Tôn giáo là hình
thức quy tập tín ngưỡng nhân gian sau khi trường phái tâm linh biến thể. Những
tôn giáo lớn có mặt trên hành tinh, khởi nguồn đều từ hướng đích tâm linh chứ
không chủ trương tín ngưỡng tôn giáo. Không riêng trường phái tâm linh, bất cứ
hệ phái nào, tổ chức nào, qua một thời gian cũng đều biến thể, biến tướng để
thích nghi căn trí đương đại. Nói cách khác, các trường phái đều bị căn trí
đương đại tác hưởng đưa đến biến tướng.
Riêng Phật giáo,
khởi nguyên khi đức Thế Tôn còn hiện tiền, sinh hoạt thường nhật của giáo đoàn
là sáng đi khất thực, trưa về độ Ngọ, chiều thiền định và nghe pháp. Riêng Đức
Phật, giảng thuyết cho tín chúng sau thời Ngọ, chiều dành pháp thoại cho Tăng
chúng, khuya cho chư Thiên. Trong giáo Tạng Bắc Tông lẫn Nam Tông không cho
thấy thời nào dành công phu bái sám tụng niệm chuông mõ. Hầu hết chuyên về
Thiền định. Các quốc gia thuộc Bắc truyền, để thích ứng với đời sống lao động
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, việc Thiền định khó thâm nhập khi mà cơ
bắp hoạt động suốt ngày; vì thế, chư Tổ chế tác các thời công phu bái sám giúp
cho hành giả tại gia cũng như xuất gia dùng làm phương tiện nhiếp tâm, duy trì
niềm tin. Từ đó, phát sanh nhiều hình thái phụ thuộc nhu cầu của xã hội như ma
chay đám tiệc...
Thiền định có
công năng nhiếp phục vọng tưởng, triển khai trí tuệ, ngăn chận nghiệp hành,
chuyển hóa nghiệp thức và phát sanh lòng từ. Công phu tu tập đòi hỏi thời gian
miên mật hành trì mới đem lại kết quả cho một "ĐẠO LỰC". Đạo Lực là sức mạnh của tâm thức đã chuyên chú
vào một mục đích, không bị phân tán bởi vọng niệm và vọng thức. Tâm lực sản
sanh một năng lượng tròn đầy từ bi và trí tuệ, có công năng nhiếp phục và
chuyển hóa, gọi là Đạo Lực.
Hành giả công phu
miên mật, do năng lượng dương bao phủ nên các âm lực khó tác động; nghiệp quả
cũng được bào mòn và chuyển hóa tùy thuộc Đạo Lực của mỗi hành giả.
Thời Phật tại
tiền, hàng ngàn đệ tử đều chứng đắc cũng do Đạo Lực của một bậc đạo sư có công
năng bạt nghiệp để Tăng đoàn tu tập. Khi công viên quả mãn của một hành giả
thành đạt, nghiệp quá khứ trở lại để được chuyển hóa và thăng hoa.
Theo định luật
Nhân-Quả, dù là Thánh nhân cũng phải trả nghiệp tích lũy từ khi còn mang xác
phàm. Việc giải nghiệp của bậc Thánh, hoặc do tự thân chọn lựa hoặc do Đạo Lực
hóa giải biến nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ sẽ được hòa tan vào công hạnh vị tha.
Tuy nhiên, Đạo Lực của một cá thể khó mà chuyển hóa cộng nghiệp của một tập
thể, nhưng Đạo Lực một cá thể có khả năng tác động tâm thiện của một tập thể,
giúp tập thể ý thức về cộng nghiệp để chuyển hóa cộng nghiệp theo phương hướng
tuệ giác. Một tập thể có đạo lực mạnh, năng lượng dương đủ khả năng hóa giải
nghiệp cộng đồng ở một mức độ tương ứng với công năng hành trì của tập thể đó.
Âm Lực luôn tồn
tại song hành với Dương Lực, âm lực mạnh, lấn át dương lực thì nghiệp quả nặng
dồn dập xẩy đến; dương lực mạnh thì âm lực bị pha loãng, nghiệp quả đến nhẹ
nhàng hơn.
Hành thiện, lợi
tha chỉ là phúc báu nhân thiên hữu lậu, gặt hái nhiều lợi ích cá nhân song song
với nghiệp quả quá khứ đang hiện hành; vì vậy có những người giàu sang phú quý
vẫn gặp lúc tai ương, cho dù đương sự vẫn hành thiện hiện tại. Ngược lại, những
hành giả đạt được mức độ tâm linh siêu thức, tuy cuộc sống không dư dả
nhưng luôn an lạc, và nghiệp quá khứ có đến cũng chỉ là gió thoảng. Thường
những bậc tuệ giác toàn phần hay từng phần đều chấp nhận quả đến một cách tự
nhiên hơn là tự hóa giải dưới hình thức khác.
Một hành giả đang
tu tập và một hành giả đạt được tuệ giác, vấn đề tác nhân sẽ mang một giá trị
khác nhau. Bậc tuệ giác hành xử sẽ không lưu dấu nhân quả. Một hành giả đương
hành, tâm thức chưa vào trạng thức "Bạch
Tịnh" thì A Lại Da Thức vẫn tích lũy nhân hạnh, vì thế: "Bồ Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả"!
Nói thế không có nghĩa Bồ Tát thực thụ tác hành tùy thuộc nhân quả, mà Bồ Tát
sợ chúng sanh tạo nhân xấu hơn là lãnh quả xấu.
Chúng sanh tích
lũy nghiệp lực nhiều đời để khi mang thân phàm sẽ chịu sự chi phối nghiệp lực
có sẵn mà người đời thường bảo là ĐỊNH NGHIỆP. Định nghiệp đã được nghiệp thức
lập trình thì khó mà hóa giải, nhưng có thể được chuyển hóa nếu hành giả đạt
được Đạo Lực vững vàng. Song song ĐỊNH NGHIỆP là BẤT ĐỊNH NGHIỆP. Bất định
nghiệp có thể hóa giải theo công hạnh hướng thiện hoặc Đạo Lực kiên định.
Hình thức tôn
giáo, cho dù hướng thiện cũng chỉ gặt hái phước báu hữu lậu mà khó hóa giải
nghiệp lực. Ngoại trừ hành giả hướng đến con đường tâm linh do một chân sư
chứng đắc hướng dẫn, năng lượng siêu thức của vị thầy tâm linh nâng năng lượng
sinh thức của đệ tử nhập lưu giòng Thánh, được năng lượng dương bảo hộ hành giả
thường xuyên, nếu hành giả vẫn miên mật trong pháp hành. Một câu niệm Phật sẽ
bình thường nếu người hành trì như thói quen của chiếc máy, nhưng sẽ khác và
hiệu quả hơn khi được một chân sư chứng đắc hướng dẫn cùng một câu niệm Phật
như nhau. Cũng thế, sách vở không giúp sinh viên trở thành bác sĩ, việc thực
tập do giáo sư bác sĩ hướng dẫn mới thực sự có kết quả của học vị.
Giáo Pháp của
Phật vô lượng pháp môn, nhưng ít ai đạt chứng hay đắc pháp, bởi mạng mạch bị
gián đoạn, thiếu vắng các chân sư liễu ngộ. Thời Phật tại tiền, 10 người tu, 10
người chứng. Sau vài trăm năm số đắc pháp còn phân nửa, và thời đại con người
tiến hóa vật chất thì tâm linh bị gián đoạn khá lâu. Tuy nhiên, vẫn có những
chân sư ẩn tu vì thế nhân hành trì chưa đủ chuẩn để tiếp nhận mạch pháp.
Người có tâm
hướng thiện thấp, thường cầu khẩn vào tôn giáo, người có căn cơ tâm linh cao,
thường khát vọng tìm hướng đi chân lý, vì họ biết rằng càng bị ràng buộc vào
hình thức lễ nghi tôn giáo thì khó mà đưa đến giải thoát. Hành giả có nhiều
khát vọng tìm cầu chân lý để bù đắp vào khoảng trống tâm linh thì sẽ được đáp
ứng bởi lực lượng chân sư liễu ngộ. Đệ tử không thể tìm thầy mà chỉ có thầy mới
đến với đệ tử nếu đệ tử đủ tiêu chuẩn cho sự khát vọng tâm linh. Cổ nhân đã
bảo: "Hữu cầu tắc ứng".
Thánh kinh cũng nói: "Gõ cửa sẽ
được mở". Quan trọng của người tìm cầu chân lý, có nghĩa mong có một
pháp hành đủ năng lực thăng hoa tâm thức, giải thoát hiện tiền thì sự khát vọng
không thể thiếu. Khát vọng là động lực mở cánh cửa đi vào đạo lộ tâm linh giải
thoát. Một khi xác định giải thoát là con đường "ắt có và đủ" để hóa
giải mọi nghiệp lực hiện tiền và chuyển hóa nghiệp lực quá khứ, hành giả không còn
con đường nào khác của Tâm Linh, chối bỏ mọi tham đắm thế gian, cho dù tham đắm
việc thiện hay tham đắm một tôn giáo. Còn tham đắm là còn bị ràng buộc.
Đạo Lực là lưỡi
gươm cắt đứt mọi chướng duyên nghiệp thức, vì Đạo Lực là sự tuệ giác nhìn
sự diễn biến của nghiệp quả chỉ là trò chơi bong bóng của nghiệp thức trong mọi
chúng sanh. ĐẠO LỰC và NGHIỆP LỰC chỉ
cách nhau đường tơ kẽ tóc dưới cái nhìn của bậc toàn giác.
MINH MẪN
21/01/2014
Bài viết thật hay, giúp tôi hiểu rõ về ĐẠO LỰC!
Trả lờiXóaThật là hiếm có những vị đầy đủ đạo lực. Cám ơn một bài viết hữu ích!
Trả lờiXóa