, ngay cả trẻ con. Điều quan trọng để làm cho một thiếu nhi biết rằng nếu nó đánh mất sự bình tĩnh của nó, thì nó sẽ đau khổ. Nếu nó có thể từ bi hơn, nó sẽ cảm thấy vui vẻ hơn ngay cả trong khi nô đùa. Nếu quý vị mỉm cười, đời sống sẽ ngọt ngào hơn. Cuối cùng, nếu tôi mỉm cười với quý vị, quý vị sẽ mỉm cười trở lại!
Ngài không bao giờ có kinh nghiệm giận dữ chứ?
Ô, vâng, tôi có chứ. Những cảm xúc phiền não đến và đi. Tôi không nghĩ chúng hiện hữu lâu trong tôi. Nếu chúng ta để sự giận dữ duy trì trong chúng ta, nó sẽ đưa đến cảm giác bệnh hoạn và thù hận.
Ngài đối phó với giận dữ như thế nào?
Qua niềm tin vững chắc của tôi về từ bi. Tôi nghĩ những cảm xúc tiêu cực là một bộ phận trong tâm thức của tôi. Hoàn toàn tự nhiên để cảm thấy giận dữ khi đối diện với rắc rối. Nhưng chúng ta có thể thay đổi.
Chúng ta có thể nói rằng tĩnh thức về những cảm xúc của mình sẽ hỗ trợ trong việc đối phó với nó hay không?
Nếu chúng ta có thể nhận ra thời khắc mà giận dữ sinh khởi, thì chúng ta có thể phân biệt bộ phận mà tâm thức chúng ta đang cảm thấy giận dữ. Điều này sẽ phân chia tâm thức chúng ta làm hai phần – một phần sẽ cảm thấy giận dữ trong khi phần kia sẽ cố gắng để quán chiếu. Do thế, giận dữ không thể khống chế toàn bộ tâm thức. Chúng ta có thể nhận ra sự giận dữ ấy là tổn hại và có thể phát triển một loại đối trị nó. Nhìn sự giận dữ của chúng ta một cách khách quan. Cố gắng để thấy phía tích cực của sự giận dữ - làm nên con người hay sự kiện. Tất cả những ý tưởng này không phải là sự sáng chế của Tây Tạng, chúng là sự sáng tạo của Na Lan Đà, sự chế tác của quý vị! (cười lớn) Những người Tây Tạng chúng tôi là học trò của những đạo sư Ấn Độ. Nhưng ngày hôm nay, đạo sư của chúng tôi đang trở nên quá vật chất, có lẽ trở nên quá chính thống trên một mặt và quá bị Tây phương hóa ở mặt kia. Tôi nghĩ đây là lúc mà người Ấn Độ hãy tiếp nhận Ấn Độ hóa!
Vì ngài đã và đang nhấn mạnh những ‘giá trị thế gian’, ngài sẽ không quy định những sự thực tập tâm linh bởi vì chúng có nhờ một truyền thống nào đấy chứ?
Tôi sẽ đề nghị những gì tôi gọi ‘thiền phân tích’. Nó là một khoa học, như nhiệm vụ chính của nhà khoa học là phân tích. Khi chúng ta thiền quán, chúng ta đưa mình tập trung từ thế giới ngoại tại, đến nội tại và cảm xúc.
Đấy là tại sao Đức Phật được gọi là một nhà đại tâm lý học?
Không nghi ngờ gì nữa, bởi vì Ngài đã dạy khoa học tâm thức.
Mục tiêu của đời sống con người là gì? Chúng ta sinh ra để đạt đến điều gì?
Là vui sống!
Mục tiêu của sự tồn tại?
Hạnh phúc.
Hạnh phúc cho người khác hay chính chúng ta?
Lấy thí dụ của một cây cỏ. Mục tiêu sự tồn tại của nó là gì?
Phụng sự kẻ khác?
Có thể cây cỏ chỉ là thế! Nó không có những mục tiêu cố định. Nó chỉ sinh trưởng. Cũng có thể nói, cây cỏ không có tâm thức. Thú vật cũng dường như có hạnh phúc như khuynh hướng của chúng.
Thiên nhiên không bao giờ duy trì thể tĩnh; sinh trưởng là căn bản cho một con người. Tại sao chúng ta luôn luôn nói ‘Ngày sinh vui vẻ’ và không bao giờ nói ‘Ngày chết vui vẻ’? Bởi vì chúng ta không muốn thấy sự chấm dứt. Tâm thức con người bị kích thích để sinh trưởng, bắt đầu và tươi mát. Từ bi vì thế là năng lực để sinh trưởng và phát triển trong khi sân hận là tàn phá.
Nếu mục tiêu của đời sống là hạnh phúc, thì Niết Bàn để chỗ nào?
Bây giờ quý vị đang nói về một trình độ khác. Ở mức độ thứ nhất, chúng ta cần thực tập những giá trị căn bản của con người. Rồi thì, chúng ta có thể nói về Niết Bàn, mà đấy có nghĩa là sự chấm dứt của khổ đau. Thế là chúng ta trở lại với hạnh phúc!
Làm thế nào Niết Bàn có thể được thiết lập?
(Cười) Nó là có thể, bởi vì có thể loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực! Khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni trải nghiệm đại Niết Bàn, tâm thức của Ngài ngừng dứt và Ngài tự do khỏi dòng sinh tử nghiệp báo. Long Thọ đại sĩ nói một cách rõ ràng rằng tâm thức thanh tịnh không có lực phản kháng, và chỉ có những ai có năng lực đối nghịch có thể dừng lại, như vấn đề [trên thì mới thể nhập niết bàn]. Chân tâm, cũng như ‘không đại’, không có năng lực phản kháng và vì thế không có lý do gì để dừng lại. Trong trường hợp của những cảm xúc phiền não khác, chúng có thể chấm dứt nếu chúng có những năng lực tích cực đối kháng mạnh mẽ. Nhưng trong trường hợp của tâm, chúng ta không thể nói rằng nó sẽ đi đến chấm dứt, giống như thật khó khăn để tìm một loại thuốc đối trị mạnh mẽ có thể gây trở ngại đến sự tồn tại của nó, như trường hợp của ‘không đại’. Ở đây, chúng ta có thể tranh luận bằng việc nói rằng trong trường hợp ấy, chúng ta có thể đặt dấu chấm hết từ bi hay yêu thương hay không bởi vì chúng có những năng lực đối kháng mạnh mẽ? Trong việc khảo sát, chúng ta sẽ nhận thấy rằng từ ái và bi mẫn thường kết hợp với trí tuệ trái lại giận dữ và thù hận có thể dường như mạnh bạo nhưng không có căn bản luận lý - chứng cứ. Mọi thứ đúng tốt đẹp và đúng đắn là kết quả của nhận thức có giá trị. Căn cứ trên điều này, càng phân tích chúng ta càng có thể nắm vững thực tại. Tuy thế, nếu điều gì đấy sai lầm hiện hữu mạnh bạo, khi chúng ta phân tích, sự sai lầm - dối trá của nó sẽ phơi bày.
Giả nếu quý vị cảm thấy giận dữ với một người tên là Gupta, hãy tự hỏi mình: ‘Ai là Gupta?’ ‘Người ấy là thân thể, hay tâm thức của người ấy?’ Chúng ta sẽ thấy rằng không có câu trả lời. Lập tức cảm giác thù hận lắng xuống, khi không thể tìm ra đối tượng. Nhưng bi mẫn là khác biệt, vì nó không lệ thuộc trên việc xác định một mục tiêu. Do bởi điều này, triết lý nhà Phật liên hệ bi mẫn như tâm thức không nhận thức đối tượng. Từ ái (maitri), bi mẫn (karuna), và tâm bồ đề (bodhichitta) không nhận thức bất cứ đối tượng nào. Quý vị có lĩnh hội được vấn đề chứ? (cười).
Dĩ nhiên, đây là sự giải thích của nhà Phật và rất chính xác. Tôi nghĩ là bởi vì sự phong phú của Phạn ngữ, mà điều này được phát triển một cách cao độ trong khía cạnh trừu tượng.
Có phải giáo huấn ban đầu của Đạo Phật là bằng tiếng Pali?
Tất cả những đạo sư của Na Lan Đà đã viết bằng Phạn ngữ nhưng Luật tạng và A tỳ đạt ma là bằng tiếng Pali.
Đức Phật đã im lặng đối với câu hỏi về Thượng Đế. Ngài thì sao?
Tại sao Đức Phật không nói bất cứ điều gì về Thượng Đế? Bởi vì Ngài đã nói về luật nhân quả. Một khi quý vị chấp nhận luật nhân quả, điều ấy hàm ý rằng không có ‘đấng tạo hóa’. Nếu Đức Phật chấp nhận khái niệm về một đấng tạo hóa, ngài đã không im lặng; mọi thứ đã là Thượng Đế!
Ai làm nên luật nhân quả?
Về điều ấy, Đức Phật đã nói là ‘tâm’, chẳng bao giờ là Thượng Đế hay pháp thân hay ngay cả chính Đức Phật.
Tâm đã diễn ra như thế nào?
Cội nguồn của tâm là tự nhiên, là bản chất. Từ ngữ được dùng cho sự tồn tại là ‘duyên khởi’. Nói về Thượng Đế, ai tạo ra Thượng Đế? Không có điểm nào tranh luận được. Pháp Xứng và Tịch Thiên tranh luận về sự tồn tại của Thượng Đế và đạt đến kết luận rằng nếu chúng ta tin tưởng trong một đấng tạo hóa nhân từ, làm thế nào chúng ta giải thích về khổ đau? Tôi nhớ một sự kiện buồn cười. Trong kịch nghệ Tây Tạng, bình phẩm cho phép và ngay cả đức Phật cũng không được tha. Có một người diễn kịch ở trên sân khấu và ông nói rằng ông không tin Thượng Đế. Nếu Thượng Đế làm ra chúng ta, ông nói, thay vì đặt cả đôi mắt ở phía trước, một mắt nên được đặt ở phía sau! Chúng ta sẽ tiện lợi hơn trong cách ấy. Ngoài hài hước ra, ý tưởng không có ý bất kính một tôn giáo nào nhưng là để phân tích bản chất tự nhiên của thực tại.
Ngài có thấy một nền tảng chung nào giữa Phật giáo và Ấn giáo không?
Một cách lịch sử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni là một người Ấn giáo. Vì thế tôi muốn gọi Ấn giáo và Phật giáo là anh em sinh đôi. Rồi thì có những sự thực tập chung như chỉ (samadhi) và quán (vipassana). Sự phân ranh đến từ khái niệm tính không. Trong khi Ấn giáo tin tưởng trong ngã (atma), Phật Giáo tin tưởng vô ngã (anatma). Trong sự thực tập bất bạo động, Kỳ Na giáo (Jain) hoàn hảo hơn cả Phật giáo và Ấn giáo.
Aldous Huxley [3] đã nói về ‘triết lý lập lại’ – nền tảng huyền bí thông thường của tất cả mọi tôn giáo. Ngài có tin điều ấy không?
Điều này thì khó để nói. Tại một trình độ, tất cả mọi tôn giáo đều có một khuynh hướng – chuyển hóa cá nhân thành những con người tích cực. Ở một trình độ khác, những tôn giáo hữu thần không có nhận thức về Niết Bàn.
Ngài du hành khắp mọi nơi trên thế giới. Ngài có nghĩ rằng qua mức độ rộng rãi bao quát, thế giới có đang chuyển biến hướng đến việc biểu hiện tích cực hơn không?
Tôi muốn trích dẫn Hoàng thái hậu Anh Quốc về điều này. Trong ngày sinh lần 96 của bà, tôi đã hỏi bà một câu hỏi như vậy. Bà nói rằng nó đang trở nên tốt đẹp hơn, bởi vì khi bà còn trẻ, thí dụ thế, không ai quan tâm về môi trường, quyền con người, và quyền tự quyết. Ngày nay, những điều này đã trở thành những giá trị phổ biến toàn cầu. Khi Thánh Gandhi thực hiện bất bạo động, tôi nghĩ mọi người xem điều ấy như một dấu hiệu của yếu đuối. Hiện nay có lẽ ngoại trừ Trung Hoa, toàn thế giới, chấp nhận và thực hành bất bạo động, như Nelson Mandela. Ấn Độ không chỉ hiến tặng những tôn giáo vĩ đại như Ấn giáo, Phật giáo, Đạo Sikh mà cũng là nơi chung sống của nhiều tôn giáo khác như Bái Hỏa giáo, Hồi giáo và Ki Tô giáo. Sự bao dung tôn giáo chúng ta thấy khắp thế giới cũng là một truyền thống của Ấn Độ.
Ngài có nghĩ rằng Trung Hoa đang thay đổi không?
Vâng, Trung Hoa cũng đang trong một tiến trình thay đổi.
Có bất cứ một thông điệp nào cho những độc giả của ‘Cuộc Đời Tích Cực’ không?
Cuộc đời có thể vui sướng hay khốn cùng. Để hướng đến một cuộc sống đầy hoa trái, và để làm cho nó tích cực, thực hành thiền phân tích [4]. Và tôi nhớ rằng tỉnh lặng và từ bi là một bộ phận quan trọng của đời sống con người. Tôi hy vọng rằng tất cả mọi độc giả của ‘Cuộc Đời Tích Cực’ sẽ chú tâm nhiều hơn đến những giá trị nội tại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét