Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

TĂNG TIẾN TÍN TÂM

VÀO TÍNH PHẬT CỦA CHÚNG TA

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: On gaining confidence in our Buddha Nature.
*Dalai Lama’s interview with China Now

Q: What is the best way to gain confidence in our Buddha Nature?A: Based on the concept of Emptiness, meaning the objective Clear Light, and also the concept of the subjective Clear Light, we try to develop a deeper understanding of Buddha Nature. It’s not easy, but through investigation, I think both intellectually and through making connection with our daily feeling, there is a way to develop some kind of deeper experience or feeling of Buddha Nature.
Hỏi: Xin Ngài cho biết cách thức tốt nhất để tăng tiến tín tâm vào Tính Phật của chúng ta ?Đáp: Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu sâu sắc hơn về Tính Phật.
Tôi nghĩ chuyện này không dễ, nhưng xuyên qua tự tìm hiểu tường tận cả hai, về phương diện trí tuệ và xuyên qua cảm ứng với những cảm thọ hàng ngày của chúng ta, chúng ta có một cách thức để phát triển một loại trải nghiệm hoặc cảm thọ sâu sắc hơn vềTính Phật.
__________________________________
Phụ Bản: Trích từ hoagiacngo.com:
Tâm quang minh giác chiếu.
Bài 2. Bản chất của tâm
Bản chất chân không diệu viên và quang minh giác chiếu là cái chúng ta gọi là ‘quang sắc giác chiếu’ ( Skt. prabhasvara;‘clear light; quang sắc giác chiếu; thường tịch quang; quang minh thanh tịnh; tịnh quang);nó là quang minh giác chiếu rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện và, ở mức độ của tâm thanh tịnh, là quang minh giác chiếu trong chính nó và của chính nó; và đó là lí do tại sao chúng ta gọi nó là tính giác tự chiếu, linh tâm tự chiếu, nhất điểm linh quang, hoặc tính tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp ( self-luminous cognition or clarity).
The open and luminous nature of mind is what we call the ‘clear light’; it is an open clarity that, at the level of pure mind is aware in and of itself; that is why we call it self-luminous cognition or clarity.
[Cognition; Skt. jnana, trí tuệ bát nhã; Skt. buddhi, giác ] [ĐHP: linh tâm tự chiếu; nhất điểm linh quang]
Không có một tỉ dụ nào thích hợp thực sự để minh họa tính quang minh giác chiếu này ở mức độ thanh tịnh. Nhưng ở mức độ bình thường, chúng ta có thể liên tưởng dễ dàng hơn, chúng ta có thể có được một thoáng nhìn thấy vài phương diện của nó bằng sự hiểu biết sáng tỏ một trong những hiển hiện của tâm -- trạng thái chiêm bao. Chúng ta hãy nói đó là một đêm tối, và trong bóng tối toàn thể này chúng ta đang chiêm bao, hoặc đang trải nghiệm một thế giới chiêm bao. Hư không tâm ý nơi mà chiêm bao xảy ra -- độc lập với nơi chốn vật lí nơi chúng ta đang ở -- có thể được so sánh với tính chân không diệu viên, rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện của tâm, trong khi đó khả năng của tâm cho trải nghiệm, mặc dù bóng tối bên ngoài, tương ứng với tính quang minh giác chiếu của nó.
Tính giác quang chiếu này ôm trọn, viên dung tất cả nhận thức của tâm và là tính quang minh giác chiếu bản nhiên trong những trải nghiệm này.
(This lucidity encompasses all mind’s knowledge and is the clarity inherent in these experiences )
Nó cũng là tính giác quang chiếu của cái gì hoặc ai đang trải nghiệm chúng; chủ thể nhận biết là tính giác quang chiếu và cái được biết là tính giác cảnh chiếu chỉ là hai phương diện của cùng một tính đức.
(It is also the ludicity of what or who experiences them; knower and known, lucidity and luminosity are but two facets of the same quality).
Trong trạng thái viên minh giác chiếu (intelligence),đang trải nghiệm chiêm bao, nó là tính giác quang chiếu, và trong trạng thái quang minh giác chiếu hiện diện trong những trải nghiệm của nó, nó là tính giác cảnh chiếu
(As the intelligence that experiences the dream, it is lucidity, and as the clarity present in its experiences, it is luminosity)
Nhưng ở mức độ bất nhị của tâm thanh tịnh, nó là một và cùng một tính đức, ‘quang minh giác chiếu’, được gọi là ‘prabhasvara’ trong Phạn ngữ, hoặc ‘selwa’ trong Tạng ngữ. Tỉ dụ này có thể hữu ích trong sự hiểu biết sáng tỏ, nhưng hãy ghi nhớ trong tâm rằng nó chỉ là một minh họa để chỉ vào mức độ tập quán của một hiển hiện đặc thù của tính quang minh giác chiếu.
Trong tỉ dụ, có một sự khác biệt giữa tính giác quang chiếu của chủ thể nhận thức, và tính giác cảnh chiếu của những trải nghiệm của chủ thể đó. Đó là bởi vì chiêm bao là một trải nghiệm nhị nguyên đối đãi, được phân biệt trong thuật ngữ của chủ thể và khách thể, trong đó tính quang minh giác chiếu hiển hiện chính nó tức thời trong tính nhận biết sáng tỏ (awareness; tính giác chiếu) hoặc tính giác quang chiếu của chủ thể và trong tính giác cảnh chiếu của những đối tượng của nó.
Thật ra, tỉ dụ thì bị hạn hẹp, bởi vì, về căn bản không có nhị nguyên đối đãi trong những tâm thanh tịnh: tính bất nhị cũng là tính đức của tính quang minh giác chiếu, có bản chất căn bản là bất nhị.
(In fact, the example is limited, because fundamentally there is no duality in pure minds: it is the same quality of clarity that is essentially nondual)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét