Nguyên Giác
Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã tới thăm Nam California trong những ngày cuối tháng qua. Thầy là một nhà sư nổi tiếng đa tài, giỏi nhiều ngôn ngữ, cũng như xuất sắc về thơ, văn, biên khảo, thư pháp, họa pháp, cờ tướng, sắp đặt vườn cảnh, hiểu ngôn ngữ của đá và cây. Và thầy cũng là một vị tôn túc trong nhà Thiền, với tên gọi trong chùa là: Tỳ kheo Giới Đức, Sư trưởng Huyền Không Sơn Thượng.
Thầy nổi tiếng với hình ảnh một nhà sư nghệ sĩ. Thầy năm nay 71 tuổi (sinh năm 1944), đã in 32 cuốn sách, và còn 49 bản thảo chưa ấn hành.
Hôm Thứ Sáu của tuần lễ cuối tháng 4-2014, khi hai vị cư sĩ Tâm Diệu và Tâm Linh lên Pomona thăm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã trao tặng Thư Viện Hoa Sen bức tranh thư pháp với bốn câu thơ:
Hoa ươm mùi đạo vị
Sen ngát mạn đà hương
Thư kinh trăng giọt ngọc
Viện bối phụng văn chương
Nơi đây, xin dịch các câu thơ tuyệt vời này sang tiếng Anh để sẽ chia sẻ với một số bạn trẻ:
The flower that raises the dharma sense
The lotus that passes on the mandala scent
The scripture that points to the moon of jewelry
The hall that treasures the literary beauty.
Hôm Thứ Bảy kế tiếp đó, tôi có cơ duyên được ba vị thiện tri thức – anh Trần Minh Anh và vợ chồng anh Tôn Tiên; họ đều là học trò của Huyền Không Sơn Thượng từ thời còn ở Huế nhiều thập niên trước -- đưa tới một ngôi chùa miền núi phía Nam California để hội kiến Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, người nổi tiếng về nhiều phương diện tàì năng, nhưng có một đời sống rất bình dị, thơ mộng.
Trong buổi trà đàm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đọc bài cổ thi nổi tiếng trong nhà thiền:
Bách xích can đầu, trực hạ thùy
Nhất ba tài động vạn ba tùy
Dạ tĩnh, thủy hàn ngư bất thực
Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy!
Tiếp theo, Thầy đọc bản dịch tiếng Việt của Thầy:
Trăm thước đầu cần thỏng điếu ông
Một làn sóng dợn, dợn muôn trùng
Giá băng, đêm lặng, khôn tăm cá
Về chở đầy thuyền ánh nguyệt không!
Thầy giải thích rằng hình ảnh duyên khởi (một dợn sóng, dẫn tới muôn vạn sóng) và hình ảnh ngư bất thực (cá không ăn mồi) là 2 ý quan trọng trong bài thơ, rằng khi nào tâm không cắn mồi của sắc thanh hương vị xúc pháp mới đúng là tâm thiền, lúc đó mới là thấy vầng trăng trí tuệ ngập khắp thuyền, cũng là thấy không có gì để lưu giữ cả.
Thầy nói rằng thơ Thiền thường là ẩn dụ. Như thế, một niệm khởi, trùng trùng chuyện sẽ khởi. Thầy nói ngư bất thực là hình ảnh đóng cửa lục căn, rồi mới có định, rồi mới có tuệ, rồi thuyền mới chở trăng tuệ giác về.
Cũng cần ghi rằng, bốn câu cổ thi này đã được cố hòa thượng Đổng Minh dịch:
Đầu cần trăm thước buông câu
Một làn sóng gợn, nối nhau muôn lằn
Đêm nước lạnh, cá không ăn
Con thuyền trống rỗng chở trăng đi về!
Nơi đây, cũng xin dịch thơ này sang Anh ngữ:
A fishing rod is dropped from the top of a hundred-meter pole
A wave raises up, and thousands of waves follow
The fish eat nothing; the night is still, the water cold
The empty boat carries the full bright moon home.
Tôi nói với Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh rằng Thầy thực sự là pháp bảo của Phật Giáo Việt Nam, và đồng thời Thầy cũng là quốc bảo của dân tộc Việt Nam. Tôi nói, tôi vui mừng được gặp Thầy vì biết cơ duyên gặp này rất hiếm hoi.
Tôi nói, vui mừng trong đời là được gặp Phật pháp, là khởi lòng tin sâu vào Phật pháp, và là cơ duyên trên đường tu học được gặp thiện tri thức – và Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một bậc đại thiện tri thức, đã giúp, đang giúp và sẽ giúp rất nhiều người tu học. Những việc của Thầy đã làm thực sự là hy hữu.
Tôi nói rằng tôi vẫn thường xuyên vào Internet để đọc thơ và xem thư pháp của nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, và không nghĩ rằng mình sẽ sớm có cơ duyên đi Huế thăm vị thiền sư thi sĩ này. Thầy nói rằng thầy khi vào lớp 6 đã tự học luật thơ.
Thầy kể rằng về thư pháp, thầy cũng chẳng học ai, mà tự nghĩ ra thôi, chỉ vì hồi nhỏ được cha bắt học chữ Hán, lớn lên chút nữa thì quên, tới năm Đệ Tam mới học lại chữ Hán, mở sách xem chữ thảo của các tác gia khác nhau – nhìn thấy có người viết chữ như lá cỏ, có người viết chữ như gươm giáo tua tủa, có người viết nghiêm túc cẩn trọng, có người viết phóng khoáng cởi mở... và rồi, “Tui tự nghĩ ra cách viết chữ thư pháp Việt.”
Thầy kể rằng, ban đầu Chùa Huyền Không ở Lăng Cô, sau được khuyến cáo là nên dọn vào Huế. Sau nhiều thập niên, bây giờ là ba trung tâm do các huynh đệ của Thầy trụ trì, xem như ba mặt Thể, Tướng, Dụng để hoằng pháp, đáp ứng tùy cơ duyên với các loại chúng sinh.
Huyền Không Sơn Thượng, với Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Thầy nói, Sơn Thượng là tập trung về văn hóa nghệ thuật, về sinh hoạt tâm linh. Thầy nói rằng thầy đang kiến lập Rừng Thiền như ở Miến Điện để giúp những người muốn thực tu để giác ngộ, nhưng việc lập Rừng Thiền chưa hoàn tất vì còn trở ngại về phương diện tài chánh.
Thầy nói, ngôi chùa Huyền Không Sơn Trung tập trung vào việc giáo dục, hướng dẫn lớp trẻ, mở các khóa tu gieo duyên, mở trường dạy Anh văn miễn phí.
Và trung tâm Huyền Không Sơn Hạ tập trung vào từ thiệu xã hội, châm cứu chữa bệnh miễn phí. Thầy kể, y viện Tuệ Tĩnh Đường chăm sóc bởi các sư của Huyền Không Sơn Hạ hiện mỗi ngày đón vài trăm bệnh nhân.
Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, qua thời gian kiến lập các chùa Huyền Không, thầy đã tự hiểu được ngôn ngữ của đá, và nắm giữ được chìa khóa nghệ thuật vườn cảnh.
Thầy nói, “Tui là người dựng đá, đọc ngôn ngữ của đá.” Thầy nói, một viên đá để trước sân, có khi tỏa ra bầu không khí cô đơn, có khi mang ý nghĩa của hào khí độc lập, có khi làm cho ngôi nhà êm ấm hòa hài, có khi tạo ra sự xung khắc trong nhà...
Thầy nói, có nhiều trường hợp, chỉ xoay lại hướng đá, thế là ngôi chùa đó, hay ngôi nhà đó sẽ yên ổn, tan hết mọi phức tạp trước đó. Và đó cũng là lý do nhiều người dân, trong đó có nhiều đại gia nổi tiếng, đã mời thầy tới tận nhà của họ để xin giúp xem hướng và đặt hướng đá để tạo ra sự bình yên.
Thầy kể, thầy cũng từng được mời tới giúp xem hướng và xoay hướng đá ở nội điện Chùa Trúc Lâm ở Lâm Đồng, và ở cả nhiều chùa khác, kể cả một số chùa ở chân núi Yên Tử.
Đặc biệt, trong buổi trà đàm này -- còn có tên là Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh -- một Phật Tử chủ nhà in đã tới kịp, trình Thầy cuốn bản mẫu bộ sách có tưạ đề “Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt” của tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Đây là bản in trên giấy đầu tiên xuất hiện ở hải ngoại. Bộ sách này gồm 6 tập, dày 3.000 trang.
Đây là một tuyệt tác về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, một công trình đồ sộ, mà theo lời tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh, rằng Thầy đã viết 7 trang mỗi ngày, liên tục như thế trong 10 năm mới xong. Trong thời gian viết, đích thân Thầy đã sang tận một số nơi ở Ấn Độ, Nepal để dò lại các địa danh, địa điểm liên hệ tới cuộc đời của Đức Phật. Thí dụ, Thầy nói, thầy tới xem nơi cửa thành thứ tư, nơi kinh kể rằng Đức Phật đã thấy một xác chết, để xem có dòng sông nào hay không.
Lý do được tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, có một số tác phẩm viết về cuộc đời Đức Phật dưạ trên huyền thoạị nhiều hơn sự thật, dựa vào tưởng tượng thi hóa của người đời sau hơn là ghi đúng những gì đã xảy ra trong lịch sử và kinh điển.
Cũng cần ghi rằng, ấn bản điện tử của “Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt” hiện đã được lưu giữ trên nhiều trang web Phật Học.
Bạn Trần Minh Anh đã cầm đàn, hát một ca khúc Phật giáo.
Trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp này, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã tặng Cư sĩ Nguyên Giác một bức thư pháp, có bài thơ bốn câu như sau:
Giác thì đốn ngộ nguyên con
Đi thì tiềm tiệm dẵm mòn bể dâu
Chẳng cần dựng quán, bắc cầu
Hai bờ tự tại, non đầu nguyệt xưa.
Tôi không ngại sự vụng về, nên dâng lên Thầy 2 tấm chân dung vẽ trên giấy, để bày tỏ lòng trân trọng với nhà sư mà tôi quý trọng như là pháp bảo và là quốc bảo này.
Nơi đây, xin dịch ra tiếng Anh bốn câu thơ trên, theo nghĩa sẽ khá dài vì dính vào tích ‘Thương hải biến vi tang điền’ – ra văn xuôi là:
Someone could suddenly understand the whole path; however, that person has to mindfully walk and wear out the grass through so many ever-changing lands. It’s not necessary to build a shelter or a bridge; just watch the ancient moon on top of the mountain, and realize the freedom beyond both shores of the river.
Dịch xuôi như thế giữ được sát nghĩa, trong đó giải thích về những cách nói truyền thống về Thiền Tông. Nhưng nếu dịch cô đọng để giữ chất thơ, có thể viết theo mệnh lệnh cách:
Just understand the whole path via sudden awakening,
walk mindfully and patiently through ever-changing bogs,
need not build a bridge or a dwelling,
watch the ancient moon and be free at either shore.
Trong buổi nói chuyện, tôi đã hỏi rằng Thầy có xem phim về cuộc đời Đức Phật mới chiếu tại Việt Nam chưa. Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh nói rằng chưa.
Tôi nói, tôi hoan hỷ khi thấy một Phật sự lớn, tốn nhiều công sức, như làm phim, được thành tựu. Tuy nhiên, tôi lo ngại, rằng kết quả chưa hằn là tốt. Vì khi cho Đức Phật nói giọng Nam, hay Trung, hay Bắc đều sẽ bất lợi. Người nghe lúc nào cũng có tâm phân biệt. Thậm chí, ngay khi đưa đức Phật trở thành hình tướng một nam nhân trên phim, cũng sẽ dễ khởi chấp nơi người xem. Dù vậy, cũng nên tán thán các phương tiện hoằng pháp thời mới như thế.
Vài hôm sau, tôi gửi một số tấm hình chụp trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh tới thầy và các bạn cư sĩ đã tạo cơ hội để có buổi hội kiến này.
Thầy nổi tiếng với hình ảnh một nhà sư nghệ sĩ. Thầy năm nay 71 tuổi (sinh năm 1944), đã in 32 cuốn sách, và còn 49 bản thảo chưa ấn hành.
Hôm Thứ Sáu của tuần lễ cuối tháng 4-2014, khi hai vị cư sĩ Tâm Diệu và Tâm Linh lên Pomona thăm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã trao tặng Thư Viện Hoa Sen bức tranh thư pháp với bốn câu thơ:
Hoa ươm mùi đạo vị
Sen ngát mạn đà hương
Thư kinh trăng giọt ngọc
Viện bối phụng văn chương
Nơi đây, xin dịch các câu thơ tuyệt vời này sang tiếng Anh để sẽ chia sẻ với một số bạn trẻ:
The flower that raises the dharma sense
The lotus that passes on the mandala scent
The scripture that points to the moon of jewelry
The hall that treasures the literary beauty.
Hôm Thứ Bảy kế tiếp đó, tôi có cơ duyên được ba vị thiện tri thức – anh Trần Minh Anh và vợ chồng anh Tôn Tiên; họ đều là học trò của Huyền Không Sơn Thượng từ thời còn ở Huế nhiều thập niên trước -- đưa tới một ngôi chùa miền núi phía Nam California để hội kiến Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, người nổi tiếng về nhiều phương diện tàì năng, nhưng có một đời sống rất bình dị, thơ mộng.
Trong buổi trà đàm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đọc bài cổ thi nổi tiếng trong nhà thiền:
Bách xích can đầu, trực hạ thùy
Nhất ba tài động vạn ba tùy
Dạ tĩnh, thủy hàn ngư bất thực
Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy!
Tiếp theo, Thầy đọc bản dịch tiếng Việt của Thầy:
Trăm thước đầu cần thỏng điếu ông
Một làn sóng dợn, dợn muôn trùng
Giá băng, đêm lặng, khôn tăm cá
Về chở đầy thuyền ánh nguyệt không!
Thầy giải thích rằng hình ảnh duyên khởi (một dợn sóng, dẫn tới muôn vạn sóng) và hình ảnh ngư bất thực (cá không ăn mồi) là 2 ý quan trọng trong bài thơ, rằng khi nào tâm không cắn mồi của sắc thanh hương vị xúc pháp mới đúng là tâm thiền, lúc đó mới là thấy vầng trăng trí tuệ ngập khắp thuyền, cũng là thấy không có gì để lưu giữ cả.
Thầy nói rằng thơ Thiền thường là ẩn dụ. Như thế, một niệm khởi, trùng trùng chuyện sẽ khởi. Thầy nói ngư bất thực là hình ảnh đóng cửa lục căn, rồi mới có định, rồi mới có tuệ, rồi thuyền mới chở trăng tuệ giác về.
Cũng cần ghi rằng, bốn câu cổ thi này đã được cố hòa thượng Đổng Minh dịch:
Đầu cần trăm thước buông câu
Một làn sóng gợn, nối nhau muôn lằn
Đêm nước lạnh, cá không ăn
Con thuyền trống rỗng chở trăng đi về!
Nơi đây, cũng xin dịch thơ này sang Anh ngữ:
A fishing rod is dropped from the top of a hundred-meter pole
A wave raises up, and thousands of waves follow
The fish eat nothing; the night is still, the water cold
The empty boat carries the full bright moon home.
Tôi nói với Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh rằng Thầy thực sự là pháp bảo của Phật Giáo Việt Nam, và đồng thời Thầy cũng là quốc bảo của dân tộc Việt Nam. Tôi nói, tôi vui mừng được gặp Thầy vì biết cơ duyên gặp này rất hiếm hoi.
Tôi nói, vui mừng trong đời là được gặp Phật pháp, là khởi lòng tin sâu vào Phật pháp, và là cơ duyên trên đường tu học được gặp thiện tri thức – và Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một bậc đại thiện tri thức, đã giúp, đang giúp và sẽ giúp rất nhiều người tu học. Những việc của Thầy đã làm thực sự là hy hữu.
Tôi nói rằng tôi vẫn thường xuyên vào Internet để đọc thơ và xem thư pháp của nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, và không nghĩ rằng mình sẽ sớm có cơ duyên đi Huế thăm vị thiền sư thi sĩ này. Thầy nói rằng thầy khi vào lớp 6 đã tự học luật thơ.
Thầy kể rằng về thư pháp, thầy cũng chẳng học ai, mà tự nghĩ ra thôi, chỉ vì hồi nhỏ được cha bắt học chữ Hán, lớn lên chút nữa thì quên, tới năm Đệ Tam mới học lại chữ Hán, mở sách xem chữ thảo của các tác gia khác nhau – nhìn thấy có người viết chữ như lá cỏ, có người viết chữ như gươm giáo tua tủa, có người viết nghiêm túc cẩn trọng, có người viết phóng khoáng cởi mở... và rồi, “Tui tự nghĩ ra cách viết chữ thư pháp Việt.”
Thầy kể rằng, ban đầu Chùa Huyền Không ở Lăng Cô, sau được khuyến cáo là nên dọn vào Huế. Sau nhiều thập niên, bây giờ là ba trung tâm do các huynh đệ của Thầy trụ trì, xem như ba mặt Thể, Tướng, Dụng để hoằng pháp, đáp ứng tùy cơ duyên với các loại chúng sinh.
Huyền Không Sơn Thượng, với Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Thầy nói, Sơn Thượng là tập trung về văn hóa nghệ thuật, về sinh hoạt tâm linh. Thầy nói rằng thầy đang kiến lập Rừng Thiền như ở Miến Điện để giúp những người muốn thực tu để giác ngộ, nhưng việc lập Rừng Thiền chưa hoàn tất vì còn trở ngại về phương diện tài chánh.
Thầy nói, ngôi chùa Huyền Không Sơn Trung tập trung vào việc giáo dục, hướng dẫn lớp trẻ, mở các khóa tu gieo duyên, mở trường dạy Anh văn miễn phí.
Và trung tâm Huyền Không Sơn Hạ tập trung vào từ thiệu xã hội, châm cứu chữa bệnh miễn phí. Thầy kể, y viện Tuệ Tĩnh Đường chăm sóc bởi các sư của Huyền Không Sơn Hạ hiện mỗi ngày đón vài trăm bệnh nhân.
Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, qua thời gian kiến lập các chùa Huyền Không, thầy đã tự hiểu được ngôn ngữ của đá, và nắm giữ được chìa khóa nghệ thuật vườn cảnh.
Thầy nói, “Tui là người dựng đá, đọc ngôn ngữ của đá.” Thầy nói, một viên đá để trước sân, có khi tỏa ra bầu không khí cô đơn, có khi mang ý nghĩa của hào khí độc lập, có khi làm cho ngôi nhà êm ấm hòa hài, có khi tạo ra sự xung khắc trong nhà...
Thầy nói, có nhiều trường hợp, chỉ xoay lại hướng đá, thế là ngôi chùa đó, hay ngôi nhà đó sẽ yên ổn, tan hết mọi phức tạp trước đó. Và đó cũng là lý do nhiều người dân, trong đó có nhiều đại gia nổi tiếng, đã mời thầy tới tận nhà của họ để xin giúp xem hướng và đặt hướng đá để tạo ra sự bình yên.
Thầy kể, thầy cũng từng được mời tới giúp xem hướng và xoay hướng đá ở nội điện Chùa Trúc Lâm ở Lâm Đồng, và ở cả nhiều chùa khác, kể cả một số chùa ở chân núi Yên Tử.
Đặc biệt, trong buổi trà đàm này -- còn có tên là Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh -- một Phật Tử chủ nhà in đã tới kịp, trình Thầy cuốn bản mẫu bộ sách có tưạ đề “Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt” của tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Đây là bản in trên giấy đầu tiên xuất hiện ở hải ngoại. Bộ sách này gồm 6 tập, dày 3.000 trang.
Đây là một tuyệt tác về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, một công trình đồ sộ, mà theo lời tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh, rằng Thầy đã viết 7 trang mỗi ngày, liên tục như thế trong 10 năm mới xong. Trong thời gian viết, đích thân Thầy đã sang tận một số nơi ở Ấn Độ, Nepal để dò lại các địa danh, địa điểm liên hệ tới cuộc đời của Đức Phật. Thí dụ, Thầy nói, thầy tới xem nơi cửa thành thứ tư, nơi kinh kể rằng Đức Phật đã thấy một xác chết, để xem có dòng sông nào hay không.
Lý do được tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, có một số tác phẩm viết về cuộc đời Đức Phật dưạ trên huyền thoạị nhiều hơn sự thật, dựa vào tưởng tượng thi hóa của người đời sau hơn là ghi đúng những gì đã xảy ra trong lịch sử và kinh điển.
Cũng cần ghi rằng, ấn bản điện tử của “Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt” hiện đã được lưu giữ trên nhiều trang web Phật Học.
Bạn Trần Minh Anh đã cầm đàn, hát một ca khúc Phật giáo.
Trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp này, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã tặng Cư sĩ Nguyên Giác một bức thư pháp, có bài thơ bốn câu như sau:
Giác thì đốn ngộ nguyên con
Đi thì tiềm tiệm dẵm mòn bể dâu
Chẳng cần dựng quán, bắc cầu
Hai bờ tự tại, non đầu nguyệt xưa.
Tôi không ngại sự vụng về, nên dâng lên Thầy 2 tấm chân dung vẽ trên giấy, để bày tỏ lòng trân trọng với nhà sư mà tôi quý trọng như là pháp bảo và là quốc bảo này.
Nơi đây, xin dịch ra tiếng Anh bốn câu thơ trên, theo nghĩa sẽ khá dài vì dính vào tích ‘Thương hải biến vi tang điền’ – ra văn xuôi là:
Someone could suddenly understand the whole path; however, that person has to mindfully walk and wear out the grass through so many ever-changing lands. It’s not necessary to build a shelter or a bridge; just watch the ancient moon on top of the mountain, and realize the freedom beyond both shores of the river.
Dịch xuôi như thế giữ được sát nghĩa, trong đó giải thích về những cách nói truyền thống về Thiền Tông. Nhưng nếu dịch cô đọng để giữ chất thơ, có thể viết theo mệnh lệnh cách:
Just understand the whole path via sudden awakening,
walk mindfully and patiently through ever-changing bogs,
need not build a bridge or a dwelling,
watch the ancient moon and be free at either shore.
Trong buổi nói chuyện, tôi đã hỏi rằng Thầy có xem phim về cuộc đời Đức Phật mới chiếu tại Việt Nam chưa. Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh nói rằng chưa.
Tôi nói, tôi hoan hỷ khi thấy một Phật sự lớn, tốn nhiều công sức, như làm phim, được thành tựu. Tuy nhiên, tôi lo ngại, rằng kết quả chưa hằn là tốt. Vì khi cho Đức Phật nói giọng Nam, hay Trung, hay Bắc đều sẽ bất lợi. Người nghe lúc nào cũng có tâm phân biệt. Thậm chí, ngay khi đưa đức Phật trở thành hình tướng một nam nhân trên phim, cũng sẽ dễ khởi chấp nơi người xem. Dù vậy, cũng nên tán thán các phương tiện hoằng pháp thời mới như thế.
Vài hôm sau, tôi gửi một số tấm hình chụp trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh tới thầy và các bạn cư sĩ đã tạo cơ hội để có buổi hội kiến này.
Thầy đã từ bi email trả lời, trong đó ghi mấy dòng:
“Tặng cư sĩ Nguyên Giác:
Ta đi qua dòng đục
Lội ngược đến nguồn xanh
Vẫn vỗ thuyền ca hát
Ngắm chân diện long lanh!
MĐTTA”
Nơi đây, xin dịch ra tiếng Anh bốn câu thơ này:
Inversely to the green headspring,
I travel over the muddy flowing,
tap the side of the boat,
sing, and gaze the bright true face.
Hôm nay được đọc bài thơ “Tôi Tìm Phật” của Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, xin dịch ra để lưu niệm trong mùa Đại Lễ Vesak như sau.
TÔI TÌM PHẬT Minh Đức Triều Tâm Ảnh 1- "Nhược dĩ sắc kiến ngã Dĩ âm thanh cầu ngã Thị nhân hành tà đạo Bất năng kiến Như Lai" Câu kệ ngôn xưa Tôi đọc mãi, tụng hoài Qua tháng qua năm Tuổi tác chất đầy Mà vẫn không bao giờ thuộc được Tôi đã từng đi tìm ngài Qua nguy nga chùa tháp Tượng đài vàng son Điểm ngọc, đeo châu Từ kinh thành phồn hoa Đến đô thị sắc màu Chân dung Phật thật huy hoàng tráng lệ Ngài ngồi trên bảo đài cao Uy nghi chín bệ Long phục, hổ chầu Hàng quỷ, độ ma Ngài phóng hào quang Xuyên cõi ta bà Oai nhiếp thần linh Đoạt quyền Thượng Đế Cứ mỗi độ Vesak Là tưng bừng khắp năm châu bốn bể Nhân loại lại reo hò đại lễ tôn nghinh Cờ phướn, đèn hoa phất phới, lung linh Nhã nhạc, trầm hương Vũ ca dìu dặt! Đấy có phải là chúng ta đi tìm Phật? Khi chúng sanh đang thống khổ, tai ương Khi đạo đức tan hoang, đỗ vỡ thê lương Khi khủng bố, chiến tranh, điêu tàn nhân lý Ngài đâu cần nhân gian tôn xưng, cổ suý Đâu cần phù hoa sắc tướng tri ân Mỗi người hãy tự tu Tự ngắm bóng mình Để thấy rõ tham sân chất dày bản ngã Mặt nạ hư dối đã tráo lầm bao độ Quá dày sâu không thấy rõ thực hư Phật không thể ngồi trong điện các kim châu Cũng đâu muốn chốn chốn già lam Hoành tráng, lớn to Để nhân huy chương, kỷ lục Đệ tử sa-môn chỉ cần cội cây, lều trống Ôm bát xin ăn, dị giản thanh bần Manh áo cà sa chỉ để che thân Đâu phải là tỷ phú, đại gia mà cao sang, kiểu cách Đâu phải đại đế, tiểu vương Mà lễ nghi phục dịch Chân đất đầu trần, tuệ đức gương trăng Buông bỏ, xả ly cả mảy vi trần Không dính bụi Khi huyễn thân trả về cho cát bụi Hạt xá-lợi là ngọc Được kết tinh từ vô biên trí giác Từ vô biên hỷ xả từ bi Có hành, có tu mới biết có gì Đi tìm Phật khỏi thấy mình lạc lối Tôi đã mê si, vô minh mà dặm trần dong ruổi Chạy đuổi theo bóng sắc của ma vương Những cám dỗ kiêu xa Những ảo ảnh mê trần Ngoại tướng là thiên cung Nhưng bên trong là địa ngục Bây giờ tôi đã tỉnh thức Mong thế gian cùng tỉnh thức Để trở về giác niệm quy y! 2- Câu kệ ngôn xưa Nguyên ngữ nói gì "Nhược dĩ sắc kiến ngã Dĩ âm thanh cầu ngã Thị nhân hành tà đạo Bất năng kiến Như Lai" Tôi đã từng thơ, văn giỡn chữ, khoe tài Cũng đã từng mỹ ngôn Đăng đàn thuyết giáo Những băng đĩa âm thanh tuyệt hảo Những video giảng nói hùng hồn Những báo đài ầm ĩ phô trương Đức Phật hôm nay cũng phải tiếp thị thị trường Cũng buôn bán âm thanh Cho người người tìm Phật Đàn sáo, nhạc ca, hát ngâm xảo thuật Mê ly lòng người Đắm đuối kẻ "chân tu" Tôi đã từng bỏ trí, theo ngu Chạy theo ngôn lời chập chùng khái niệm Đi tìm Phật Lại rơi vào thanh tướng Quyết "xao thôi" chữ nghĩa cho hay ho Sự thực một ly Là ngàn dặm xa bờ Ngón tay chỉ không còn là mặt trăng Mà thấy toàn xanh đỏ Thấy của phái này, của hệ kia Của mưu đồ vị kỷ Của tông môn mình Của tử đệ đồng tràng Ai cũng là chân sư, đạo sư, giáo chủ vênh vang Ai cũng nắm chân lý trong tay Ai cũng là thánh nhân Vì thương đời mà ra tay cứu độ! Nào thông điệp Nào tuyên ngôn rộn ràng dâu bể Nói rồi xong theo ước lệ đời thường Nói rồi vỗ tay Đoàn kết, yêu thương Như ngọn gió xao qua rồi mất Như chữ nghĩa, ngữ ngôn, âm thanh Đã hiển bày sự thật! Ôi! Có vị hiền đức đã nói: "Tri giả bất ngôn, Ngôn giả bất tri" Biết bao năm đi tìm Phât Mà tôi lại chạy đuổi theo thơ phú ca từ Nói quá nhiều Có nghĩa là đa ngôn đa quá Nói nhiều thì lỗi nhiều Nguyên ngôn càng xa lạ Chỉ chứng tỏ sự nghèo nàn trí tuệ trong tôi Lại còn tán hay, tụng giỏi, xướng tài Chuông mõ dặt dìu Cầu mong chánh giác Tôi cũng đã từng Mải mê âm thanh, sắc tướng Mà bỏ quên giác niệm từng giờ Mà bỏ quên tự tánh quy y Tâm mình là Phật! 3- "Nhược dĩ sắc kiến ngã Dĩ âm thanh cầu ngã Thị nhân hành tà đạo Bất năng kiến Như Lai" Do vậy, hôm nay Tôi cố gắng học thuộc bài Câu kệ ngôn từ ngàn cao sương khói Câu kệ ngôn vượt muôn trùng bóng tối Để trở về tao ngộ chân tâm Vesak đã về đây Tôi lặng lẽ âm thầm Trong căn phòng nhỏ xa quê Đốt một thỏi trầm Rồi trầm tư, mặc tưởng Rồi toạ thiền Rồi rời xa âm thanh, sắc tướng Rời xa đảo điên, thế mộng phù du Tôi đã từng bị bản ngã nhốt tù Bản ngã lợi danh, kiêu căng, vị kỷ Quyết học cho thuộc Bài kinh về "lửa" Lửa đã cháy rồi Từ mắt tai mũi lưỡi Lửa đã cháy rồi Từ sắc thanh hương vị giác Lửa đã cháy rồi Địa đại, thiên hà Ba cõi cháy rồi đốt bạn, đốt ta Đốt cả nhàn vui, lạc an tâm lý Đốt cả quỷ vương, dạ xoa, ma mị Đốt cả rồi Để thấy rõ duyên khởi tánh không Từ tánh không Có bóng Phật trăng lồng Trời chân đế Tao phùng trong từng hơi thở một Tôi đi tìm Phật Biết bây giờ là thật Trong cô liêu Chỉ có Phật của lòng tôi Để nguyên ngôn chẳng hiện chữ lời Chim bay trên trời kia Đám mây trăng thong dong kia Cùng vô tâm xoá giấu! Đức Phật của tôi Vẫn xán lạn Triệu triệu huy quang tinh đẩu! Chùa Hương Đạo Fort Worth - Dallas - Texas Minh Đức Triều Tâm Ảnh (Translated by Nguyen Giac) | IN SEARCH of BUDDHA Minh Đức Triều Tâm Ảnh 1- Those who rely on form to see me, or rely on sound to seek me are all in the wrong path and cannot meet the Thus Come One. I read and chant that ancient verse over and over. As months and years piled up on my aged body, I still cannot memorize it. I has traveled in search of Buddha via the enormous temples and stupas via the golden statues and monuments where the Buddha images are so marvelous being adorned with diamonds and gems -- in the luxurious capitals and in the colorful cities Sitting on high precious towers Above nine princely tiers With crouching dragons and flanking tigers With surrendered ghosts and conquered demons With radiant lights beaming through the samsara controlling all the angels overcoming King of the Gods In every Vesak season people from five continents and four oceans celebrate festivals with great fanfare -- colorful banners, floral lanterns, pleasing music, incense rituals and rhythmic dance shows Is that the right way to go in search of Buddha? While humanity mourns and suffers While morality is wrecked and shattered While terrorism and wars ruin the kindness and saneness Buddha needs not be worshipped and glorified with all the luxurious appearances We all should practice ourselves Just watch our reflections To see clearly the greed and hatred whose illusionary mask’s repeatedly deceived us whose thick veil’s confused us about the truth Buddha wants to neither sit in a jewelled palace nor stay in any huge temple to receive any medallion or world record We monks need to live in simplicity -- a kasava robe to cover the body, a bowl to go for almsround, the foot of a tree or an empty hut for shelter A monk should live like neither a billionaire who lives in nobility and wealth nor a king who demands the services from obedient servants. Just keep bald head, walk barefoot, and have the wisdom of a shining moon Just live a life of renunciation and cling not to a grain of dirt After this illusionary body returns to dust some relics would be found among the ashes They are jewels crystallized from the vast wisdom from endless benevolence, compassion, empathetic joy, and equanimity By practicing, we know what we gain and where we walk on the path to find Buddha I was deluded to go astray in samsara clinging to the reflected forms of Yama to the glamorous charms to the lustful illusions and to the Hell that appears as Heaven Now, I am awake I wish that all humanity would be awake too and take refuge in enlightened insight. 2- What did the ancient verse mean in these words: “Those who rely on form to see me, or rely on sound to seek me are all in the wrong path and cannot meet the Thus Come One.” I have played with poetry, showed off my literary ability, and come on stage to give dharma talks My CDs have a superb sound quality My videos show the eloquent dharma talks My magazines and radios drum up things vocally Should Buddha today join marketing, use nice voices to sell things, invite humanity to seek Buddha, lure people with beautiful music and sink the “true practitioners”? For a long time I shunned the wisdom followed the ignorance ran after noisy verses went in search of Buddha and fell among sounds and appearances Selecting nice words to sugarcoat poems, I strayed a thousand miles away from the shore The finger points no more at the moon I see now all the blue and red colors raising by these sects and those schools showing the selfish plots to benefit their sects and schools They all brag themselves as true masters They say they have the truth in their hands They say they are holy men and women They say their love turn them into the saviors They spread out messages and declarations packed with ever-changing noises They say and then, as normal people, They clap their hands Sounds of unity and love fly with the passing wind and vanish ditto their words, their verses, and their voices Thus the truth is shown Oh! An ancient sage once sald: “The knowers do not say; the sayers do not know.” So many years as a Buddha seeker, I went astray with words and verses I spoke a lot The more words, the more mistakes The more miles away from the original words Thus is shown my mental poverty. Also, I did so well with the singing and chanting I prayed rhythmically with the bell and drum to ask for the true enlightenment Also, I was seduced by the sounds and forms Thus I forgot to be constantly mindful Thus I forgot to take refuge in the self nature -- The mind is Buddha 3- Those who rely on form to see me, or rely on sound to seek me are all in the wrong path and cannot meet the Thus Come One. So today I try to learn by heart the ancient verse that has been passed on from the highest mountain the ancient verse that has guided me through the thousand darkness -- and now, I see the true mind Vesak has come here I calmly feel the peace in a small room far away from home burn a piece of incense then rest in mindfulness then sit in meditation and then depart away from the sound and form -- thus departing away from the upside-down and illusionary world I was a prisoner of myself -- of greediness, arrogance, selfism I now try to learn by heart the Fire Sermon The fire is burning from the eyes, ears, nose and tongue The fire is burning from the form, sound, odor, flavor and sensation The fire is burning all over the earth and sky The fire is burning the three realms burning you, burning me burning all the pleasure and satisfaction burning all the demons and ghosts burning all things to show clearly the causal emptiness From the emptiness the reflection of Buddha appears in the moon The sky of ultimate truth absorbs in each of my breaths I go in search of Buddha and know this moment is real In the solitariness there appears only the Buddha of my mind there appears the wordless of the original words The flying birds in sky and the floating white clouds cannot block the view anymore My Buddha still shines bright all over the millions of stars! Huong Dao Temple Fort Worth – Dallas – Texas Minh Duc Trieu Tam Anh (Translated by Nguyen Giac) |
Nơi đây, xin trân trọng cảm ơn vị đại sư viện chủ sơn tự Pomona và các thiện hữu tri thức đã giúp cho có cơ duyên gặp gỡ này. Và hy vọng độc giả sẽ niệm tình bỏ qua cho những sơ suất trong bài này, nếu có.
PHOTO:
Hai vị thiện tri thức từng biết thầy từ nhiều thập niên trước ở Huế. Từ phải: anh Tôn Tiên, anh Trần Minh Anh.
Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh trao tặng tấm thư pháp.
Cúng dường thầy hai tấm chân dung vẽ lưu niệm.
Tấm thư pháp.
Anh Trần Minh Anh đàn.
Hai vơ chồng bạn Tôn Tiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét