* LỊCH SỬ
PHẬT GIÁO VÀ
DÂN TỘC VIỆT NAM
LỜI ĐẦU
Huyền sử con Rồng cháu Tiên thoát thai từ trăm trứng,
50 con xuống biển, 50 con lên núi để dân tộc mãi mãi là biểu tượng phân ly,
trong tôn giáo và trong bất cứ tổ chức nào một khi đã hình thành.
Cũng từ con
Rồng cháu Tiên đã phát sanh lắm anh tài, thông minh và thao lược. Hàng ngàn năm
bia sử, vô số tài năng xuất chúng đóng góp cho quê hương trong nhiều lãnh vực,
nhưng những bậc anh minh vừa có công dựng nước, chống ngoại xâm, vừa chăm lo
cuộc sống cho dân chúng về vật chất lẫn tâm linh thì chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tuy nhiên, những bậc xuất chúng như thế, lịch sử Việt Nam ta đã đậm nét ghi công, cho dù
thời gian và thể chế khác nhau, cũng không thể xóa mờ hào quang một thời của
những bậc anh kiệt như thế.
Việt sử cũng như giáo sử, các nhân vật lừng danh, đấu
tranh chống ngoại xâm, chấn hưng Phật giáo không thiếu. Nhiều điểm son hàng
ngàn năm qua chưa phai nhòa, lưu lại cho con cháu một dấu ấn lịch sử để hãnh
diện và tiếp bước cha ông đến hôm nay.
Tuy vậy, những danh nhân vừa mang giòng máu Lạc Việt,
vừa thấm đượm tinh thần Phật học, hòa quyện Phật học với xã hội, vừa thi triển
nhiệm vụ bảo vệ đất nước vừa chấn hưng đạo đức tín ngưỡng trên đôi vai gánh
nặng xã tắc và tâm linh, là bậc hy hữu đối với một dân tộc nhỏ bé như đất nước
ta vào những thế kỷ xa xưa. Con cháu chúng ta không được phép xao lãng, có bổn
phận phải ghi ân, tưởng nhớ những hiền nhân Thánh trí đó, nuôi dưỡng hào khí
dân tộc để tự đứng trên đôi chân mà dũng tiến.
Rất nhiều những nhân vật có công với tổ quốc nhưng
không liên can gì đến đạo Phật, cũng không ít các bậc chân sư hiền tài trong
Phật giáo mà không đóng góp mở mang phát triển đất nước, làm rạng danh đôi bề,
vì thế, những trang sử sau đây nêu lên những nhân vật lịch sử vừa sáng danh đạo
vừa hiển hách với đất nước, hẳn nhiên chưa được đầy đủ, nhưng cũng góp một phần
nhỏ cho đàn hậu học sưu tầm.
MỐC LỊCH SỬ
Lịch sử khai quốc từ 18 đời vua Hùng, cho dù mang tính
huyền thoại nhưng là một hào khí linh kiệt kéo dài suốt thời lập quốc, mở mang
bờ cõi đến bảo vệ lãnh thổ, luôn là những vầng hào quang của dân tộc. Một loại
hào quang không tự khiên cưỡng cố tạo mà là một thực lực thể hiện bản chất nghị
lực và tài năng của một dân tộc: đó là hồn thiêng sông núi thẩm thấu vào máu
huyết của một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường trước bao sức mạnh của kẻ xâm
lăng. Mãi gần 5.000 năm qua, vẫn hiên ngang nằm một góc nhỏ trên bản đồ thế
giới.
*
* *
TRIỆU
ĐÀ VÀ SĨ NHIẾP
Vị thế văn hoá-chính trị như một nhà lãnh đạo Phật giáo của Sĩ
Nhiếp đã trở thành vị thế văn hoá-chính trị của những vị minh quân-anh hùng dân
tộc đã khai sáng những thời đại độc lập và vinh quang cho đất nước Việt Nam, từ
Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đến Lý Công Uẩn, Trần Thái Tông,
Trần Nhân Tông, và các chúa Nguyễn trong buổi đầu lập quốc và dựng nước ở Đàng
Trong, như Nguyễn Hoàng (chúa Tiên), Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi), Nguyễn Phúc
Lan (chúa Hiền), Nguyễn Phúc Tần (chúa Nghĩa), Nguyễn Phúc Chu (xứng đáng để
được tôn vinh là chúa Phật). Nguyễn Phúc Chu là người đã đúc đại hồng chung
nặng 3.285 ký ở chùa Linh Mụ và tự tay viết lời chú được khắc trên chuông: ta
không muốn gì cho ta, cho triều đại ta, ta chỉ muốn mưa thuận gió hoà, quốc gia
thái bình, nhân dân an lạc và tất cả mọi người đều thành Phật: “Quốc Chúa Đại
Việt Nguyễn Phước Châu, nối dòng phái Thiền Tào Động chánh tông, đời thứ 30,
pháp danh Hưng Long, đúc đại hồng chung cân nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Linh
Mụ, để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo, chú nguyện mưa hoà gió thuận, quốc thái
dân an, chúng sanh trong pháp giới đều thành đại viên chủng trí. Năm Vĩnh Thịnh
thứ sáu, ngày Phật đản tháng tư năm Canh Dần (1710)”. Ðây quả thực là lời chú
nguyện tuyệt vời của một vị quân vương Phật tử nhiệt thành, gương mẫu, siêu
hùng. Tương tự, giáo sư Lê Mạnh Thát cũng khẳng định trong tác phẩm nghiên
cứu về Mâu Tử: từ thế kỷ thứ hai, nghĩa là
cách đây hơn 1.800 năm, Việt Nam đã có một chính quyền độc lập, và đây cũng là
chính quyền mang đậm màu sắc Phật giáo, lấy Phật giáo làm chủ đạo văn hoá-chính
trị của thời đại.
Nhiều người tưởng Sĩ Nhiếp là người Hoa. Thật ra, ông là người Việt 100%. Tổ tiên lâu
đời của ông là người Tàu, gốc ở nước Lỗ, trong thời gian Vương Mãn cướp ngôi
nhà Hán, vào đầu thế kỷ thứ nhất, mới sang Giao Chỉ lánh nạn và định cư hẳn ở
nước ta, tại đất Quảng Tín, thuộc quận Thương Ngô, như một di dân. Đến đời thân
phụ Sĩ Nhiếp là sáu đời, và đến đời Sĩ Nhiếp, vào cuối thế kỷ thứ hai, là đời
thứ bảy, tổng cộng gần 200 năm.
Triệu Đà là người Hoa 100%, nhưng chỉ vì ở
lâu năm trên đất Việt, lấy vợ Việt, bị thu hút bởi nét quyến rũ của đất phương
Nam, nên được Việt hoá và thành Việt 100% về văn hoá, ứng xử. Người Tàu miệt
thị gọi dân Việt là Nam di, là người mọi rợ phương Nam, thì Triệu Đà, tức Nam
Việt Vũ Đế, hay Nam Việt Vương, một người sống thọ đến 121 tuổi và làm vua hơn
70 năm, đã tự xưng là “Nam di đại trưởng lão” trong
thư trả lời Hán Vũ Đế. Con cái của những người Hoa di dân này, chỉ một đời, đã
thành Việt, nói gì đến đời thứ bảy, vì hầu như tất cả người Hoa kiều đều lấy vợ
Việt nên con cái của họ được Việt hoá rất nhanh. Sĩ Nhiếp đã trải qua bảy đời
nên dứt khoát ông là người Việt, cũng giống như trường hợp của Lý Bí (tức Lý
Nam Đế) hay Hồ Quý Ly và rất nhiều danh nhân người Việt gốc Hoa khác mà tổ tiên
đã định cư lâu đời ở Việt Nam. Ðó cũng là lý do mà học giả Taylor đã dùng từ
những “đại gia đình Việt-Hán”.
Sĩ Nhiếp tự là Uy Ngạn, sinh năm 137, mất năm
226. Cha là Sĩ Tứ thời Hán Hoàn Đế (147-167) từng được cử làm thái thú quận
Nhật Nam, ở miền cực Nam của Giao Chỉ. Ông là một sinh viên xuất sắc và được
gởi đi học ở Trường An, kinh đô nhà Hán. Ở đó ông đã đỗ bằng hiếu liêm, và được
bổ làm thượng thư lang. Sau khi đỗ bằng mậu tài, ông được bổ làm thái thú quận
Giao Chỉ. Ở kinh sư Trường An, ông học với thầy Lưu Đào, người đất Dĩnh Xuyên,
chuyên nghiên cứu về Tả Thị Xuân Thu. Sau thành tài trở về quê nhà xứ Việt,
được bổ nhiệm đứng đầu quận Giao Chỉ, là quận đông dân nhất, quan trọng nhất, ở
vị thế trung tâm của toàn cõi Giao Chỉ bộ, mà Thương Ngô, nơi ông sinh ra, và
Nhật Nam, nơi cha ông từng làm thái thú, là hai vùng ngoại biên, phụ thuộc và
quy hướng về. Không những là một nhà cai trị cao cấp, ông còn là một học giả và
tác giả tên tuổi: “Việc quan chút rảnh, liền xem thơ truyện, Xuân Thu Tả Thị
truyện lại càng luyện cứu tinh vi... nghe các học giả cổ và kim văn ở kinh đô
cãi nhau phải trái quyết liệt, nay muốn liệt kê trường nghĩa của Thượng Thư và
Tả Thị để dâng lên...”. Ông xuất hiện như một quân vương-triết gia (philosopher-king),
một lý tưởng lâu đời của chính trị Tây phương.
Như thế, ta thấy Sĩ Nhiếp được tiếp thu nền
học vấn chính quy, tinh hoa từ thủ đô Trung Hoa và đạt đến mức cao cấp của nền
giáo dục Nho học này. Không những thế, ông còn nghiên cứu sâu rộng về học thuật,
tư tưởng, lịch sử, chính trị Trung Hoa, và viết sách diễn giảng, bình luận
những vấn đề triết học, lịch sử, chính trị đương thời. Xem như thế đủ rõ là vào
thế kỷ thứ 2, thứ 3, người Việt đã đạt đến trình độ học vấn, bằng cấp, trí tuệ
không thua kém gì người Hán, cũng như đã có khả năng và được cử vào những chức
vụ cao cấp. Trước Sĩ Nhiếp, đã có Lý Tiến, một người Việt, được cử làm thứ sử
Giao Chỉ bộ, Lý Cầm được cử làm quan tư lệ hiệu úy, Trương Trọng làm thái thú
Kinh Thành ...
Sĩ Nhiếp là nhà lãnh đạo thành công nhất ở
nước ta trong thời Bắc thuộc. Theo truyện Sĩ Nhiếp của Ngô Chí thì: “Nhiếp tính
khoan hậu… sĩ nhân Trung Hoa đến tị nạn lên đến số trăm”. Theo Mâu Tử, vào cuối
thế kỷ thứ hai, sau khi Hán Linh Đế băng hà năm 189: “Thiên hạ nhiễu loạn, chỉ
Giao Chỉ tạm yên, người tài phương Bắc đều đến đó ở”. Không những là một nhân
tài về học vấn, tư tưởng, Sĩ Nhiếp còn là một người đức độ, tiếng tăm vang dội
đến Trung Hoa. Khi Trung Hoa rơi vào cảnh hỗn loạn thì những nhân tài Trung
Hoa, mà Mâu Tử gọi là những “Bắc phương dị nhân”, vốn sẵn ngưỡng mộ, có giao du
hay chỉ nghe tiếng, đã vượt ngàn dặm xa xôi, đến nước ta để hưởng cảnh thái
bình, thịnh trị. Không những thế, Sĩ Nhiếp còn xây dựng Giao Chỉ thành một xứ
tự chủ, yên ổn giữa cảnh đại loạn trên toàn đế quốc Trung Hoa.
Viên Huy, trong báo cáo gởi cho thượng thư
lịnh Tuân Hoặc của thừa tướng Tào Tháo đã ca ngợi: “Sỹ phu quân của Giao Chỉ
(tức Sĩ Nhiếp) học vấn đã ưu bác, lại thành công trong tùng chính, ở trong đại
loạn, bảo toàn một quận, hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp,
bọn người lệ thuộc đều được nhờ ơn tuy Đậu Dung giữ Hà Tây há hơn được ư?....
Đương thời quí trọng, chấn phục trăm Man, Úy Đà không đủ hơn...”
Đậu Dung là một nhân vật đặc biệt, một trong
những lãnh tụ Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa. Ông xây chùa lớn chứa được ba
ngàn người, và nhân mùa Phật đản, làm tiệc đãi dân chúng dài trên 10 dặm đường.
Còn Triệu Đà là người cha khai sáng nước Nam Việt, bao gồm toàn cõi Lĩnh Nam
của Việt tộc, từ hồ Động Đình ở Hồ Nam đến Phù Nam, và đã làm cho đế quốc Trung
Hoa phải khiếp sợ cầu hoà. Viên Huy so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà. Đây là một
nhận định chính trị quan trọng trên hai điểm:
1) Triệu Đà đã xây dựng một nước Nam Việt độc lập, tự chủ đối với đế quốc
Trung Hoa;
và 2) Triệu Đà đã xây dựng một quốc gia riêng biệt, cường thịnh, uy thế lẫy
lừng. Đây cũng là hai đặc tính nổi bật của chính quyền Sĩ Nhiếp và của nước ta
trong thời đại Sĩ Nhiếp.
Tuy chỉ giữ chức thái thú đứng đầu quận Giao
Chỉ, nhưng thật ra Sĩ Nhiếp, qua các người em, đã làm chủ toàn bộ cõi Lĩnh Nam,
lãnh thổ truyền thống hình thành từ hàng ngàn năm trước đó của Việt tộc. Theo
truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí: “... Thứ sử Giao Châu Chu Phù bị giặc mọi giết
chết. Châu quận nhiễu loạn, Nhiếp dâng biểu xin cho Nhất (Sĩ Nhất, em Sĩ Nhiếp)
giữ chức thái thú Hợp Phố, em kế Từ Văn Lịnh Vỹ giữ thái thú Cửu Chân, và em Vỹ
là Vũ giữ thái thú Hải Nam. Đây là toàn bộ lãnh thổ của nước Nam Việt thời
Triệu Đà, bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây. Và đây cũng chính là vùng “Lĩnh Nam riêng
một triều đình nước ta” trong thời khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Mãi đến thời
Tôn Quyền mới đổi Giao Chỉ thành Giao Châu, tách Quảng Đông, Quảng Tây ra khỏi
đất Việt Nam và đặt tên mới là Quảng Châu. Từ đó Quảng Đông, Quảng Tây bị nuốt
trọn vào đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, đến ngày nay, nhiều người ở Lưỡng Quảng
vẫn gọi vùng này là Việt Đông, Việt Tây.
Điểm đặc biệt là dù đã du học và thành đạt
rực rỡ ở kinh đô nhà Hán, và dù giao du, tiếp xúc thân tình với những “Bắc
phương dị nhân”, những nhân tài ưu tú nhất của Trung Hoa, nhưng cách sống, cách
cai trị của Sĩ Nhiếp, một người Việt đã được Việt hoá đến bảy đời, khác hẳn văn
hoá, tập tục nhà Hán, cũng không giống các thứ sử, thái thú trước đó hay sau
này; trái lại, rất gần gũi phong thái của Triệu Đà, của các quân vương Việt Nam
như Lê Đại Hành. Và có thêm một đặc điểm nữa mà không một vị vua nào ở vùng
Đông Á (Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản) có được, vì phong thái của ông phảng
phất phong thái của những vị quân vương Phật giáo của các xứ Đông Nam Á đã được
Ấn Độ hoá và Phật hoá.
Ngô Chí đã ca ngợi, tôn vinh Sĩ Nhiếp tuyệt đỉnh, nhờ đó ngày nay ta mới có
một tư liệu rất quý về Phật giáo thời Sĩ Nhiếp: “Anh em Nhiếp đều là người hùng
các quận, làm trưởng một châu, riêng ở 10.000 dặm, uy tôn vô thượng (không có
ai cao hơn). Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe, ngựa
đầy đường. Người Hồ theo sát xe đốt hương, thường có mười mấy người. Thê thiếp
đi xe màn, đệ tử theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy
(Triệu) Đà cũng không đủ hơn” (WIKIPEDIA)
Học giả Keith Taylor
đã công bình, trung thực khi gọi Sĩ Nhiếp là một nhà lãnh đạo Phật giáo. Ông mở
ra một thời đại tự do, khai phóng, đa nguyên và đầy khoan dung. Ông là người
tiền phong cho những vị quân vương-Phật tử sau này hình thành chủ đạo văn hoá
chính trị Phật giáo, một quốc đạo mới, đưa Việt Nam vượt thắng 1.000 năm Bắc
thuộc, và khai sinh thời đại Phật giáo Lý-Trần vinh quang.
THỜI TIỀN
LÊ
Kể từ nhà Đinh suy thoái, nhà Lê bắt đầu kế vị bởi
Lê Đại Hành vốn xuất thân từ Thập Đại Tướng quân thời nhà Đinh vào năm 980; qua
năm 981, ông có công đánh tan quân xâm lược nhà Tống, nhưng tại vị chỉ được 24
năm. Sau đó, vì không chỉ định ngôi vị kế thừa nên rối loạn nội đình suốt 8
tháng; cũng vì thế mà anh em đấu đá sát phạt nhau. Lê Trung Tông lên ngôi ba
ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh sát hại chiếm ngôi. Thay vì lo cho dân cho nước,
Long Đỉnh lại ăn chơi sa đọa, làm nhiều điều bạo ngược: róc mía trên đầu sư
Quách Ngang, cũng như thiêu sống, trấn nước, róc thịt tội phạm bằng dao cùn,
xem thường quan lại, không để tâm đến điều trần, trình tấu của triều thần...
làm cho quan dân chán ghét, vì vậy bị triều thần giết chết lúc mới 24 tuổi
(1009).
Thời tiền Lê biết trọng dụng các danh Tăng để làm
quốc sư và đối ngoại với Đại Hán như Thiền sư Khuông Việt và Thiền sư Đỗ Pháp
Thuận; chứng tỏ, Phật giáo lúc bấy giờ có một tầm ảnh hưởng nhất định trong xã
hội. Chính vì thế, đã từng có một thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Lý Khánh Vân un
đúc nên một Lý Công Uẩn, làm rạng danh Phật giáo và quốc gia lúc bấy giờ. Lê
Quý Đôn cũng tán thán ca ngợi hai nhân vật lịch sử nhà Phật trên đây. Nhà tiền
Lê có những anh tài kiệt xuất từ Phật giáo như thế đã làm nhà Tống kính nể
không ít, nhất là khi Lê Đại Hành vừa nhiếp chính đã đánh cho quân Tống tả tơi,
chúng phải cầu hòa. Đương thời, ngoài Bắc Tống, Đại Cồ Việt ta chưa có cuộc
giao tiếp thương mãi nào với các quốc gia khác.
Nhà tiền Lê tồn tại 29 năm. Sau khi Lê Long Đỉnh
bị triều thần sát hại, Lý Công Uẩn được tiến cử kế thế vương vị. Mặc dù Lý Công
Uẩn là quan triều nhà Lê, giữ chức Tả Thân vệ Điện Tiền chỉ huy sứ. Sinh thời,
Lê Đại Hành mất, con là Lê Long Việt, tước hiệu là Lê Trung Tông lên ngôi, được
ba ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh sát hại, quần thần hoảng sợ bỏ chạy hết thì
Lý Công Uẩn vẫn ôm xác Lê Trung Tông mà khóc; nhờ tính trung khí đó mà Lê Long
Đỉnh trọng dụng.
Mặc dù Tiền Lê chỉ cai trị vỏn vẹn 29 năm
(980-1009), đã đánh dẹp nội loạn, khác với các thời đại trước, Tiền Lê biết
phân quyền; mở lộ khai kênh; cải tổ thuế má; khuyến khích giao thương. Về văn
hóa thì Tiền Lê chưa có một dấu ấn đặc thù nào, ngoại trừ sự vượt trội của các
danh Tăng Phật giáo và lập thành bộ luật gọi là Quốc Triều hình luật còn gọi là
luật Hồng Đức vào thời Lê sơ. Sở dĩ Phật giáo xuất chúng qua Pháp sư Đỗ Thuận
và Khuông Việt, hai cao Tăng nầy tuy sống trong đương triều nhưng căn gốc đã
được ươm mầm trong Phật giáo trước thời thuộc Đường. Do vậy, thời Tiền Lê, Phật
giáo luôn ảnh hưởng sâu đậm trong triều cung cũng như trong xã hội; nhờ tài
năng xuất chúng của các danh Tăng mà Tiền Lê tạo được sự kính nể của triều
Tống. Các danh Tăng thường được tham vấn về quốc sách. Về ngoại giao, mặc dù là
nước nhỏ, Lê Đại Hành cũng không chứng tỏ khiếp nhược trước Đại Tống.
Ngược lại với tiền Lê, hậu Lê đã ghi vào sách sử
nhiều đặc thù và cũng là triều đại lâu dài nhất; tạo nhiều công trạng cho dân
tộc. Cũng triều hậu Lê, Phật giáo với dân tộc như hình với bóng, là nguồn sinh
lực dồi dào giúp cho xã hội vững bền và thăng hoa.
Thiền Sư PHÁP THUẬN
(914 - 990)
(Đời thứ
10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Đỗ,
không rõ quê quán ở đâu, xuất gia từ thuở bé, thọ giới với Thiền sư Long Thọ
Phù Trì. Sau khi đắc pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp sấm ngữ.
Nhà Tiền Lê
mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao.
Khi quốc thái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì thế, vua Lê Đại Hành
rất kính trọng, không dám gọi tên, chỉ gọi là Đỗ Pháp Sư.
Nhà vua nhờ
Sư trông coi việc soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.
Năm Thiên
Phước thứ bảy (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua
Đại Hành. Vua nhờ Sư cải trang làm lái đò để đón Sứ. Trên sông, bất chợt Lý
Giác thấy hai con ngỗng bơi, cảm hứng liền ngâm:
Song song
ngỗng một đôi
Ngửa mặt
ngó ven trời.
(Nga nga
lưỡng nga nga
Ngưỡng diện
hướng thiên nha).
Sư đang
chèo, ứng khẩu ngâm tiếp:
Lông trắng
phơi dòng biếc
Sóng xanh
chân hồng bơi. (T.T.Mật Thể)
(Bạch mao
phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba).
Lý Giác rất thán phục.
Vua Đại Hành hỏi vận nước dài
ngắn thế nào, Sư đáp bằng bài kệ:
Vận nước như dây quấn
Trời Nam sống thái
bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
(Quốc tộ như đằng lạc
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh).
Về sau, Sư trụ trì chùa Cổ
Sơn làng Thừ, quận Ải.
Niên hiệu Hưng Thống thứ hai
(990), Sư không bệnh mà tịch, thọ 76 tuổi.
Tác phẩm của Sư có:
* Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn
* Thơ tiếp Lý Giác
* Một bài kệ.
(Thiền Tông Việt Nam )
Đại Sư KHUÔNG VIỆT
(933 - 1011)
(Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn
Thông)
Sư tục danh Ngô Chân Lưu, quê
làng Cát Lợi quận Thường Lạc, dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Sư dáng mạo khôi ngô,
ý chí lỗi lạc và tánh tình bình thản.
Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn
lên trở về Phật. Sư thọ giáo với Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột
thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm 40 tuổi, danh Sư vang
khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứng đối rành rẽ,
vua rất mến phục, phong chức Tăng Thống.
Năm sau, niên hiệu Thái Bình
thứ hai (971), vua lại phong Khuông Việt Đại Sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư
càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, vua đều mời Sư vào hỏi.
Năm thứ bảy niên hiệu Thiên
Phước (986), nhà Tống sai sứ là Lý Giác sang nước ta, vua Đại Hành sắc Sư ra
đón tiếp sứ. Khi Lý Giác về có để lại một bài thơ:
May gặp minh quân giúp việc
làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam .
Mấy phen qua lại lòng thêm
nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa
nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng
lam.
Ngoài trời lại có trời soi
rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn
sóng đầm.
(T.T. Mật Thể)
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao
Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu
luyến
Mã đạp yên vân xuyên lãng
thạch
Xa từ thanh chướng phiếm
trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng
viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm
thu.
Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy
cho Sư xem, và hỏi có ý gì không.
Sư tâu:
- Câu thứ bảy sứ Tống có ý
tôn bệ hạ ngang hàng với vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Sư làm một
bài tiễn sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu “Tống vương lang qui”:
Gió hòa phấp phới chiếc buồm
hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn nghìn dặm trải
phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà
Bầy tỏ với
vua ta.
(T.T.Mật
Thể)
(Tường
quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên
phục đế hương.
Thiên lý
vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên
qui lộ trường.
Nhân tình
thảm thiết đối ly thương
Phan luyến
sứ tình lang.
Nguyện
tương thâm ý vị nam cương.
Phân minh
tấu ngã hoàng.)
Sau, Sư
viện lẽ già yếu xin từ quan, về quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật Đà trên núi Du
Hý, làng Cát Lợi, quận Thường Lạc, rồi trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tụ họp
về học vấn rất đông. Thọ 79 tuổi.
(Thiền Tông Việt Nam)
Tóm lại, Tiền Lê gồm ba triều đại:
Lê Đại Hành
980 - 1005
Lê Trung
Tông 1005
Lê Ngọa
Triều 1005- 1009
Thiền Sư SÙNG PHẠM
(1004 -
1087)
(Đời thứ
11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Mâu,
dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, hai trái tai thòng đến vai. Xuất gia xong, Sư đến tham
vấn với ngài Vô Ngại ở Hương Thành. Sau khi được tâm ấn, Sư dạo khắp nước Thiên
Trúc để cầu học hỏi sâu rộng. Mãn chín năm Sư trở về nước gồm thông giới định.
Về sau, Sư
trụ trì chùa Pháp Vân làng Cổ Châu, Long Biên thuyết pháp giáo hóa, học giả các
nơi qui hướng rất đông.
Hoàng đế Lê
Đại Hành nhiều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi huyền chỉ. Vua lấy lễ đãi Sư
rất trọng hậu.
Đến năm
Quảng Hựu thứ ba triều Lý (1087) nhằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ 84 tuổi. (Thiền Tông VN)
Thiền Sư TÔNG DIỄN hiệu CHÂN DUNG
(1640 -
1711)- Đời pháp thứ 37, tông Tào Động.
Thiền sư
Tông Diễn không biết tên tục, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang.
Khi Sư được 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con giã
cua nấu canh. Sư định làm như lời dặn, nhưng nhìn thấy những con cua tuôn những
hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt; Xót thương quá đem thả hết.
Bà mẹ lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đây đứa
con trai bà mất luôn.
Khoảng hơn
ba mươi năm sau, đã thành Hòa thượng Trụ trì, Sư nhớ đến mẹ liền về quê cũ tìm
kiếm. Sư tìm gặp mẹ bán quán trà. Sư mở lời rước bà về chùa. Sư cho cất một am
tranh gần chùa, Sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của
bà. Sư luôn luôn nhắc nhở Bà tu hành.
Trong quyển
Hồng Phúc Phổ Hệ có những đoạn tán thán công đức của Sư:
“Diêu văn
Đại Thánh Sư, thần đức nan tuyên giả, chỉ tích mẫu quan phi, niệm kinh Bảo Liên
Hoa, đầu đơn đế nhãn minh, tiến ngọc quân vương tạ...”
Nghĩa là:
“Xa nghe thầy Đại Thánh, thần đức khó nói hết, gậy chỉ quan (tài) mẹ bay, tụng
kinh Bảo Liên Hoa, nạp đơn vua mắt sáng, dâng ngọc quân vương tạ (ơn)...”.
Sư trụ trì
ở Đông Sơn nghe Thiền sư Thông Giác từ Trung Quốc đắc đạo trở về ở chùa Vọng
Lão trên núi Yên Tử, liền tìm đến yết kiến. Thiền sư Thông Giác cho Sư pháp
danh Tông Diễn. Ngài nói kệ trao pháp:
Tất cả pháp
chẳng sanh
Tất cả pháp
chẳng diệt
Phật Phật,
Tổ Tổ truyền
Uẩn không
sen đầu lưỡi.
(Nhất thiết
pháp bất sanh
Nhất thiết
pháp bất diệt
Phật Phật,
Tổ Tổ truyền
Uẩn không
liên đầu thiệt.)
Từ đây Sư
luôn theo hầu dưới gối. Đến năm 32 tuổi, Sư thọ cụ túc giới, xin phép Thiền sư
Thông Giác đi hành cước tham vấn các nơi.
Năm niên hiệu
Vĩnh Trị (1678) vua Lê Hy Tông ra lệnh cho các quan khắp nước bất cứ ở đâu Tăng
Ni hoặc già hoặc trẻ đều đuổi hết về rừng núi. Sư biết được tin này rất đau
lòng. Sư bèn quyết tâm rời chốn sơn dã về đất thần kinh, mong cảnh tỉnh nhà
vua, cứu vãn Phật pháp trong khi tai nạn. Ngài nhờ quan Đề Lĩnh tâu lên vua là
có ngọc quý dâng hiến. Vị quan văn bưng hộp ngọc đến trước triều dâng lên vua,
khi mở ra xem chỉ là một tờ biểu, chớ không có hòn ngọc nào. Vua phán vị quan
văn đọc tờ biểu cho vua nghe. Vua nghe qua thấy lý lẽ rõ ràng, sự tình đầy đủ,
lời văn sáng suốt, ý tứ thâm trầm, bèn ra lệnh quan Đề Lĩnh dẫn vị tăng này vào
triều.
Khi vào
triều, vua cho Sư ngồi một bên trước mặt vua. Vua hỏi những sách lược trị dân,
Sư ứng đối sự lý rất dung thông. Khi ấy, vua phán: “Đạo Phật là viên ngọc quí,
chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện,
tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương
pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.” Vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để
bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung sứ đến nói với vua thỉnh Sư
vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe thấu hiểu đạo lý, liền ban
cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chánh pháp, đồng thời ra lệnh
thu hồi lệnh trước, để Tăng Ni tự ý trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa.
Vua Lê Hy
Tông đã thấm nhuần đạo lý, thành tâm sám hối lỗi trước của mình, nên tạc hình
vua quì mọp để tượng Phật trên lưng để tỏ lòng thành sám hối. Tượng này hiện
còn thờ ở chùa Hồng Phúc.
Đã giải
được ách nạn của Tăng Ni (Phật pháp) và giáo hóa được vua chúa trong triều, Sư
nghỉ việc xin vua về núi thăm thầy. Sau Sư trụ trì ở chùa Hồng Phúc, thường tới
lui giảng đạo cho vua chúa nghe. Sư thọ 72 tuổi.
NHÀ LÝ
Mở đầu triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn (1010-1220)
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn
1010 – 1028)
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn,
Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974). Mẹ chết khi
mới sinh, thiền sư Lý Khánh Vân nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có
chí khí khác người ngay từ nhỏ. Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Vân và Lý
Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến
chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn
lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
đóng đô tại Hoa Lư. Lý Công Uẩn lên ngôi vào năm Kỷ Dậu (1009) tháng 11 ngày
Quý Sửu. Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi
sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến, Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt
tên là kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay). Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại
việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
Lý Công Uẩn được hai Thiền sư uyên bác làm
dưỡng phụ và tôn sư, dạy dỗ cả kinh điển Phật giáo lẫn Nho gia, dịch lý Đạo
học, vì vậy Lý Công Uẩn đã có tầm nhìn chiến lược chính trị, kinh tế và xã hội
trong sách lược an bang tế thế. Lúc còn dưới trướng nhà Lê, Lý Công Uẩn cũng đã
biết đánh giá chiến lược về thời bình cũng như binh thuật trong thời chiến. Mãi
đến khi lên ngôi được một năm, ý định dời đô về trung tâm sông Hồng của Lý Công
Uẩn mới thực hiện, nhưng để thực hiện điều nầy, thay vì dùng quyền lực của nhà
vua để quyết định, Lý công Uẩn ra chiếu dời đô, phủ dụ phân tích thiệt hơn khi
dùng đồng bằng làm đế đô để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Chính sự
khôn ngoan và biết tôn trọng ý dân, quần Thần, Lý công Uẩn đã được toàn dân ủng
hộ, âm phò dương trợ; nên để củng cố niềm tin của thần dân, Lý công Uẩn cho
biết nơi thành Đại La có rồng xuất hiện, nên đặt nơi đây là Thăng Long. Quần
thần tôn kính lập biểu dâng sớ tán đồng: "Bệ hạ vì thiên
hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân
chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo". (Đại Việt sử ký
toàn thư).
Tuy lìa chốn
cũ, vua Lý không quên quan tâm lòng dân bản xứ, nên đổi Hoa Lư thành phủ Trường
An và làng Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức.
Về tôn giáo: Sau khi ổn định chính trị kinh tế và
quân sự, vua Lý Công Uẩn bắt đầu vun bồi tôn giáo để làm điểm tựa tâm linh cho
thần dân. Hơn ai hết, Lý Công Uẩn được xuất thân từ Thiền Môn, biết giá trị tâm
linh cũng như chính trị xã hội bấy giờ, tôn giáo là chất xúc tác gắn bó keo sơn
lòng dân trong xã hội. Vì vậy, nhà Lý đã nổ lực xây dựng chùa đình miếu mạo
cung ứng nhu cầu tín ngưỡng truyền thống cho nhân dân.
Năm 1018, Lý
Thái Tổ sai hai quan là Phạm Hạc và Nguyễn Đạo Thanh sang Trung Quốc (đời Tống)
thỉnh Tam Tạng kinh về thờ.
Chiến lược
chính trị như thế, bị một số Nho gia phê phán qua hình thức xây dựng chùa miếu,
tiếp chúng độ Tăng hơn nửa dân số trong nước, bảo là hoang phí tài nguyên bóc
lột công sức người dân. Thử hỏi, nếu nhà vua làm không được nhân dân đồng thuận
thì liệu xã hội có được yên bình thịnh vượng như thế chăng?
Lý Thái Tổ lên
ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng
8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm Tăng hơn
nghìn người ở Kinh sư, thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không
biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là Thần
làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi
là làm phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn lo cho con cháu xa
xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp
cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người
dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân
thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn
gốc há chẳng phải từ đấy?
Nho gia đố kỵ
phê phán như có lý, nhưng thực tình kết quả việc làm của Thái tổ đã nhờ tài
khôn khéo về tâm lý chính trị đó mà Lý Thái Tổ đã ổn định nội tình, an bình xã
hội, quần chúng quy về một mối và thuận thảo với ngoại bang.
Quốc gia thịnh
trị thời quân chủ, không chỉ trên phương diện kinh tế, tín ngưỡng góp phần lớn
để an dân, thạnh trị. Từ Tây sang Đông đều như thế, tôn giáo tín ngưỡng luôn là
điểm tựa tinh thần cho người dân sau kinh tế và cơm ăn áo mặt vừa đủ. Nhà lãnh
đạo khôn ngoan luôn tôn trọng tín ngưỡng quần chúng và tạo điều kiện cho tín
ngưỡng đó phát triển.
Về Chính Trị: Về
mặt lịch sử đương thời, Việt Nam chỉ phải đối đầu với các lân bang là Trung
Quốc, Chiêm Thành và Chân Lạp. Theo lịch sử thì Tống Chân Tông phải đối diện
với nhiều vấn đề nội tình nên không có thời giờ dòm ngó Đại Việt, chẳng những
thế mà còn phong cho vua Lý Thái Tổ làm Nam Bình Vương (1017). Còn Chiêm Thành
và Chân Lạp đều triều cống hàng năm, nên biên cương ổn định, xã hội thịnh
vượng, dân cư lạc nghiệp. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số bộ tộc làm
loạn, buộc lòng vua và các Hoàng Thái tử được phong vương thân chinh đánh dẹp.
Trong lúc dẹp loạn, vua luôn nơm nớp lo sợ giết lầm người hiền hoặc giết oan kẻ
trung hiếu, nên vua khấn vái đất trời: "Tôi là người ít đức, lạm ở trên
dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy binh uy mà đi đánh
dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không theo giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn
ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn
như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền
lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại
cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin
lòng trời soi xét". Sau khi ông khấn, gió sấm không còn dữ dội
nữa và trở nên yên lặng tại trận Diễn Châu.
Tóm lại, tuy xuất thân từ Thiền Môn, bản chất là một Phật tử luôn tôn trọng
sự sống, nhưng vì nhiệm vụ với đất nước, vì an sinh xã hội, buộc lòng vua Lý
Thái Tổ phải sát phạt các nơi dấy loạn để mở mang bờ cõi, yên bình xã hội. Thể
hiện đúng tinh thần Bi-Trí-Dũng của nhà Phật.
Lý Thái Tổ là một mẫu người Phật tử, có công với nước, có đức với dân, có
hiếu với Đạo. Đã làm rạng rỡ Đại Việt cũng như phát triển Phật giáo đương đại.
Tuy nhiên, các thế hệ triều Lý kế thừa, một số tranh chấp vương vị không thua
các triều đại trước như các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính
Vương đem quân vây hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái Tử Lý Phật Mã (Lý
Thái Tông).
Cũng có triều đại ăn chơi sa đọa như
Lý Cao Tông, say sưa suốt ngày như Lý Huệ Tông, nhưng không độc ác như Lê Long
Đỉnh.
Cũng có triều đại mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước như - Lý Thái Tông, tức
Lý Phật Mã (1028-1054); xây dựng lực lượng quân đội và quần chúng để tạo thế
mạnh toàn dân bảo vệ tổ quốc; vua biết thân dân và giao hảo tốt với dân tộc
thiểu số, gả công chúa Bình Dương cho Châu Lạng... Lý Thái Tông cũng ban Hình
Thư vào năm 1042. Đây là sách luật đầu tiên của Việt Nam gồm luật dân sự, luật
hình sự, luật tố tụng và hôn nhân gia đình.
Cũng có đời vua biết thương dân, quan tâm sự ấm no đói lạnh của dân và
thương tội phạm như Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054-1072). Qua 9 triều đại nhà
Lý 1009-1225, chỉ có ba vị là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, ảnh
hưởng tinh thần đạo đức Phật giáo sâu đậm. Tuy nhiên, vua Lý Thánh Tông, húy
Nhật Tôn, có trách nhiệm với tổ quốc và biết thương dân, có sáng kiến khôi phục
kinh tế, an dân, mở mang bờ cõi, được xem là một vị vua anh minh nhân từ nhất
trong lịch sử:
Lý Thánh
Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072)
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023),
là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt
sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa,
thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục
người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc
võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo
Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”. Lý Thánh Tông mất năm
Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Thánh Tông đổi
quốc hiệu là Đại Việt. Lý Thánh Tông là một vị vua có lòng
thương dân. Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan hầu cận rằng:
"Trẫm ở trong cung ngự sưởi than
thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét thế này. Huống chi những tù phạm giam trong ngục,
phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi
chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm".
Hoặc - "Lại có một hôm, Thánh Tông ra
ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh
Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng:
"Lòng trẫm yêu dân cũng nhý yêu con
trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ
rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi."
Vua cũng đã có
công mở rộng biên cương - phá Tống bình Chiêm, có tiếng giỏi binh pháp, nhà Tống
cũng phải học hỏi phiên chế quân đội Đại Việt lúc bấy giờ. Vua từng làm nhà Tống
thất điên bát đảo, bắt được tướng nhà Tống là Dương Bảo Tài. Nhiều lần phản
công bị thất bại, Tống phải sai sứ cầu hòa, nhưng vua cương quyết không trao tù
binh Dương Bảo Tài. Phía Nam, Chiêm Thành làm loạn, vua thân chinh đi đánh, bắt
được Chế Củ. Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội.
Thánh Tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các
huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị
(Wikipedia).
Như một quy luật - Thành-trụ-hoại-không,
tuy các tiên đế đức độ tài ba, lập quốc an dân, mở mang bờ cõi, thế nhưng, các
triều đại về sau, bê tha bất tài, đã bị các đại thần khống chế như Trần Thủ Độ.
Đời Lý cuối cùng là Lý Huệ Tông bị Thủ Độ ép xuất gia để rồi bức tử, nhường
ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Không lâu sau đó, ngai vàng chuyển qua nhà
Trần, vua Trần đầu tiên là Trần Cảnh, được hơn 8 tuổi, theo sự chỉ đạo của Trần
Thủ Độ.
Nhà Lý tồn tại từ 1009 đến 1225, tức 216
năm. Một triều đại giữ vững ngai vàng lâu dài nhất so với các triều đại tiền
nhiệm. Triều Lý phát triển kinh tế văn hóa khá sâu đậm, lập Văn miếu, Quốc Tử
giám chọn hiền tài ngoài giới quý tộc, tôn trọng Nho giáo song song Phật giáo.
Quản lý đất nước theo luật pháp mà không do chuyên quyền cá nhân áp đặt, đây là
nét văn minh của thể chế phong kiến lúc bấy giờ.
Theo nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong "Đại Việt sử ký toàn thư" thì:
Cũng có đời vua như Lý Thần Tông
(1128-1138) lấy nông nghiệp làm cơ bản phát triển kinh tế làm cho dân no ấm.
Luân phiên cho quân nghỉ 6 tháng về canh tác, thực hiện chính sách "ngụ
binh ư nông".
Qua những suy vi của triều Lý, một phần do
vua Lý Cao Tông tắc trách, ăn chơi sa đọa, bất tài, nghe theo nịnh thần, làm
cho dân đói kém chết chóc quá nhiều, vì thế loạn lạc nổi lên khắp nơi; một phần
do đại thần Trần Thủ Ðộ khuynh loát thao túng triều chính, bắt ép Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Do cảnh loạn lạc trong nước và triều Lý thất sủng,
nên Lý Long Tường, hoàng tử của Lý Anh Tông, theo đường biển, chạy tỵ nạn sang
Cao Ly, được vua Triều Tiên phong tặng Hoa Sơn tướng quân nước Cao Ly lúc bấy
giờ. Và từ đó Lý Long Tường trở thành tổ của giòng họ Lý đầu tiên tại Hàn quốc.
Tóm lại, Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết: “Triều đại nhà Lý là Triều đại thuần từ nhất
trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”.
Các vua đời Lý so sánh với
các vua Đinh, Lê thì giỏi hơn rất nhiều về phương diện học thức. Sự tôn sùng
đạo Phật của các vua đời Lý cũng có tính cách tâm linh và trí thức hơn. Họ đều
có học Phật và thường mời các thiền sư vào hoàng cung để đàm luận giáo lý. Vì
thế thiền học đời Lý đã thực sự phát triển với các bậc cao tăng thạc đức như:
Khánh Hỷ, Viên Thông, Viên Chiếu, Thường Chiếu, Bảo Giác... Các vị này đã đóng
góp vào kho tàng văn học Việt Nam một số thi ca, trước tác, bi minh rất đáng
kể.
(Bách khoa toàn thư
mở Wikipedia)
Thiền Sư
VẠN HẠNH
(? - 1018)-
(Đời thứ
12, Dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ
Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông
minh khác thường, thông suốt Tam học và nghiên cứu Bách luận, mà vẫn xem thường
công danh phú quí.
Năm 21 tuổi
Sư xuất gia, cùng Thiền sư Định Huệ, thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục
Tổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh rỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.
Sau khi
Thiền Ông tịch, Sư kế tiếp trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng trì
tam-ma-địa” lấy đó làm sự nghiệp.
Bấy giờ Sư
có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính
Sư.
Niên hiệu
Thiên Phúc năm thứ nhất (980), tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh
nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Sư đến hỏi:
- Quân ta
thắng bại thế nào?
Sư đáp:
- Trong ba,
bảy ngày thì giặc ắt lui.
Quả đúng
như lời Sư đoán.
Ngày vua Lý
Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ mà vẫn biết trước, báo tin cho chú và
bác vua Lý hay: “Thiên tử đã băng hà, Lý Thân Vệ đã khuất phục trong thành nội,
túc trực trong vài ngày Thân Vệ ắt được thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư
ra yết thị rằng:
Tật Lê chìm
biển Bắc
Cây Lý che
trời Nam
Bốn phương
binh đao dứt
Tám hướng
thảy bình an
(Tật Lê
trầm bắc thủy
Lý tử thọ
nam thiên
Tứ phương
qua can tịnh
Bát biểu hạ
bình an.)
Niên hiệu
Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày rằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng
nói kệ:
Thân như
bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân
tươi, thu đượm hồng,
Mặc cuộc
thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh suy
như cỏ hạt sương đông.
(Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc
xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận
thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy
như lộ thảo đầu phô.)
Nói xong,
Sư lại bảo chúng:
“Các ngươi
cần trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng
giây lát, Sư tịch.
Vua Lý Thái
Tổ và đệ tử làm lễ hỏa táng, nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường. Về sau vua Lý
Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng:
Vạn Hạnh
thông ba mé (Ba mé: quá khứ, hiện tại, vị lai.)
Thật hợp
lời sấm xưa.
Quê nhà tên
Cổ Pháp
Dựng gậy
vững kinh vua.
(Vạn Hạnh dung tam tế,
Chơn phù cổ sấm cơ (ky)
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.)
(Thiền Tông VN)
Tuy chỉ là một Thiền sư,
nhưng lại là một Thiền sư dung thông tam giới, đem sở học sở chứng để xây dựng
đất nước; đứng ngoài danh lợi thế sự mà vẫn tạo được lợi danh cho dân tộc một
thời. Có công un đúc một vị vua nhân hậu lãnh đạo dân tộc, ổn định giặc loạn
khắp nơi. Tu mà không rời bổn phận với đất nước; tham chính mà không dính mắc
lợi danh; tâm linh là ngọn đuốc dẫn dắt mọi hành hoạt; Đạo Đời viên dung. Sách
sử ngàn đời vẫn không mai một.
CON NGƯỜI
ĐỘC DỊ CỦA NGÀN NĂM TRƯỚC VÀ SAU
1. CON NGƯỜI VẠN HẠNH VÀ CÔNG CUỘC
CÁCH MẠNG
Cuộc cách mạng mà Vạn Hạnh thực hiện
là xoay chuyển vận nước và Dân tộc bước vào thời huy hoàng, và tạo dựng nền
Triết lý thực dụng cho giống nòi.
2. SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ
Khả năng nầy Vạn Hạnh còn sử dụng
tuyệt diệu hơn trong việc tạo dựng nên một Lý Công Uẩn, sau nầy trở thành một
vị minh quân, một vĩ nhân của Dân Tộc.
Trước những biến động nguy ngập của
thời đại, sự xuất hiện của Vạn Hạnh như một vị cứu tinh vĩ đại cho Dân Tộc, Vạn
Hạnh là linh hồn của công cuộc cách mạng đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngài đã đào
tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau nầy
trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho Dân Tộc. Nhờ sự giáo
dục tài tình của Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã huân tập được tinh thần Từ Bi, Trí
Tuệ trong Phật Giáo, đặt sự tồn tại của Dân Tộc lên trên, xây dựng một xã hội
nhân bản, hưng thịnh, an lạc. Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là
Triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó là nhờ ảnh hưởng của Phật
giáo”.
3. TƯ TƯỞNG THIỀN
Sự có mặt của Vạn Hạnh là làm sống
lại sinh mệnh của dân tộc, và tiếp nối để đạt được thành công, những hoài bão
của lớp Thiền Sư trước chưa thực hiện được.
Bài kệ của Vạn Hạnh để lại:
Thân như
điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thạnh suy vô bố uy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương sa đầu cành.
Nhà Lý trải qua 9 đời vua
trị vì 216 năm (1009-1225)
Thái Tổ • Thái Tông • Thánh Tông • Nhân Tông • Thần
Tông • Anh Tông • Cao Tông • Lý Thẩm • Huệ Tông • Nguyên Vương • Chiêu Hoàng
(nữ hoàng)
Quốc Sư VIÊN THÔNG
(1080 - 1151)- (Đời thứ 18,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư tục danh Nguyễn Nguyên Ức,
quê làng Cổ Hiền sau dời về phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long, lập nghiệp
luôn tại đây. Sư tư chất thông minh, học hiểu đến chỗ tinh diệu, xuất gia lúc
còn nhỏ. Thọ học với Thiền sư Viên Học ở chùa An Quốc, huyện Cổ Hiền, Sư được
thầy truyền tâm ấn.
Năm thứ sáu niên hiệu Hội
Phong (1097), Sư đậu thủ khoa kỳ thi Tam giáo, sung chức Đại Văn. Đến năm thứ
tám niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa (1108) Sư lại đứng đầu kỳ tuyển khoa hoằng
tài để bổ khuyết Tăng Đạo. Nhà vua quá quí kính muốn đem chính sự giao phó cho
Sư, Sư cố từ chối chẳng dám nhận. Vua bèn tiến chức Nội Cung Phụng Truyền Giảng
Pháp Sư. Bấy giờ, Sư tùy cơ giảng giải giáo lư, khiến người giác ngộ, phá ngu
giải hoặc không còn dư thừa. Những người thụ giáo nơi Sư đều nổi tiếng sau nầy.
Năm thứ ba niên hiệu Hội
Tường Đại Khánh (1112), sau khi trùng hưng ngôi chùa Diên Thọ, vua sắc Sư làm
bài văn bia. Vua mến phục tài, phong Sư lên chức Tả Nhai Tăng Lục.
Năm thứ ba niên hiệu Thiên
Thuận (1130), vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng
vong của đất nước. Sư đáp:
- Thiên hạ ví như món đồ
dùng, đặt vào chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực
hành khác nhau đó thôi. Đức hiếu sinh của vua nhuần thấm đến nhân dân thì nhân
dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức đặt thiên hạ
vào chỗ yên vậy.
Sư lại tiếp:
- Việc trị loạn còn ở các
quan, được lòng người thì trị an, mất lòng người thì loạn lạc. Tôi trải xem các
đế vương đời trước, chưa từng chẳng do dùng quân tử mà được hưng thạnh, vì dùng
tiểu nhân mà bị nguy vong. Xét lý do như thế, không phải tại ngay một sớm một
chiều, mà nguyên do của nó phát từ từ đã lâu lắm vậy.
Trời đất không thể làm nóng
lạnh ngay, ắt phải dần dần từ xuân sang thu; nhân quân không thể làm trị loạn
ngay, ắt phải dần dần từ thiện ác. Các thánh vương đời xưa biết thế, nên bắt
chước trời tu đức sửa mình, bắt chước đất chăm tu đức để an dân. Sửa mình là
cẩn thận bên trong, run sợ như dẫm đi trên lớp băng mỏng. Yêu dân là kính cẩn
công chúng, nơm nớp như cầm roi nắm cương ngựa. Được như thế thì đâu mà chẳng
hưng; nếu trái lại thì đâu mà chẳng vong. Lý do hưng vong từ từ như thế.
Năm thứ năm niên hiệu Thiên
Chương Bảo Tự (1137) vua sắp băng, Sư có dự vào hàng Cố mệnh thảo tờ di chiếu.
Vua phó thác mọi việc cho Sư.
Năm thứ nhất niên hiệu Thiệu
Minh (1138), vua Lý Anh Tông lên ngôi, Thái Hậu xét thấy Sư có công lớn nên rất
trọng hậu.
Sau, Sư về làng Cổ Hiền tỉnh Nam
Định lập ngôi chùa hiệu Quốc Ân trụ trì đến già. Những thôn gần đây lấy thuế
cung cấp mọi phí dụng cho Sư.
Năm thứ tư niên hiệu Đại Định
(1143) nhà vua vinh thăng Sư chức Tả Hữu Nhai Tăng Thống, Nội Cung Phụng Tri
Giáo Môn Công Sự, Truyền Giảng Tam Tạng Văn Chương, Ứng Chế Hộ Quốc Quốc Sư và
ban tử y.
Ngày 21 tháng 4 năm Tân Mùi,
niên hiệu Đại Định (1151), Sư họp chúng từ biệt, không bệnh mà tịch, thọ 72
tuổi.
Tác phẩm của Sư:
1. Chư Phật Tích Duyên Sự, 30
quyển.
2. Hồng Chung Văn Bi Ký.
3. Tăng Gia Tạp Lục, hơn 50
quyển.
4. Viên Thông Tập, hơn một
ngàn bài thơ.
Thiền Sư KHÁNH HỶ
(1066 - 1142)- (Đời thứ 14,
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao,
Long Biên, vốn hạt giống tịnh hạnh. Thuở nhỏ, Sư đã không ăn thịt cá. Lớn lên
theo thọ học với Thiền sư Bổn Tịch ở chùa Chúc Thánh.
Khoảng niên hiệu Thiên Chương
Bảo Tự (1133-1138), vua Lý Thần Tông mời Sư vào kinh. Sư ứng đối xứng hợp ý
chỉ, vua bái phong chức Tăng Lục, lại thăng chức Tăng Thống.
Niên hiệu Đại Định năm thứ ba
(1142) nhằm năm Nhâm Tuất, ngày 27 tháng giêng, Sư thị hiện có chút bệnh rồi
tịch, thọ 76 tuổi.
Sư có sáng tác “Ngộ Đạo Ca
Thi Tập”, được lưu hành ở đời.
Theo Sử ký ghi Sư tịch vào
năm Thiên Chương Bảo Tự thứ ba (1135).
Thiền Sư ĐA BẢO
(Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn
Thông)
Chẳng rõ Sư người ở đâu và họ
gì. Chỉ biết, khi Khuông Việt đại sư mở trường giáo hóa ở chùa Khai Quốc, Sư
đến tham học. Được Đại sư khen là bậc gặp cơ lãnh ngộ, xử sự rất đặc cách,
riêng cho vào thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một
mình một bình bát tiêu dao ngoại vật.
Lúc Lý Thái Tổ còn nhỏ, Sư
trông thấy dung nghi dị thường, bèn bảo: “Đứa bé này cốt tướng phi thường, sau
này ắt làm chủ nước Nam .”
Thái Tổ nghe nói thất kinh
thưa: “Nay Thánh thượng anh minh còn tại vị, chốn hải nội đều trị yên, cớ sao
Thầy lại nói lời phải tội tru di này?”
Sư bảo: “Mệnh trời đã định,
người dù muốn tránh cũng chẳng được nào.”
Đến khi Thái Tổ lên ngôi,
thường thỉnh Sư vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền và ân lễ Sư rất thâm hậu. Vua
xuống chiếu trùng tu ngôi chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng là nơi Sư trụ trì.
Sau không rõ Sư tịch ở đâu và
lúc nào.
(Thiền Tông VN)
*
* *
NHÀ TRẦN
Mở đầu triều đại nhà Trần là Trần Thái
Tông.(1225-1258), húy là Trần
Cảnh, con của Trần Thừa, cũng là quan viên của triều Lý; chồng của bà Lý chiêu
Hoàng; do Trần Thủ Độ mưu tính sắp đặt, được Lý chiêu Hoàng nhường ngôi, Trần
Thái Tông khai sơn triều đại nhà Trần từ đó, và Lý Chiêu Hoàng là triều đại nhà
Lý cuối cùng.
Sau khi Trần Thừa mất, Trần Thủ Độ trở thành nhiếp chính cho
Thái Tông đến khi ông trưởng thành mà không hề có ý cướp ngôi dù quyền lực đang
trong tay mình. Chính vì vậy mà được nhà vua sủng ái vì đã giúp vua lấy được lòng
thiên hạ.
Do lấn quyền hoàng cung, Trần Thủ Độ đã phế Chiêu Hoàng xuống
làm công chúa do không có con trai nối dõi tông đường, và ép Thái Tông lấy chị
dâu đang có mang ba tháng, làm hoàng hậu; anh của Thái Tông và cũng là chồng của
Thuận Thiên phu nhân bất bình, khởi binh dấy loạn. Thái Tông cũng phiền muộn,
khó xử, tìm lên núi Yên Tử xuất gia, nhưng triều đình cùng Trần Thủ Độ đích
thân tìm đến làm mất sự thanh tịnh chốn thiền môn, nên sư Phù Vân khuyên Thái
Tông nên lấy ý dân làm gốc, là vua không tự làm theo ý mình.
Ảnh hưởng Phật giáo sâu đậm, vừa lên ngôi, Ngài đã ra sức xây dựng
chùa miếu, tạo lập pháp khí, hộ trì Tam Bảo hết lòng. Chẳng những thế, thể hiện
việc am tường nội điển và hành trì, Ngài trước tác các bộ sách: "Thiền tôn chỉ nam, Khóa Hư lục, lục thời sám
hối khoa nghi, Trần Thái Tông ngự tập";
ngoài ra ông còn đề tựa kinh Kim Cang, một số bài luận về tọa thiền niệm Phật
và khuyên răn tửu sắc.
Đối với xã tắc, Trần Thái Tông (Trần Cảnh) có nhiều đóng góp khiến sử
sách phải ghi nhận là một vị “Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên
có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thực là to
lớn vậy”
(Đại Việt sử ký toàn thư)
Ông từng đánh
thắng quân Mông và bắt nhốt các nhà ngoại giao Mông Cổ.
Ông ở ngôi được
32 năm, nhường ngôi cho thái tử Trần Hoàng, tức Trần Thánh Tông, lên làm Thái Thượng
Hoàng được 19 năm; Tuy ở chốn Thiền lâm, ông vẫn quan tâm hướng dẫn vua Trần
Thánh Tông về đạo đức, vương nghiệp và chính trị.
TRẦN THÁNH TÔNG:
Trần Thánh Tông (1240 – 1290) là vị Hoàng đế
thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua con Trần Nhân
Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ năm 1278 (sau
khi Thượng hoàng Thái Tông mất. Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất
lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt
thái bình và quân Nguyên-Mông không sang xâm lược nữa. Không những đẩy mạnh
chính sách phát triển kinh tế và giáo dục, ông đã thực hiện chính sách đối
ngoại khôn khéo, nhưng cương quyết, đề cao quyền lợi của Đại Việt chứ quyết
không để cho người Nguyên sang thôn tính. Trong thời gian làm Thái thượng
hoàng, ông đã cùng với vua con Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng
trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông.
Ông là vị Hoàng đế có lòng thương dân và thân
thiết với anh em trong Hoàng gia.
(Bách khoa toàn thư
mở Wikipedia)
Ông là vị vua thân thiện, hòa đồng với
mọi người, ngoại trừ lúc lâm triều mới phân ngôi thứ, ông nói:
"Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em
cùng hưởng phú quý chung".
Ông cũng quan tâm tới giáo dục, quốc phòng và đời sống
người dân, vì thế trong triều ra đến xã hội, đều an hòa, giặc không dám dòm
ngó. Về quốc phòng, ông cũng rèn luyện tập trận, đúc súng đóng thuyền. Vua lệnh
cho Lê Văn Hưu soạn bộ quốc sử từ thời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30
quyển.
Nhà vua quan hệ ngoại giáo khá mềm mỏng, khôn khéo cho
dù Nam Tống đang suy vi, mãi đến khi Nam Tống bị Nguyên Mông thôn tính, một số
quan lại xin tỵ nạn, vua trọng dụng, ban chức tước phẩm trật mà vẫn cho người
theo dõi quản lý. Quân Nguyên Mông dùng ngoại giao để khuất phục vua Thánh Tông
không được, bèn dấy binh ứng chiến, nên đất nước một lần nữa đứng trước nguy cơ
bị xâm lược.
Năm 1278, Thánh Tông nhường ngôi cho con là Trần Nhân
Tông, lên làm Thái thượng hoàng, tuy ẩn tu, nhưng ngài vẫn quan tâm đến an nguy
của đất nước. Năm 1284 chiến tranh xẩy ra giữa Đại Việt và Nguyên Mông, vua
Nhân Tông và thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông được Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn hỗ trợ đã đánh dẹp hai lần quân Nguyên Mông. Sau khi đất nước vắng bóng
ngoại xâm, Trần Thánh Tông lui về ẩn cư, sáng tác thơ văn; tác phẩm lưu truyền
là: "Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực". Và:
* Di hậu lục (Chép để lại cho đời sau)
* Cơ cầu lục (Chép việc nối dõi nghiệp nhà)
* Thiền tông liễu ngộ (Bài ca giác ngộ Thiền tông)
* Phóng ngưu (Thả trâu)
* Chỉ giá minh (Bài minh về sự cung kính)
* Trần Thánh Tông thi tập (Tập thơ Trần Thánh Tông)
Và một số thư từ ngoại giao, nhưng tất cả đều đã thất
lạc, chỉ còn lại 6 bài thơ được chép trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt
sử ký toàn thư (1 bài).
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần
Thánh Tông. “trung hiếu nhân thứ, tôn
hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được
bền vững”, tuy nhiên trên quan điểm Nho giáo lại phê phán ông sùng đạo Phật
“thì không phải phép trị nước hay của đế vương”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông:
Thánh Tông nối nghiệp Thái
Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân
Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an.
Suốt đời Trần không có việc giặc Hồ nữa, công to lắm.
Ngô Sĩ Liên
Thánh Tông là vị hoàng đế hiền tài; đối với anh em họ
hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột thịt đối với dân
trong nước mở mang kinh tế và việc học hành… Ông lại chỉnh đốn võ bị, chống
ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng mà bảo vệ quyền lợi của đất nước, dùng kế
hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam
cộng khổ để đi đến thắng lợi, có thể coi là vua tài đức toàn vẹn. (Bách khoa
toàn thư)
TRẦN NHÂN TÔNG (1258 – 1308)
(Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử)
Ngài tên huý là Khâm, con trưởng vua Trần Thánh Tông
và Nguyên Thánh hoàng thái hậu, sanh ngày mười một tháng mười một năm Mậu Ngọ
(1258). Ngài tuy ở địa vị sang cả mà tâm hâm mộ Thiền tông từ thuở nhỏ.
Khi còn làm Thái tử Ngài đã tham học thiền với Thượng
Sĩ Tuệ Trung, thâm đắc đến chỗ thiền tuỷ và kính lễ Thượng Sĩ làm thầy. Đến khi
làm vua Ngài họp các thiền sư để bàn đạo lý.
Năm 21 tuổi Ngài lên ngôi hoàng đế (1279). Khi giặc Nguyên
sang quấy rối, Ngài phải xếp việc kinh kệ để lo giữ gìn xã tắc. Nhờ tình đoàn
kết quân dân, Ngài đã hai lần (1285, 1288) đuổi được quân Nguyên, giữ gìn trọn
vẹn đất nước. Dưới triều đại Ngài, hai cuộc hội nghị nổi tiếng được ghi vào sử
sách là: hội nghị các tướng lãnh ở Bình Than, hội nghị những bô lão trong cả nước
ở Diên Hồng để bàn kế, tỏ quyết tâm chống giặc.
Đến tháng 10 năm Kỷ Hợi 1299, Ngài xuất gia vào tu ở
núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu đà (khổ hạnh), lấy hiệu
là Hương Vân Đại Đầu Đà. Sau đó Ngài lập chùa, cất tinh xá, khai giảng để tiếp
độ chúng Tăng.
Vua Trần Nhân Tông viết trong bài phú nổi tiếng
"Cư Trần Lạc Đạo":
Đến năm 1304 Ngài dạo đi các nơi khuyên dân dẹp bỏ
những miếu thờ thần không chánh đáng.
Đến ngày mùng một tháng mười một, trước khi viên tịch
Ngài nói kệ:
Nhất thiết pháp bất
sanh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi liễu dã.
Dịch:
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Nào có đến đi ấy vậy.
Ngài còn lưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Lâm Thiết Chuỷ Ngữ Lục
2. Đại Hương Hải Ấn thi tập
3. Tăng già toái sự
4. Thạch Thất Mị ngữ (do Pháp Loa soạn lại lời của
Ngài)
"Cư
trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan
hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm
mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn
thiền."
Dịch:
"Ở đời vui đạo hãy tùy
duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm
kiếm,
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi
thiền."
Nào có đến đi ấy vậy.
(Trích thientongvietnam.net)
Công trạng đối với Phật giáo to lớn thì việc xã tắc
không thể nói là nhỏ khi hai lần đánh đuổi quân Nguyên Mông. Bản chất của vua
là nông dân, tục xâm mình thời bấy giờ từ cung đình đến dân dã đều nhất nhất.
Vì thế vua rất được lòng dân. Nhân cách lãnh đạo đã thu phục được nhiều hiền
nhân anh tài như: Thái sư Trần Quang Khải, danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc
Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật..., về văn học có các văn thi
sĩ uyên bác như Nguyễn Thuyên, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Riêng Nguyễn
Thuyên là người khởi đầu dùng chữ Nôm làm thơ phú, văn hay như Hàn Dũ bên Trung
Quốc ngày xưa nên Nhân Tông cho đổi tên là họ Hàn. (danh nhân V.N-Nguyễn Đức
Hiệp). Quân Mông "đốt phá hết chùa miếu trong nước, khai quật phần mộ tổ
tiên, cướp bóc dân gian, phá phách sản nghiệp trăm họ, mọi tàn ác không việc
nào trừ.... đến độ hoàng thành cung điện tan hoang, vua phải tạm ngự ở Lăng thị
vệ". Thế mà khi thắng giặc, vua vẫn giữ hòa khí, khiêm nhượng; lấy hoàng
bào phủ đầu Toa Đô đem chôn cất cẩn thận. Sau chiến chinh, chính sách an dân áp
dụng linh hoạt triệt để, miễn giảm thuế tô. Giảm thiểu cơ cấu hành chánh thật
gọn nhẹ. Trần Nhân Tông lấy Trung hiếu làm đầu, khi về ngôi Thái thượng Hoàng,
ngài vẫn khuyên nhũ Trần Anh Tông theo nề nếp đạo đức, nhưng rất nghiêm với
việc ăn chơi say sưa của Anh Tông. Một hôm Anh Tông say khướt, bị Thái thượng
Hoàng khiển trách. Vua bảo:
"Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi được.
Trẫm đang sống mà ngươi còn như thế, huống chi sau này?".
Vua dập đầu tạ tội.
Khi ông là Thượng hoàng, đối với con ông là Trần Anh
Tông, ông để tự do nhưng đều khuyên bảo những điều nhân đức về phép trị dân. Sử
sách chép rằng, Anh Tông là người có hiếu nhưng thường uống rượu và lẻn đi chơi
đêm khắp kinh thành, đến gà gáy mới về. Vì thế có lúc Nhân Tông phải có thái độ
cứng rắn.
Ngoài việc lãnh đạo đất nước chống ngoại xâm, quan tâm
đến đời sống nhân dân, Ngài còn là một nhà thơ Thiền nổi tiếng, cũng là giáo
chủ thiền phái Trúc Lâm Yên tử cho quảng đời còn lại mà sách sử vẫn còn ghi
nhận. Từ Yên Tử Sơn, lâu lâu Nhân Tông đi ngao du các nơi, thăm thắng cảnh
thanh bình của quê hương mình. Lúc qua Thiên Trường vào một buổi chiều, trong
cảnh tranh tối tranh sáng của đồng quê Việt Nam, dưới con mắt Thiền của mình,
ông đã xúc cảm làm một bài thơ tựa đề "Thiên Trường vãn vọng"
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương
biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền.
(Xóm trước thôn sau tựa khói
lồng
Bóng chiều dường có lại dường
không
Mục đồng sáo vẵng trâu về hết
Cò trắng từng đôi hạ xuống
đồng)
Trong đời Trần,
vua Nhân Tông là một vị đế vương thừa hưởng tính nhân hậu, tài hoa và phóng
khoáng của vua cha Trần Thái Tông, đem lại vẻ vang cho tổ quốc, tạo sự kính nể
của bắc phương.
Chính vì thế mà hậu học không tiếc lời ngợi ca công
đức của một vị vua hiển Thánh, một quôc vương hiển Phật qua các bài tham luận
nhân ngày hội thảo khoa học về Phật hoàng Trần nhân Tông.
Trần-Anh-Tôn (1293-1314):
Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà Trần, kế vị vua
Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên rất tinh thông về
Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn, Ngài đã hăng hái truyền bá
Phật Giáo trong nước.
Cũng như vua
cha Nhân Tông, ông là một vị vua anh minh. Trong triều lại có những người tài
giỏi hết lòng giúp việc nước. Về văn có Trương Hán Siêu,Đoàn Nhữ Hài; võ có
Phạm Ngũ Lão, Lê Trung Hiển đều là những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi
trung, phép tắc nghiêm trang, thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì
hồ đồ. Việc học hành mở mang rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như
Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều
đình. Thời Anh Tông cai trị tiếp tục giai đoạn thịnh trị của nhà Trần
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Sau khi thỉnh được đại tạng kinh ở Trung Hoa về, Ngài
sắc in nhiều bản và dâng cho Phật Hoàng Trần-Nhân-Tôn, Ngài lại còn tuyên thiết
những đàn tràng lớn để hành lễ và phát chẩn cho dân nghèo.
Cũng như vua cha Nhân Tông, ông là một vị vua anh
minh. Trong triều lại có những người tài giỏi hết lòng giúp việc nước. Về văn
có Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài; võ có Phạm Ngũ Lão, Lê Trung Hiển đều là
những người tài giỏi. Thời đó vua hiền, tôi trung, phép tắc nghiêm trang,
thưởng phạt phân minh, chính trị không có điều gì hồ đồ. Việc học hành mở mang
rộng rãi, cho nên những người có tài văn học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung
Ngạn đều được thi đỗ, ra làm quan giúp việc triều đình. Thời Anh Tông cai trị
tiếp tục giai đoạn thịnh trị của nhà Trần.
(Bách khoa toàn thư)
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư dù có khen nhưng vẫn phê
phán ông là quá mộ đạo Phật: "Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi
đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng,
cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song, tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm
nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó
sao?"
Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Ðạo Phật không còn giữ được
cái sắc thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa.
Nguồn: http://www.quehuong.org.vn.
Kể từ Trần Hiến Tông, đời vua thứ 6 của nhà Trần, Phật
giáo bắt đầu suy vi do vua bê tha sa đọa, không lo việc nước, không được lòng
dân, không trọng dụng các Thiền sư cao Tăng tham chính như các tiên đế, từ đó
đất nước rối loạn, Phật giáo suy vi.
Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là
12 đời vua, trị vì được 175 năm.
Nhà Trần là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt
Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực
từ tay nhà Lý, trải qua 12 triều vua và chấm dứt đời vua Thiếu Đế, lúc đó mới
có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý
Ly- tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm. Như vậy qua 12 triều đại nhà Trần,
chỉ có 3 triều vua đầu là Phật giáo hưng thịnh, 3 đời sau dần dần suy vi.
Tóm kết LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM DƯỚI THỜI
NHÀ TRẦN (1225-1400)
Trong đầu đời nhà Trần, có nhiều vị vua rất sùng mộ
Phật-Pháp và đã có công lớn đối với việc truyền bá Ðạo Phật trong nước. Các vị
vua nhà Trần có công với sự truyền bá Phật-Pháp:
1. VUA TRẦN THÁI TÔN (1225-1258):
Trần-Thái-Tôn tên húy là Trần-Cảnh, chồng bà
Lý-Chiêu-Hoàng. Sau khi được vợ nhường ngôi, Trần-Thái-Tôn trở thành vị vua
khai nguyên đời Trần. Ngài là một vị quốc vương hiếu đạo rất sâu xa. Khi mới
lên ngôi, Ngài đã lo việc truyền bá Ðạo Phật bằng cách lập chùa, đúc chuông và
hộ trì Phật, Pháp, Tăng. Ngài lại còn soạn được hai tập sách rất có giá trị và
gây ảnh hưởng quý báu cho việc truyền bá Phật-Pháp thời bấy giờ, là quyển:
"Thiền-tôn chỉ Nam" và quyển "Khóa hư". Tập Thiền-tôn chí Nam nói rõ về
đạo lý tu thiền; còn tập Khóa-hư giải rõ hành-tướng của cái khổ: sanh, lão,
bệnh, tử. Hai tập ấy, ngày nay vẫn còn lưu truyền.
2. VUA TRẦN NHÂN TÔN (1278-1293):
Trần-Nhân-Tôn là vị vua thứ ba đời Trần. Sau khi đã
đánh bại quân Mông-Cổ một cách oai hùng, Ngài truyền ngôi lại cho con và vào tu
ở núi Yên-Tử. Ngài thường đi khắp đó đây để bài trừ những hình thức mê-tín
dị-đoan trong dân gian, thiết lập tu-viện, thuyết pháp-độ-sanh, mở rộng những
trạm phát thuốc để cứu giúp người tật bệnh. Sau Ngài truyền pháp lại cho
Tôn-Giả Pháp-Hoa và tịch ở am Ngọc-Vân trong lúc đang đi du hóa. Ngài chính là
sư-tổ phái Trúc-Lâm.
3. VUA TRẦN ANH TÔN (1293-1314):
Trần-Anh-Tôn là vị vua thứ tư của nhà Trần, kế vị vua
Trần-Nhân-Tôn. Ngài là đệ tử của Pháp-Loa tôn-sư, nên rất tinh thông về
Phật-pháp. Noi gương phụ vương là vua Trần-Nhân-Tôn, Ngài đã hăng hái truyền bá
Phật Giáo trong nước.
Sau khi thỉnh được đại tạng kinh ở Trung Hoa về, Ngài
sắc in nhiều bản và phát cho Phật Hoàng Trần-Nhân-Tôn, Ngài lại còn tuyền thiết
những đàn tràng lớn để hành lễ và phát chẩn cho dân nghèo.
Tuy vậy, đến đời Anh-Tôn, Ðạo Phật không còn giữ được
cái sắc thái rực-rỡ như đầu đời Trần nữa.
(Tạng thư Phật Học- Thích THIỆN HOA)
Tuy nhà Trần có 12 vua, nhưng chỉ có 3 vị vừa có công
với đất nước lại vừa xiển dương Phật giáo một cách xuất sắc, đã nêu như trên.
1. Trần Thái Tông (1226 - 1258)
2. Trần Thánh Tông (1258 - 1278)
3. Trần Nhân Tông (1278 - 1293)
4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)
5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)
6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)
7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)
8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
9. Trần Duệ Tông (1373 - 1377)
10. Trần Phế Đế (1377 - 1388)
11. Trần Thuận Tông (1388 - 1398)
12. Trần Thiếu Đế (1398 - 1400)
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ (1230 -
1291)
Tên thật là Trần Tung (hay Trần Quốc Tung), là một
thành viên trong hoàng tộc nhà Trần với tước hiệu Hưng Ninh Vương và là một
thiền sư Việt Nam .
Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng
đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Tiểu sử:
Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh
Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh vương Trần Liễu (nguyên tác chép An
Ninh vương), anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 (1285)
và lần 3 (1287-1288), ông đều trực tiếp tham gia. Sử chép rằng ngày 10 tháng 6
năm 1285, ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân giao chiến với tướng
nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông
Cầu). Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại
giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ
mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá.
Sau khi kháng chiến thành công, ông được phong chức
Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh
Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân trang để theo
đuổi nghiệp thiền.
Năm 1291, Tuệ Trung thượng sĩ mất, thọ 61 tuổi.
Thiền:
Thời trẻ, ông không thích công danh, chỉ ham nghiên
cứu về Thiền. Sau, ông học đạo với thiền sư Tiêu Dao, vừa thực hành giải thoát
tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các công việc
xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua Trần Thánh Tông nể vì do kiến thức
uyên bác về nội ngoại điển, được vua tôn làm đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi,
kệ; một số được kiết tập trong "Thượng sĩ ngữ lục" (Ngữ lục của Thượng
sĩ) rất nổi tiếng.
Tư tưởng:
Do sinh ra trong một gia đình có nhiều nghịch cảnh,
sớm được theo học thiền sư Tiêu Dao và lại trực tiếp tham dự vào những thời
khắc quyết định vận mệnh đất nước nên ông nhận rõ chân tính cuộc đời và chọn
lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện qua
lời đáp dành cho câu hỏi tông chỉ thiền là gì của vua Trần Nhân Tông: "Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông
chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác".
NHÀ HẬU LÊ
Phật giáo vào thời hậu Lê mất thế đứng so với Nho giáo
mà thế kỷ X-XIV là một thời kỳ vô cùng rạng rỡ; Lê lợi muốn xây dựng một thể
chế quân chủ phong kiến, do vậy cần dùng học thuyết Nho gia để phát triển; Phật
giáo bị hạn chế từ kiến thiết, nghi lễ và hoạt động xã hội. Tuy không còn tham
chính như xưa, Phật giáo vẫn lan tỏa trong nhân gian qua tín ngưỡng từ bi, nhân
quả, luân hồi...
Đến khi Nam-Bắc phân tranh, tình hình xã hội biến đổi,
Phật giáo có cơ may phát triển nhờ triết thuyết nhân quả đủ để an ủi nhân tâm
giữa lúc phân ly loạn lạc nhiều thống khổ.
Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê nên xẩy ra tranh chấp
giữa nhà Mạc và nhà Lê suốt 60 năm, nhân
dân đồ thán; nhà Lê nhờ họ Trịnh đánh dẹp nhà Mạc, sau đó giữa Trịnh và Nguyễn
lại tiếp tục xẩy ra tranh chấp suốt 2 thế kỷ làm xã hội rối ren, nhân dân đồ
thán.
Tuy vậy, thời kỳ nầy Phật giáo lại phát triển khá tốt.
Phật giáo thời nầy không chỉ là Phật giáo của giới thượng lưu quan quyền như
thời Lê Lý Trần mà là phật giáo xã hội hóa, bàng bạc khắp trong nhân gian làng
xã.
PHẬT GIÁO THỜI HẬU LÊ
Lê Lợi chiến thắng giặc ngoại xâm và lên ngôi vua, đã
đánh dấu bước chuyển quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam . Trên lĩnh
vực tôn giáo Phật giáo đã nhường bước cho Nho giáo, điều này chủ yếu do đời
sống chính trị xã hội Việt Nam
quy định, đó là phải xây dựng củng cố nhà nước phong kiến, kỷ cương xã hội, mà
Nho giáo có khả năng đáp ứng được. Tuy nhiên Nho giáo chỉ phổ biến chủ yếu ở
tầng lớp trên của xã hội, còn ở đại bộ phận dân cư tác động của Phật giáo khá
lớn.
Thời
kỳ này Phật giáo dung nạp 3 yếu tố: Tịnh, Thiền, Mật kết hợp cả tự độ, tự giác
và giác tha. Bên cạnh đó nhà Lê hạn chế tổ chức thi cử, một số lễ giáo, xây
dựng chùa chiền…
Nhìn
chung vai trò Phật giáo thời hậu Lê đã bị giảm sút so với trước. Phật giáo
không trực tiếp tham gia vào việc triều chính như trước mà chủ yếu ảnh hưởng
trong đời sống dân chúng.
(Đinh Kiều Nga)
Tiến sĩ Lê Thị Chiêng trong chuyên luận ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO THỜI KỲ NHÀ
MẠC tại Hội thảo khoa học
Vương Triều Mạc trong lịch sử Việt Nam đã viết:
Nhà Mạc không ban hành chính sách cụ thể về tôn giáo
tín ngưỡng. Muốn tìm hiểu vấn đề này cần dựa trên những việc làm thực tế của
vua quan, các thành viên hoàng tộc. Ngay sau khi nắm quyền, Mạc Đăng Dung đã
cho sửa sang lăng miếu của vua Lê ở Nam Kinh và định kỳ cúng tế. Có người cho
việc làm này chỉ là sự khôn khéo của kẻ tiếm quyền, nhằm che mắt thế gian, mong
yên lòng người, tránh sự phản kháng của quần thần nhà Lê. Nhưng đánh giá như
vậy có thật khách quan không? Nếu Mạc Đăng Dung không phải người nhân đức trung
nghĩa như nói trong chiếu nhường ngôi thì có làm như vậy không? Lịch sử Việt Nam đâu phải
không có chuyện, để tự tôn vinh, các triều đại sau đã triệt phá dấu tích của
các vương triều trước! Nên xem việc duy trì lễ cúng tế tông miếu nhà Lê của Mạc
Đăng Dung không phải chỉ để tri ân một triều đại, từ đó ngài có ngôi cao. Lớn
hơn thế, việc ngài làm là để ghi tạc công trạng của triều đại nhà Lê với lịch
sử dân tộc, lưu truyền đến đời sau. Biết đâu đấy, việc làm này cũng là để bảo
tồn hào khí hùng thiêng – sức mạnh trường tồn của đất nước.
Tiếp đó vua Mạc Đăng Dung lệnh cho trưởng thái giám
hiệu Thụy Trúc thiền sư xây dựng chùa bà Đinh (chùa Thiên Phúc - Kiến Thụy -
Hải Phòng). Có thể coi việc làm này là sự mở đầu cho công cuộc sửa sang, xây
dựng lại những ngôi chùa đã bị phá bỏ trong thời kỳ thuộc Minh và lãng quên bởi
nhà Lê sơ, dọn đường cho sự phát triển của đạo Phật. Tư liệu văn bia thời Mạc
là minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ trở lại của đạo phật. Trong số 146 bia
thời Mạc còn lại tới nay có tới 109 bia chùa với nội dung về ruộng đất chùa,
việc xây dựng và người hưng công.
Đi
tiên phong cho việc xây dựng chùa tháp, tạc tượng, đúc chuông là các thành viên
của hoàng tộc nhà Mạc, tiếp đó là những người hiển danh có điều kiện kinh tế,
cuối cùng là nhân dân địa phương. Theo tư liệu văn bia, có hàng trăm thành viên
trong hoàng tộc và các đại thần của triều đình tham gia tu bổ và xây chùa Phật.
Trong
số những thành viên của hoàng tộc cung tiến tiền của xây dựng chùa trước hết
phải kể đến các vị đương kim hoàng thượng như: Mạc Phúc Nguyên, đã ban “Cấm
tiền” cho chùa Linh Cảm (Từ Sơn – Bắc Ninh, 1557), Mạc Mậu Hợp cúng 20 lạng bạc
vào chùa Hoa Tân (Hải Phòng, năm 1582). Đặc biệt, Thái Hoàng Thái Hậu Vũ Thị
Ngọc Toàn là người được xem là người cung tiến nhiều nhất hoàng tộc. Bà đã cúng
30 mẫu ruộng và 6000 lá vàng cùng bạc tiền cho trên chục ngôi chùa ở khu vực
Dương Kinh và vùng phụ cận. Do công đức xây chùa bà được dân gian tôn phong “là
mẫu nghi thiên hạ, là Phật sống trên trần gian”. Chính vì lẽ đó bà Thái Hoàng
Thái Hậu được dân làng nhiều nơi tạc tượng thờ còn để lại đến ngày nay ở một số
chùa ở thành phố Hải Phòng.
Vị
Thái hoàng Thái Hậu này còn tham gia xây chùa Thiên Phúc (như đã nói ở trên)
cùng các thành viên hoàng tộc khác như: Hoàng Thái Hậu họ Phan, Khiêm Thái
Vương họ Mạc, Tĩnh Quốc Thái phu nhân họ Nguyễn, Tu Hòa Thái Trưởng công chúa
họ Mạc, Bảo Gia thái trưởng công chúa họ Mạc, Phúc Thành thái Trưởng công chúa
họ Mạc, Khiêm Thái Vương phi họ Mạc,… Tổng cộng 33 người. Đặc biệt bà Quận công
Mạc Ngọc Liễn và Phúc Thành Thái trưởng công chúa tham gia xây dựng hàng chục
ngôi chùa, quán, trong đó có Ninh Tiên. Tình cảm và niềm tin tôn giáo khiến họ
trở thành tín đồ có pháp danh: Đức Quảng (Mạc Ngọc Liễn) và Từ Đức (phúc Thành)
như nhà tu hành thực thụ. Các thành viên trong hoàng tộc đã công đức xây khoảng
80/168 ngôi chùa được xây dựng thời kỳ này.
Sự
hưng khởi của đạo Phật vào thời nhà Mạc còn thể hiện ở chính sách ruộng đất.
Nhà nước cho phép cá nhân cúng ruộng vào chùa dưới dạng làm công đức và đặt
hậu. Chính vì vậy, dưới thời Mạc hầu như chùa nào cũng có ruộng, trong đó nhiều
chùa có số ruộng lớn hàng chục mẫu như: chùa Pháp Vũ (Thường Tín – Hà Nội) 70
mẫu, chùa Hoa Tân (Hải Phòng) 50 mẫu, chùa Nghiêm Quang (Hải Phòng) 31 mẫu,
chùa Thiên Phúc (Hải Phòng) 25 mẫu 1 sào 2 thước.
Ở
những nơi xa kinh kỳ như Ninh Bình, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ, việc xây
dựng chùa đều do các quan địa phương khởi xướng với sự tham gia đóng góp của
nhân dân trong làng xã.
Trong cuốn Mỹ thuật thời Mạc, các nhà nghiên cứu từ
góc độ mỹ thuật thời Mạc trên các đình chùa, tượng Phật, tượng thờ, gốm sứ đã
kết luận thời nhà Mạc trị vì là thời đại chấn hưng của Phật giáo sau hàng trăm
năm bị ức chế bởi chủ trương dương Nho ức Phật của nhà Lê sơ. Sự hưng thịnh này
đã tạo ra sức sống mãnh liệt cho một nền mỹ thuật mang đậm bản sắc dân tộc, dân
gian.
PHẬT GIÁO THỜI NGUYỄN
Triều
đình Nguyễn không được dân ủng hộ, nên luôn gặp sự phản kháng của người dân, vì
vậy mà triều đình Nguyễn muốn lặp lại cơ cấu tổ chức nhà nước, đi đôi với nó là
các chính sách hà khắc, hạn chế đạo Phật, sư sãi…. Với đạo Phật, triều Nguyễn
đã phê phán cả giáo lý và hành đạo của Phật giáo. Song Phật giáo vẫn có chỗ
đứng ngay trong cung đình, trong gia đình triều thần, trong các nho sĩ quan
lại. Do vậy việc tu sửa chùa chiền thời này vẫn được diễn ra.
Phật
giáo đã thấm sâu vào tư tưởng nhân dân, nó được quan hệ làng xã lưu giữ, duy
trì. Trong quan niệm của nhân dân, trong văn học… đều mang dấu ấn tư tưởng của
Phật giáo (Đinh Kiều Nga)
PHẬT GIÁO THỜI KỲ KHỞI NGHĨA NÔNG DÂN (nửa
cuối thế kỷ XVIII)
Xã hội
Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII là xã hội sôi động của những cuộc đấu tranh, những biến động
liên tục. Khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi đem lại những tư tưởng mới cho lịch sử
Việt Nam, các trí thức thời này đã tìm cách kiến giải mới về xã hội về tôn
giáo, nhưng tôn giáo thời kỳ này vẫn chưa thoát khỏi tư tưởng tam giáo đồng
nguyên.
PHẬT GIÁO THỜI KỲ PHÁP THUỘC (nửa
cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX)
Nhà
Nguyễn ngày càng bất lực trước sự phát triển của xã hội, của sự tác động của
chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhu nhược trước sự xâm chiếm của thực dân Pháp với
dụng ý tách đạo với đời, đưa quần chúng xa lánh đời sống chính trị.
Sự chấn hưng của Phật giáo đã tạo bước
quan trọng của quan niệm dấn thân, gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính
trị xã hội, gắn ý thức dân tộc với ý thức Phật giáo. Phật giáo đã tạo ra những
phong trào lớn cho lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc thời ấy.
Qua
các phong trào Phật giáo, đã thành lập được các tổ chức giáo hội, tuy chưa có
sự thống nhất chung của Phật giáo trong cả nước, song đã có sự quan hệ trao đổi
giữa các tổ chức giáo hội này.
Về
giáo lý đã đặt ra những vấn đề lớn phức tạp mà từ trước đến nay chưa hề có, đó
là: Phật giáo vô thần hay hữu thần, hoặc nhân duyên luận là duy vật hay duy
tâm, có linh hồn hay không có linh hồn… Trong những cuộc tranh luận trên có cả
sự tham gia của trí thức cộng sản, họ đã gây được ảnh hưởng trong cuộc tranh
luận trên.
Nhìn
lại lịch sử Phật giáo Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy rằng Phật giáo có những biến đổi
lớn đã phân hóa cả về xu hướng chính trị xã hội, về giải thích, tiếp thu giáo
lý… tình hình ấy kéo dài và phát triển về sau này. (Đinh Kiều Nga)
NHÀ NGUYỄN
Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng cai trị
Việt Nam trong lịch sử Việt Nam từ năm 1802 đến 1945, được thành lập sau khi
hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn
toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng cộng là 143 năm. Triều
đại Nhà Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt
là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.
Triều nhà Nguyễn có thể được chia ra hai giai đoạn
riêng biệt: Giai đoạn Độc lập và Giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lăng và đô hộ.
- Giai đoạn độc lập (1802-1858) là giai đoạn mà các
vua nhà Nguyễn đang nắm toàn quyền quản lý đất nước, kéo dài 56 năm và trải qua
4 đời vua, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
- Giai đoạn bị Pháp xâm lăng và đô hộ (1858-1945) là
giai đoạn kể từ việc quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế Bảo
Đại thoái vị.
Bối cảnh
Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 triều Nguyễn độc tôn
Nho học. Do đó mặc dù các chùa trong nước rất nhiều, nhưng hoạt động riêng rẽ,
không có một tổ chức, hệ thống liên lạc chặt chẽ với nhau, sự giao lưu phát
triển về Phật học cũng suy giảm.
Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba
miền, và chính quyền Bảo hộ tìm mọi cách phát triển Công giáo, thì Phật giáo
Việt Nam càng bị chèn ép. Một số ngôi chùa lớn cũng bị phá hủy, Viện Viễn Đông
Bác Cổ sưu tập các tài liệu, di vật nhưng không với mục đích truyền bá Phật
giáo cũng góp phần làm suy giảm các kinh sách tại các chùa.
Tuy nhiên, một số giới Nho sĩ cũng dần quay lại với
Phật giáo, cùng chung mục đích chống Pháp.
Hết Lê tới Nguyễn, đất nước lắm phen điêu linh vì nạn
ngoại xâm, nội loạn, cho đến phải chia đôi Trịnh, Nguyễn. Sự tủi nhục, đau buồn
của đất nước cũng là cái tủi nhục đau buồn của Phật giáo Việt Nam .
(Thanh Từ toàn tập)
THỜI CHÚA NGUYỄN TẠI ĐÀNG
TRONG
Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) sau khi vào
trấn thủ đất Thuận Hóa đã để ý đến việc lập chùa. Năm 1601, ông bắt đầu cho xây
dựng chùa Thiên Mụ ở xã Hà khê, huyện Hương Trà (thuộc Huếngày nay). Năm sau,
vào ngày Vu Lan, ông đến chùa Thiên Mụ lập trai đàn và làm lễ bố thí, lại cho
dựng chùa Sùng Hóa trên nền một ngôi chùa cổ ở xã Triêm Ân, huyện Phú Vang. Năm
1607, cho lập chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu, Quảng Nam . Năm 1609, lập chùa Kính Thiên
ở Thuận Trạch, Quảng Bình. Sau khi ông dựng xong dinh Quảng Nam ở xã Cần Húc
lại cho lập một ngôi chùa gần đó là chùa Long Hưng. Có thể ý chúa Nguyễn muốn
lấy đạo Phật làm chỗ dựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn.
Cho nên sau này, các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng đạo Phật. Còn nhân dân Ðàng
Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng chân thật, mặn
nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh Thanh, nhiều cao tăng
Trung Hoa đã tới Ðàng Trong hành hóa. Một phần quan trọng của những tổ đình
hiện nay là do các thiền sư Trung Hoa sáng lập.
Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) là một Phật tử pháp
danh Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Ðạo nhân do ngài Thạch Liêm, một danh
tăng thuộc phái thiền Tào Ðộng Trung Quốc đặt, và được xem là truyền thừa chánh
tông đời thứ 30 của dòng thiền này. Bốn năm sau khi lên ngôi chúa, ông thọ Bồ
Tát giới và thường tự ví mình là Duy Ma Cật. Ông chủ trương lấy tinh thần Phật
pháp định hướng cho đời sống dân tộc và có quan hệ mật thiết với sư Thạch Liêm.
Ngài Thạch Liêm đã có lần trình bày với chúa quan điểm trị nước theo tinh thần
Phật giáo, được giải thích qua ý nghĩa "trai giới" đối với một vị
quân vương: "Trai giới là làm cho quốc gia từ trên xuống dưới được thanh
lý chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng
giải quyết được chính đáng. Làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của
một ông vua". Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng và trùng tu nhiều ngôi
danh lam tại Thuận Hóa như trùng tu chùa Thúy Vân, chùa Linh Mụ... Sai người
sang Trung Quốc thỉnh bộ Ðại tạng kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản.
Dòng Lâm Tế, một nhánh Thiền nam tông quan trọng của
tổ sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-866) từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam vào thế kỉ 17 rồi phát triển
mạnh tại Đàng Trong. Từ thời điểm này trở đi xuất hiện nhiều cao tăng thuộc
dòng này như các sư Viên Minh và Viên Khoan ở Quảng Trị, Minh Hoằng Tử Dung
khai sơn chùa Từ Ðàm, sư Giác Phong sáng lập chùa Báo Quốc tại Huế, sư Pháp Bảo
lập chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam, sư Nguyên Thiều sáng lập các chùa Thập Tháp Di
Ðà tại Bình Ðịnh, chùa Quốc Ân và Hà Trung tại Thuận Hóa (Huế), trong đó ngài
Nguyên Thiều đã thành lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và
Quốc Ân, ngài Pháp Bảo thành lập nên dòng truyền thừa hệ Chúc Thánh. Ngoài các
dòng trên, tại Đàng Trong có một hệ truyền thừa ảnh hưởng rất sâu rộng cho đến
hôm nay, đó là dòng Liễu Quán, do sư Liễu Quán thành lập.
THỜI CHÚA NGUYỄN TẠI ĐÀNG
NGOÀI
Như đã biết đạo Phật thời Hậu Lê không còn thịnh bằng
thời Lý Trần. Khi đất nước chia hai thành Đàng Ngoài và Đàng Trong thì tại Đàng
Ngoài đạo Phật không phổ biến như ở Đàng Trong. Vào thế kỷ 17, dòng Thiền Tào
Động (do các ngài Tào Sơn Bản Tịch (840-901) và Ðộng Sơn Lương Giới (807-869)
sáng lập từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam và có nhiều ảnh hưởng tại Đàng Ngoài.
Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... đến nay vẫn được
xem là truyền thừa của dòng thiền này.
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Sau Trịnh Nguyễn phân tranh là triều đại Nguyễn Huệ,
vua Quang Trung. Quang Trung là một Thần tướng bách chiến bách thắng, nhiều mưu
lược, giỏi quản lý và tổ chức, khôn ngoan ngoại giao. Riêng lãnh vực tôn giáo,
Quang Trung tuy tôn trọng tự do Tín ngưỡng nhưng không vì thế mà để mê tín dị
đoan phát triển.
VUA QUANG TRUNG NGUYỄN HUỆ (1753
- 1792)
Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với
nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam
với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào.
Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và
rộng rãi: dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các
tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác.
Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo,
xây dựng nhà thờ.
Đối với Phật giáo, ông chọn một quan văn “5 ngày một
lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách”. Nhưng đồng thời ông cũng thi hành
chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều
chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập
bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên, đồng thời những người tu
hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục.
Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ
Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua
Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy là đã có sức mạnh
mà đã biết làm việc nghĩa vậy".
# Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của
Quang Trung:
"Ông không chỉ là cầm
quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi... Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa
biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân..."
—Legrand de
la Liraye trong tác phẩm Notes historiques sur la nation annamite (Bút ký lịch
sử về dân tộc An Nam)
Vua Quang
Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng
ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài
văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích
đều được trọng dụng và nhất là đối với một xử sĩ như Nguyễn Thiệp thì thật khác
thường.
(Trần Trọng Kim)
(Wikipedia)
BỐI CẢNH TRONG THỜI ĐÔ HỘ
Bối cảnh lịch sử miền Nam Việt Nam trong thời
kỳ Pháp đô hộ
Sau thời gian Gia Long và Tây Sơn tranh chấp, đến
khi Quang Trung mất, tinh thần binh sĩ và nội tình phân tán nên Nguyễn Ánh đã
thừa thắng, một phần nhờ ngoại bang, bắt tay với Tàu và Pháp, tuy chưa chặt chẽ
lắm, nhưng cũng có chỗ cho binh sĩ an lòng. Vua Gia Long có thiện cảm hơn do
khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc,
các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, tuy nhiên, năm 1817,
chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền
trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành
những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn
Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã
không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. (Wikipedia)
Đến khi Minh Mạng kế thừa thì tinh thần cải cách
tiến bộ hơn, thuê quân Pháp huấn luyện quân đội, giúp cho binh lực và nội chính
vững mạnh, vì thế, theo đánh giá đương thời, quân đội nhà Nguyễn cực mạnh so
với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Cambuchea. Ngược lại đến thời Tự Đức thì
tổ chức suy sụp có lẽ vì tài chánh hạn hẹp, vả lại Tự Đức không theo cách tổ
chức của phương Tây mà quay lại Binh Thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Tuy Minh
Mạng tiếp thu một số cái hay của Pháp để cải cách, nhưng: Vua Minh Mạng không
có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người
Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược Châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm
quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so
sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng
loạt giáo dân Công giáo. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh
Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng
dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa
hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ
thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ
ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông Chaigneau
làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến. Cũng theo đường lối
của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp
với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850
có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được
tiếp nhận.(Wikipedia)
Do tính cứng rắn của các đời vua nhà Nguyễn về
sau, cấm đạo, bắt bớ trục xuất người Pháp, không chịu canh tân đất nước, loạn
lạc dân chúng nổi dậy liên miên, vua nghe theo nhóm cận thần bảo thủ nên đưa
đất nước vào chỗ rối ren, bế tắt. Đến khi Tự Đức bắt đầu cho học tiếng nước
ngoài thì cũng đã muộn. Triều đình không có một biện pháp nào đối phó với
phương Tây, ngược lại chỉ cấm đạo và cấm mua bán quyết liệt hơn trước. Ngoài ra
ông cũng không thích cả Công giáo nhân vụ An Phong Công Hồng Bảo mưu phản, tìm
cách liên hệ với các giáo sĩ để soán ngôi mà nhà vua cho công bố 2 đạo dụ cấm
đoán Công giáo các năm 1848 và 1851, từ 1848-1860, đã có hàng vạn giáo dân bị
tàn sát hay lưu đày. (Wikipedia)
Dưới triều Nguyễn, trong các đời vua Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, tuy Phật giáo ít bị kỳ thị nhưng chủ lực chính
trị vẫn nằm trong tay Nho gia.
Từ năm 1817 về sau, số đông Nho gia cảm thấy có
một sự liên kết giữa phong trào truyền đạo Cơ Đốc và sự phát triển của thế lực
thực dân, cho nên đã bắt đầu chống đối Cơ Đốc giáo. Sự chống đối này phát triển
mạnh từ khi vua Minh Mạng lên ngôi. Phật giáo thời bấy giờ một phần vì không có
ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, một phần vì có tinh thần dung hợp không kỳ
thị tôn giáo, nên đã không phải là động lực đưa tới những đạo dụ "cấm
đạo" của vua Minh Mạng. Chính sách đàn áp kỳ thị Cơ Đốc giáo về phía chống
lại chính quyền. Lực lượng Cần Vương mà phần chủ yếu là Nho sĩ cũng tiếp tục xô
đẩy một số người Công giáo vào thế đối lập. (Wikipedia)
Chính những lý do đó mà Pháp lấy cớ xâm lăng Việt
Nam. Chiến tranh Pháp - Việt nổ ra vào thời nhà Nguyễn 1858-1884. Đồng thời các
giám mục Pháp cũng bắt tay với quân Pháp để thôn tính Việt Nam. Một số giáo dân
theo Pháp chống lại triều đình, do vậy, quần chúng người Lương cũng đã ngờ vực
cộng đồng Ki Tô giáo. Sau đó miền Tây Nam bộ cũng vào tay Pháp. Thời kỳ Pháp
thuộc được kể từ 1884-1945. Cũng từ nhà Nguyễn bị đô hộ, chữ Nôm, chữ Nho bị
thay bởi chữ La Tinh ngày nay gọi là chữ quốc ngữ. Sau khi bị đô hộ bởi Pháp,
đạo Công giáo được tự do phát triển. Nam Định là cái nôi sơ khai khi đạo Công
giáo được truyền vào Việt Nam, các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm lập cứ điểm vừa
truyền giáo vừa chống lại triều đình. Một số chùa bị biến thành nhà thờ như Lá
Vằng nay là La Vang, nhà thờ lớn Hà Nội vốn là chùa tháp Báo Thiên: Theo một số
tài liệu lịch sử như sách của Louvet “La vie de Mgr. Puginier”, tiểu thuyết
lịch sử “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên, các tài liệu trong Văn khố Hội Thừa
sai Paris (M.E.P.)… thì khu đất này xưa kia là khu đất của Báo Thiên Tự (Chùa
tháp Báo Thiên) được xây dựng từ đời Nhà Lý. Đây là một ngôi quốc tự nổi tiếng
của kinh đô Đại Việt trong suốt các triều đại từ Lý-Trần. Đến thời Lê – Nguyễn,
đây vẫn là nơi diễn ra các nghi lễ Phật giáo cầu cho quốc thái dân an... (nhà
thờ lớn HN-Wikipedia).
Nhà thờ Đức Bà vốn là chùa Khải Tường... Hình như
đa phần tỉnh nào cũng có chùa bị sung công làm nhà thờ nếu nơi đó nằm ở vị trí
thuận lợi. Vì thế, các sư Tăng rút sâu vào xóm thôn để tồn tại cùng với người
dân chân lấm tay bùn, ít có chùa nằm ngay mặt tiền đường phố chợ vào thời đó.
Sau thời gian dài, tu sĩ Phật giáo không cập nhật
kiến thức, văn minh Tây phương, cứ mãi ôm ấp chữ Nho, chữ Nôm mà lớp trẻ không
thể tiếp thu dễ như chữ quốc ngữ (La Tinh), vì vậy khó tìm người trẻ kế thừa
"trụ Như Lai xứ". Các sư chẳng những có gia thất, có con tiếp tục học
chữ Nho để tụng đọc kinh điển; không được đi học theo kiến thức thời đại, chỉ
biết ma chay đám tiệc và làm ruộng, hầu hết các sư được gọi là Cổ Sơn Môn hay
Lục Hòa Tăng, họ đều có vợ con, ăn thịt cá, uống rượu, kiêm luôn cúng đình cúng
miễu. Người dân xem tu sĩ đó là một cái nghề để đáp ứng ma chay, xem ngày tháng
cưới hỏi, xây cất... được ưu thế là thân cận gần gũi người dân, nhưng cũng vì
thế người dân thiếu sự kính trọng hơn các linh mục. Phật giáo tồn tại trong
thời Pháp thuộc nhờ gắn kết với tập quán nhân dân, đáp ứng được nhu cầu tâm
linh của giới bình dân. Thêm vào lúc Nho gia chiếm địa vị độc tôn mà nhà Nguyễn
dùng đó để khôi phục và bảo vệ nhà nước tập quyền chuyên chế theo thuyết vua là
Thiên tử, nên Nho gia đã kích dèm xiểm Phật giáo để vua chúa nghe theo. Thời kỳ
hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy thoái của Phật giáo.
Khi nền văn minh Tây Âu thâm nhập vào xã hội Việt,
mọi cơ cấu truyền thống bị đảo lộn; Tình làng nghĩa xóm được đo lường bởi tài
sản và địa vị xã hội; Thị dân hóa cuộc sống. Gia Long cũng nặng về Tây phương
do ân nghĩa, nên vào thời Tự Đức, Phật giáo bị giới hạn nhiều mặt về xây dựng
và phát triển; tách hẳn Phật giáo ra khỏi ảnh hưởng triều chính xưa kia. Từ nhà
Nguyễn, Phật giáo suy vi hẳn, không nghe danh tánh một cao Tăng chứng đắc hay
một danh Tăng nổi bật nào.
Một số vị chân tu ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm;
Uy tín Phật giáo trong nhân gian cũng nhợt nhạt. Một số tu sĩ ngả sang thần
quyền, bùa phép ảnh hưởng của Đạo gia, mê tín dị đoan xâm nhập vào thiền môn.
Ngược lại cách thờ phượng, hành lễ của Công giáo mang tính giản dị thanh thoát,
nhạc lễ cũng khác hẳn nhạc lễ trống phách ồn ào của Phật giáo. Tin Lành càng
đơn giản hơn và mang vẻ trí thức hơn. Hai tổ chức tôn giáo nói trên được chính
quyền bảo hộ và giành nhiều đãi ngộ.
Sau đệ nhị thế chiến, trước sự ồ ạt tấn công văn
hóa và tôn giáo từ phương Tây, các cao Tăng Phật giáo ở Trung Hoa, Srilanka,
Thái ý thức được sự tồn vong của đạo Phật nên các ngài khởi xướng chấn hưng
Phật giáo. 1950-1951 đại hội Phật giáo thế giới tổ chức tại Tích Lan đã chọn
giáo kỳ ngũ sắc và thành lập nội quy sinh hoạt chung, tôn trọng các tông phái
của mỗi quốc gia, Việt Nam có HT Tố Liên dẫn đầu đoàn tham dự, từ đó, PGVN là
thành viên thường trực trong hội Phật giáo Liên hữu.
NGƯỜI PHẬT TỬ ƯU TÚ THẾ KỶ XX:
TÂM MINH - LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969)
TÂM MINH - LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969)
- MỘT ĐỜI ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
- CÓ CÔNG TRONG VIỆC ĐÀO TẠO TĂNG TÀI, CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
- CÓ CÔNG TRONG VIỆC ĐÀO TẠO TĂNG TÀI, CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
- SÁNG LẬP GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
Như lời tự thuật của Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa, chính vì qua 1 lần gặp gỡ Bác Sĩ Lê Đình Thám, mà Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa đã phát khởi "hoài bão" để rồi Hòa Thượng đã
tạo dựng 12 nấc thang Giáo Lý được gọi là Phật Học Phổ Thông để thiết lập một
hệ thống giáo lý căn bản, vững vàng trong việc đào tạo những Tăng Ni Việt Nam
có khả năng hoàng dương Chánh Pháp và giáo hóa chúng sinh sâu rộng.
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nước nhà, tại miền Trung, vào những năm của thập kỷ 1930, bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám là người đã cống hiến nhiều công lao xuất sắc, đưa Phật giáo miền Trung phát triển vững chắc và sâu rộng.
Trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nước nhà, tại miền Trung, vào những năm của thập kỷ 1930, bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám là người đã cống hiến nhiều công lao xuất sắc, đưa Phật giáo miền Trung phát triển vững chắc và sâu rộng.
- Mùa Đông năm 1946, bác sĩ về quê ở Quảng Nam tham gia
kháng chiến chống Pháp.
- Năm 1947, bác sĩ Thám giữ chức Chủ tịch
Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung bộ tại Liên khu V.
- Mùa hè năm 1949, bác sĩ được mời ra Bắc
và được đề bạt giữ chức Chủ tịch Phong trào Vận động Hòa bình Thế giới của Việt
Nam .
MỞ
CÁC TRƯỜNG PHẬT HỌC
- Năm 1933, mở trường An Nam Phật Học tại chùa
Vạn Phước
- Năm 1935, mở trường Sơn Môn Phật Học
Từ năm 1934-1945 là những năm hoàn chỉnh
các tổ chức của Phật giáo và hệ thống đào tạo Tăng tài, các lớp Phật học cho
thanh niên. Kết quả mà ông đã đóng góp được trong những năm tháng ấy, vẫn mãi
mãi được ghi nhớ: Một thế hệ Tăng sĩ tài ba đã nở rộ, làm nền tảng tuyên truyền
phát huy chánh pháp, đoàn kết Tăng Ni và Phật tử, bảo vệ Phật giáo trước những
khó khăn lúc bấy giờ.
Trong những năm ở Bắc, ngoài ngày giờ làm
việc cho Nhà nước, ông đến chùa Quán Sứ để dịch kinh và giảng kinh, hướng dẫn
việc tu học giúp nhà chùa. Kết quả của những năm tháng dày công quả vì đạo pháp
và dân tộc ấy còn được thể hiện qua các kinh sách uyên thâm như:
1. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
2. Luận Nhơn Minh
3. Đại Thừa Khởi Tín Luận
4. Bát Thúc Qui Củ tụng.
5. Phật Học thường thức.
6. Bát Nhã Tâm Kinh.
7. Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Phật Tổ
Thích Ca.
8. Tâm Minh - Lê Đình Thám tuyển tập (gồm 5
tập).
Trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo giữa
thế kỷ XX, Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám quả là bậc tiền bối hữu công thật sáng
chói, ông đã vượt qua ranh giới hình thức để tựu thành đạo nghiệp cao quí cho
hàng hậu tấn ngưỡng vọng dù xuất gia hay tại gia.
(Thư Viện Hoa Sen)
Thập niên 1920, tuy PGVN đang suy thoái, vẫn có những
lương đống âm thầm đào tạo Tăng tài, bởi Phật giáo thịnh thì dân tộc thịnh, đạo
Phật suy thì đất nước suy, chính vì sự liên đới hữu cơ, một số cao Tăng thạc
đức đã đứng ra xiển dương chấn hưng Phật giáo như:
Miền Nam có : HT Từ Phong đạo tràng Giác Hải, HT
Khánh Hòa, HT Chí Thành, HT Huệ Quang, HT Khánh Anh, HT Tâm Thông, HT Hoằng
Nghĩa, sư Thiện Chiếu...
Miền Trung có: HT Tuệ Pháp, HT Thanh Thái, HT Đắc
Ân, HT Tâm Tịnh, HT Phước Huệ...
Miền Bắc có: HT Thanh Hanh, HT Phổ Tuệ...
Chủ xướng chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ được
khởi xướng ở Ấn Độ bởi cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất
gia thành đại đức Dharmapala. Công việc đầu tiên của ông là vận động trùng tu
lại những Phật tích quan trọng ở Ấn Độ, và tiếp theo là lập hội Mahabodhi
Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung tâm Phật học và tu viện
Phật giáo. Nhờ có sự khuyến khích của thi sĩ Edwin Arnold người Anh, tác giả
The Light Of Asia, và đại tá Henry Steel Olcott, người Hoa Kỳ, Dharmapala đã
đạt tới những thành công lớn, nhờ sự có mặt của bác sĩ Ambedkar, hàng triệu
người Ấn thuộc giai cấp hạ tiện (intouchables) tại Ấn Độ đã quy y theo Phật
giáo, tại Nagpur ngày 14.10.1956, năm trăm ngàn người đã làm lễ quy y trong một
lần. (VNPGSL)
Từ chất xúc tác nầy chư tôn đức Việt Nam mạnh dạn
bắt tay công cuộc chấn hưng Phật giáo mạnh mẽ, trong đó có sự tiếp tay của các
cư sĩ nổi tiếng như bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, và hoằng pháp có Thiều
Chửu, Đoàn Trung Còn... Mạnh nhất là miền Trung, nơi đào tạo nhiều danh Tăng
cao đức đã chống chọi lại chính sách triệt tiêu Phật giáo của Ngô triều.
Sự xuất
hiện các tôn giáo nội sinh thuần Việt
Trước khi có cuộc canh tân Phật giáo trong nước và
các nước Phật giáo trên thế giới, tại miền Nam Việt Nam, thế kỷ XIX cũng đã
xuất hiện một số nhân sĩ trí thức yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu trinh;
tuy nhiên cũng có những bậc yêu nước lẫn mộ đạo, dùng hình thức tâm linh để
thực hiện lòng vì dân vì nước như Cao Đài, Hòa Hảo mà trước đó đã xuất hiện một
hiền nhân Thánh đức được quần chúng tôn xưng: "Phật thầy".
Đoàn Minh Huyên (14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9
năm 1856), còn có tên là Đoàn Văn Huyên, đạo hiệu: Giác Linh, được tín đồ gọi
tôn kính là Phật Thầy Tây An. Ngoài vai trò là người sáng lập giáo phái (Bửu
Sơn Kỳ Hương) bản địa đầu tiên ở An Giang, ông còn là một nhà yêu nước, nhà
dinh điền đã có công khai hoang nhiều vùng đất ở Nam Bộ (Việt Nam).
Thân thế và
hành trạng:
Đoàn Minh Huyên là người ở Tòng Sơn, thuộc Cái Tàu
Thượng, tổng An Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp
Vò, tỉnh Đồng Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ mất mùa và đại dịch
(kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ đau và chết
chóc. Trong hoàn cảnh ấy, Ông từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi đến vùng Kiến Thạnh
(xưa thuộc làng Long Kiến; nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang), cư ngụ ở cốc ông đạo Kiến, trổ tài trị bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị
bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều bệnh nhân và người thân của họ nghe
theo những điều dạy khuyên của Ông.
Thấy người tin theo ngày một đông, nên ngay năm ấy
(1849), Ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, với tôn chỉ và phương pháp
hành đạo rất đơn giản.
Nghe ông chữa bệnh bằng nước cúng (nước lã), bông
cúng,... đồng thời rao giảng đạo, quan tỉnh An Giang nghi ngờ ông là gian đạo
sĩ, hoạt động chính trị nên bắt giam, nhưng xét không có bằng chứng phải thả tự
do cho ông. Song ông buộc phải quy y theo đạo phật (phái Lâm Tế) và tu tại chùa
Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc). Từ đó, ông được người dân tin tưởng gọi
tôn kính là Phật Thầy Tây An.
Mặc dù bị chỉ định cư trú, song ông vẫn thường đi
lại khắp miền sông Hậu, phổ biến giáo lý Tứ Ân, đồng thời vận động dân nghèo
khai hoang, dần hình thành 4 trung tâm dinh điền lớn, đó là Đồng Tháp Mười
(Đồng Tháp), Thới Sơn (Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều thuộc Châu Phú)...
Phật Thầy Tây An viên tịch ngày 10 tháng 9 năm
1856, lúc 49 tuổi. Hiện mộ ông ở phía sau chùa Tây An (Châu Đốc), không đấp nấm
theo lời căn dặn của ông.
Tương truyền, Phật Thầy Tây An có viết mấy quyển
kinh, kệ sau đây:
• Chuẩn
đề chú
• Thái
dương kinh
• Khai
kinh kệ
• Thái
âm kinh
Ông có nhiều đệ tử giỏi, như Đức Cố Quản (Trần Văn
Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến), Đạo Lập (Phạm
Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng) v.v...
• Đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương
Theo truyền thuyết của giáo phái này, thì Bửu Sơn
(núi báu) là Thất Sơn, mà linh thiêng nhất là núi Cấm. Kỳ hương tức là mùi
hương lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ được Phật Di-lặc thành lập ở đó để
đón nhận những ai biết tu hiền.
Trước thực trạng nghèo đói và bệnh tật triền miên,
nghe nói hội Long Hoa giống như cõi Tiên tại thế, mà việc hành đạo lại rất dễ,
nên người tin theo ngày càng đông.
Người đến quy y sẽ được Đoàn Minh Huyên cấp cho
một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ “Bửu Sơn kỳ
Hương” màu son), được truyền dạy giáo lý "học Phật- tu Nhân", tức là
noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết
"Tứ ân (ơn)", đó là: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo và Ân
đồng bào nhân loại. (Kiwipedia)
Về việc hành đạo, tuy lấy đạo Phật làm gốc, nhưng
tín đồ không cần thờ tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ cần thờ tấm trần
điều màu đỏ), không cần phải ly gia cắt ái, không cần ăn chay, cạo râu tóc, gõ
mõ tụng kinh,... và không cần phải dâng cúng những lễ vật tốn kém (bông hoa,
nước lã là đủ).
Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam cho rằng
đây là lối tu theo thuyết “vô vi”, tức là không chú trọng đến hình thức, không
dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác.
Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu
ảnh hưởng sâu sắc các yếu lý trên.
Tương truyền, theo ông cư sĩ cư sĩ Spô-Liêu, viết trong cuốn "Thân
thế Phật thầy Tây An" dựa vào
truyện thơ Kim cổ kỳ quan của ông Nguyễn Văn Thới (1866-1926). Theo đó, Phật
thầy có tên thật là Nguyễn Quang Mục, con của vua Quang Trung và Ngọc Hân công
chúa (con vua Lê Hiển Tông), Phật thầy lấy họ Đoàn để tránh sự truy sát của
Nguyễn Ánh. Nhưng Ngọc Hân có hai người con với vua Quang Trung là: hoàng
tử Nguyễn Quang Đức và công chúa là
Nguyễn Thị Ngọc Bảo, đã bị triều đình nhà Nguyễn sát hại. Như thế không có ai
tên Nguyễn Quang Mục. Và cũng tương truyền, sở dĩ Phật Thầy lấy tấm vải Trần
điều làm biểu tượng tôn thờ vì cũng là cờ đào khởi nghĩa của Nguyễn Huệ đại phá
quân Thanh năm 1789 (kỷ Dậu). Ca dao miền Tây Nam bộ có câu: "chiều chiều
lại nhớ chiều chiều, nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai"... cho là của
bà Ngọc Hân Công chúa nhớ chồng, bà luôn mặc áo trắng vắt khăn màu đỏ trên vai
mỗi khi chiều về hướng đến chân trời xa xăm;và cũng từ đó, người ta tin rằng mộ
của Ngọc Hân mai Táng tại Cái Nai, xã Hội An, huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang,
miền Tây Nam bộ, nhưng theo sử liệu qua Wikipedia thì: Theo "Biệt
lục" của tộc phả Nguyễn Đình, năm 1804, bà Nguyễn Thị Huyền vì thương con
gái và hai cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, nên đã thuê người vào Phú Xuân lấy
hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà). Ngày 16
tháng 7 năm 1804, bà cho an táng hài cốt bà Ngọc Hân, phụ chôn hoàng tử ở bên
trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là bãi Cây Đại hay bãi Đầu Voi ở đầu
làng Nành, xã Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
GS. Chu Quang Trứ dẫn theo Đại Nam thực lục cũng
nói về việc này:
"Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là
Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù
Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất
dấu tích".
Gần 50 năm sau, dưới thời Thiệu Trị, miếu bị đổ
nát. Một ông tú người làng Nành nhớ công lao của Chiêu nghi họ Nguyễn đối với
dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có viên phó tổng cùng làng
có thù riêng với ông tú, đã lên quan tố giác về việc thờ "ngụy Huệ".
Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu, quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt
xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai cũng bị
giáng chức.
Thế thì khu đền mộ Phật Mẫu (mẹ Phật Thầy Tây An)
hiện mai táng ở Cái Nai (xã Hội An, huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang) thực hư thế
nào???.
Cho dù Phật Thầy Tây An có là con của vua Quang
Trung hay không, cũng chẳng quan trọng bằng tấm lòng vì dân vì nước trước cảnh
nước mất nhà tan, điêu linh thống khổ của dân tộc, Ngài phương tiện trị
bệnh thời khí cho dân để khuyến tu
"tứ trọng ân" mà ân đất nước đứng hàng thứ nhì, và chỉ học Phật tu
nhân làm tròn nhiệm vụ của con dân đối với quốc gia xã tắc. Ngài là nhà
yêu nước mộ đạo. Chính vì tinh thần yêu
nước thương dân của Ngài, các đệ tử đã tiếp nối truyền thống yêu nước chống
giặc ngoại xâm đô hộ dân tộc lúc bấy giờ. Ngài có Thập nhị hiền thủ tiếp nối tinh
thần phục quốc hộ đạo và 5 thế hệ kế thừa hoằng truyền Phật pháp rất xuất sắc.
Đức Phật Thầy chủ trương nông điền để tự cung tự cấp cho việc tu tập và hộ
quốc, đồng thời giữ vững biên ải miền Tây Nam bộ. Mặc dù đức Phật Thầy không
trực tiếp tham chính cho những hoạt động chống Pháp, nhưng tư tưởng yêu nước
chống ngoại xâm của Ngài truyền đạt qua thập nhị hiền thủ tài giỏi cũng như ảnh
hưởng đến năm thế hệ chuyển kiếp về sau vẫn không đi sai con đường ái quốc, hộ
quốc, hưng Đạo. Những thế hệ kế thừa lòng ái quốc và chấn hưng đạo đức phật
giáo của đức Phật Thầy Tây An qua hình thức dân gian:
1/ ÐỨC PHẬT
TRÙM (1868-1875)
Lịch sử của Ngài không rõ ràng, Ngài gốc là một
người Miên, sống tại vùng Tri-Tôn (cũng gọi là Xà Tón) tỉnh Châu Ðốc. Chết vì
bịnh thời khí, nhưng ông bỗng sống lại rồi từ đó không nói tiếng Miên nữa mà
chỉ nói tiếng Việt. Cũng từ đó ông ra tay cứu bịnh, và truyền đạo khuyến tu,
theo như giáo lý của Ðức Phật Thầy Tây An. Sự việc này được xác nhận: Ðức Phật
Trùm cũng phát lòng phái Bửu Sơn Kỳ Hương, cho nên dân chúng tin rằng ngài
chính là Phật Thầy Tây An chuyển kiếp để tiếp tục độ dân. Pháp nghi Ngài mượn
Đạo để quy tụ nhân dân chống Pháp nên
bắt giam một thời gian. Nên biết thời kỳ này là lúc quân Pháp đã chiếm Nam kỳ
lục tỉnh, các phong trào Cần Vương kháng Pháp do những anh hùng ái quốc là
Nguyễn Trung Trực, Trương Công Ðịnh, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Trần Văn
Thành phất cờ khởi nghĩa ở miền Ðông và miền Tây. Vì trong số lãnh tụ Cần Vương
có hai vị là Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành có liên hệ đến Bửu Sơn Kỳ Hương,
cho nên Pháp truy nã các tín đồ của tôn giáo này, và thi hành chánh sách khủng
bố nghiệt ngã khi gặp tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương.
(PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC).
2/ ĐỨC BỔN
SƯ (1870-1890)
Thời kỳ này gọi là thời kỳ củng cố, là vì trong
những năm đầu quân Pháp chiếm đóng miền Nam, họ đã đánh phá tan tành các cơ sở
kháng chiến và trại ruộng, trung tâm hành đạo của Bửu Sơn Kỳ Hương, làm cho tín
đồ xiêu tán đi khắp nơi. Ðức Bổn Sư làm công việc quy tụ tín đồ trở lại, mà
điển hình nhứt là việc lập làng An Ðịnh, gần dãy Thất Sơn, đồng thời củng cố
hàng ngũ kháng chiến chống Pháp.
Tên thật là Ngô Lợi (có chỗ còn ghi thêm một tên
nữa là Ngô Viên), cũng có tên khác là Hữu, con thứ năm trong gia đình, nên được
kêu là Năm Hữu. Sau lại có thêm danh hiệu Năm Thiếp, bởi hay đi thiếp (nằm như
chết một thời gian để linh hồn tiêu diêu ở một cơi khác). Về sinh quán, có tài
liệu nói tại một làng ở biên giới Việt Miên, có tài liệu nói tại làng Trà Tân
(Mỹ Tho).
Theo tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương, thì Ðức Bổn Sư
cũng tự nhiên ngộ đạo, không học mà thông, trị bịnh bằng mầu nhiệm, chỉ dùng
nước lạnh, giấy vàng như Phật Thầy Tây An, để trấn áp bịnh dịch tả, mà không
cần dược liệu. (Ghi chú: dịch tả thường rất hay xảy ra trong thời kỳ này, có lẽ
vì điều kiện vệ sinh quá yếu kém).
Về công cuộc kháng Pháp, cũng theo tài liệu Bửu
Sơn Kỳ Hương, Ðức Bổn Sư có đến vùng Láng Linh, tức chiến khu Bảy Thưa của lãnh
tụ Cố Quản Trần Văn Thành, và hay giả dạng làm đàn bà để che mặt mật thám Pháp,
mà dễ dàng đi đó đi đây. Ðức Bổn Sư tổ chức lập làng An Ðịnh quy tụ tín đồ Bửu
Sơn Kỳ Hương tại đây để canh tác nông nghiệp, đồng thời kháng chiến. (Khi Pháp
tàn phá làng An Ðịnh vào năm 1990, tại đây có 1990 người sống tại làng).
Tại làng An Ðịnh, Ðức Bổn Sư có lập chùa gọi là
Chùa Lớn, chia làm hai ngôi nhỏ, phía trước đặt tên là An Ðịnh Miếu, thờ các vị
Công thần của đất nước, phía sau đặt là chùa Phi Lai thờ Phật, với tấm trần
điều theo nghi thức Bửu Sơn Kỳ Hương.
Tài liệu Bửu Sơn Kỳ Hương nói danh hiệu Ðức Bổn Sư
chánh thức xuất hiện năm 1870, nhưng theo kinh Hiếu nghĩa, thì đến ngày 28
tháng 4 năm Kỷ Mão (1879), Ðức Bổn Sư mới thọ ký, nghĩa là mới chánh thức trở
thành vị giáo chủ kế truyền sau Ðức Phật Trùm với danh nghĩa "Tứ Ân Hiếu
Nghĩa".
Nguồn tài liệu về nhân vật Ngô Lợi tức Ðức Bổn Sư
được kiểm chứng, và khá dồi dào, là những bản báo cáo của Pháp về những hành vi
của nhân vật này. Qua các tài liệu của Pháp, ta thấy Ðức Bổn Sư Ngô Lợi đã thể
hiện tích cực tinh thần giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương, cụ thể và điển hình là việc
lập làng An Ðịnh ở chân dãy Thất Sơn, quy tụ nông dân làm ruộng rẫy, tu hành và
kháng Pháp. Tại làng này, có đền thờ các vị anh hùng dân tộc bên cạnh chùa thờ
Phật, và toàn dân làng An Ðịnh là kháng chiến quân, làng này như một chiến khu,
giống như chiến khu Bảy Thưa Láng Linh của cố Quản Trần Văn Thành, vị đại đệ tử
số một của Phật Thầy. (PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
Nhưng khách quan mà xét, về mặt đạo, Ngô Lợi động
viên được tín đồ cùng nhân dân phát huy tinh thần yêu nước. Về mặt đời, ông
cùng với Khả và Ong khởi nghĩa ở Cai Lậy năm 1878, qui tụ được những người từng
tham gia kháng Pháp, từ những phong trào như của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy
dương, Nguyễn Hữu Huân thiết lập được mối quan hệ với phong trào kháng Pháp của
ông hoàng Si-Vatha ở các tỉnh phía Nam nước Campuchia và những người dân tộc
Khmer vùng Bảy Núi (Thất Sơn).
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
3/ SƯ VÃI
BÁN KHOAI (1901-1902)
Danh hiệu Sư Vãi Bán Khoai phát xuất từ dân chúng
mà ra, bởi vì trong lúc đi truyền đạo, ông Ðạo này (dân chúng cũng gọi là ông
Sư) thường giả làm người bán khoai, và thường đem theo khăn áo bằng vải mà tặng
cho người nghèo khó rách rưới. Cũng có lập luận rằng tác người ông nhỏ nhắn như
phụ nữ, lại mang cái yếm trước ngực, trông giống như một cô vãi. Tuy nhiên lập
luận này không vững như lập luận trên.
Tục danh là Mỹ, họ chi không rõ, lai lịch và quê
quán cũng không ai biết. Sau khi Ðức Bổn Sư Ngô Lợi tịch diệt độ mười một năm,
ông Sư Vãi Bán Khoai ra đời, xuất hiện vào năm 1901-1902, cũng là lúc Pháp đang
theo dõi bắt bớ tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương.
Trong những năm sau khi Ðức Bổn Sư viên tịch, Bửu
Sơn Kỳ Hương phải thu hẹp hoạt động để tránh né sự khủng bố của người Pháp. Ðể
tránh bị theo dõi. Ðức Bổn Sư cho sửa đổi cách thờ phượng, cho giống như nghi
thức nhà Thiền. Với sự xuất hiện của ông Sư Vãi Bán Khoai, Bửu Sơn Kỳ Hương
chuyển sang thời kỳ phổ biến nặng về truyền đạo, nhẹ về kháng Pháp. Ðây là
phương lược mới của Bửu Sơn Kỳ Hương để thoát sự kềm tỏa ngăn chận của thực dân
Pháp.
Sư Vãi Bán Khoai mở một kỷ nguyên mới về hình thức
truyền giáo. Ông giả dạng, nay là người bán khoai, mai là người bán củi, rồi
cũng xưng hiệu điên khùng, đi khắp chợ này làng nọ, nhiều nhứt trong vùng kinh
Vĩnh Tế, biên giới Cao Miên. Chủ đề của ông truyền bá là khuyên dân tu hành,
làm lành và niệm Phật.
Không bao lâu, dân chúng vùng Châu Ðốc đều nghe
nói đến ông, truyền bá kinh giảng của ông, và hiểu được rằng ông là một vị kế
truyền của Tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông Sư Vãi Bán Khoai không phát lòng
phái, cũng không lập chùa chiền, chỉ rao truyền cuốn Sấm Giảng Người Ðời gồm
mười một thiên. Dân chúng nghe qua cuốn Sấm Giảng này, đều hiểu rằng ông là một
bực tiên giác của Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời phổ hóa giáo lý của Ðức Phật Thầy Tây
An. Nên biết rằng hầu hết các gia đình người Việt ở vùng này trước kia đều có
ông cha đã từng theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và vẫn giữ truyền thống này. Cho nên
khi thấy Sư Vãi Bán Khoai truyền bá tư tưởng Sấm Giảng Người Ðời, họ cảm nhận
ngay được truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương trong đó.
Dân chúng đồn rằng ông có nhiều pháp thuật và võ
nghệ. Ông dùng đầu ngón tay cái như cái mõ, mỗi khi niệm kinh, lấy cây gậy gõ
trên đầu ngón tay cái mà phát ra tiếng kêu lóc cóc y như tiếng mõ của sư sãi
trong chùa. Lúc ở Vĩnh Thông, ông thường đi nhổ bàng để dệt đệm. Một hôm, ông
đang cầm mác đi phát bàng, bỗng nghe tiếng cọp gầm và tiếng người la cầu cứu
gần đó. Ông cầm mác chạy tới, thấy người cùng xóm tên Mạnh đang vật lộn với một
con cọp trong một thế võ lạ kỳ. Ông Mạnh nằm dưới bị cọp vồ lên, nhưng hai tay
ông nắm chặt chân trước cọp và lấy đầu đội bụng cọp lên. Cọp rất mạnh và nặng,
ông không quật nó được, cứ giằng co trong cái thế nguy hiểm đó. Ông Sư Vãi Bán
Khoai cầm mác vươn mình nhảy tới chém một nhát thật mạnh trên lưng cọp, khiến
thân mình cọp bị xẻ ra chết tại chỗ.
Nội dung Sấm Giảng Người Ðời của ông cũng hàm chứa
một cách kín đáo tư tưởng Ðạo và Yêu nước, thí dụ như những câu sau đây:
Niệm Phật
thì phải chí tình, Ơn cha nghĩa mẹ giữ mình cân phân. Niệm Phật phải giữ Tứ Ân,
Ơn nhà nợ nước xử phân trọn ghi.
Hay là:
Thảo cha
ngay chúa xưa nay, Dầu mà có thác miễu son tạc thờ. Xem trong các truyện các
thơ, Nịnh thần có thác, miễu thờ ở đâu!
Tác phẩm này của ông được dân chúng Hậu Giang
truyền tụng và lưu giữ như báu vật. Trong đó ngoài phần giảng đạo, còn có nhiều
điều tiên tri về tương lai, có chỗ nói rõ cả ngày tháng sự việc quan trọng sẽ
xảy ra. Thí dụ những câu sau đây trong cuốn thứ tám Sấm Giảng Người Ðời:
Mây Trời mở
hội đăng khoa, Mười ba tháng chín Trời ra một điềm. Trời chiều mây gió lặng êm,
Giờ Thân Trời mới nổi lên rõ ràng...
Sau này đúng vào ngày 13 tháng 9 âm lịch (1985),
có xảy ra vụ nổ lớn trong dãy Thất Sơn, lần này tại núi Cấm nước trào như suối
thác từ ngọn núi tuôn ra, làm cho dân chúng đồn đãi và gây đợt sóng chấn động khắp
miền Nam, hàng vạn người kéo về Thất Sơn để xem tận mắt một cảnh tượng thể hiện
lời tiên tri trong sấm truyền của Sư Vãi Bán Khoai, mà họ cho là một triệu
chứng báo hiệu những thay đổi sắp xảy ra: một cuộc đổi đời.
Ðặc biệt trong Sấm Giảng Người Ðời, ông Sư Vãi Bán
Khoai nói rất nhiều về thuyết Tam Ngươn, một lập thuyết về vũ trụ quan và nhân
sinh quan Bửu Sơn Kỳ Hương. Lập thuyết này cho rằng vũ trụ xoay vần theo lý tam
ngươn, từ Thượng Ngươn chuyển qua Trung Ngươn và Hạ Ngươn. Rồi khi Hạ Ngươn
mãn, lại bắt đầu chu kỳ mới với đời Thượng Ngươn. Cũng theo thuyết đó, thì hiện
nay nhân loại đang sống thời kỳ cuối cùng của Hạ Ngươn, và một cuộc đổi đời sắp
xảy ra.(PHẬT GIÁO HÒA HẢO
TRONG DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
4/ ÔNG CỬ NGUYỄN ÐA (CUỐI THẾ KỶ 19)
Ông là một nhân vật đặc biệt, không phát xuất từ
địa phương Hậu Giang, mà từ miền Trung đến đây. Lại là một nhà khoa bảng.
Tên thật là Nguyễn Ða, đã thi đỗ cử nhân khoa võ,
nên được kêu là ông Cử Ða. Lúc mới đến Thất Sơn, nhiều người nghe tiếng nói của
ông phát giọng miền Trung, cho nên cũng gọi ông là ông Thầy Huế. Quê ông là
làng Phù Cát (có chỗ chép là Phù Lạc), huyện Bình
Khê, tỉnh Qui Nhơn, nơi đã sản xuất ra vị anh hùng Nguyễn Huệ Quang Trung.
Ông vào vùng Thất Sơn giữa thời kỳ lãnh tụ Nguyễn
Trung Trực vừa thất bại ở miền Ðông, lui quân về Kiên Giang ẩn náu, vào khoảng
năm 1867-68. Lúc ấy người ta phỏng định ông vào khoảng 40 tuổi. Theo Việt sử và
các sách nói về binh chế Việt Nam, thì thời gian trước ngày ông Cử Ða vào Nam,
có các khoa thi võ vào những năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) và Tự Ðức thứ 18
(1865). Có lẽ ông đã thi đậu võ cử vào thời Thiệu Trị. Ông bỏ miền Trung vào
Nam để tìm cách phát triển phong trào kháng Pháp, vì lúc đó trong Nam có nhiều
tổ chức kháng chiến. Có lẽ ông có kiến thức về sự liên kết kháng chiến toàn
quốc để chống Pháp cho hữu hiệu, cho nên mới vào Nam. Nhưng lúc đó lại là lúc
các phong trào kháng chiến đang gặp khó khăn, cho nên ông lưu lạc giang hồ đến
Thất Sơn. Có những vần thơ của ông viết lúc đó, còn lưu truyền lại:
Lòng ta luống những ưu phiền, Một mình trực tiết
không miền gió trăng. Trong mình cũng biết võ văn, Trải chơi thế cuộc tiếng văn
giang hà. Và những câu:
Anh hùng nghĩa khí trung cang, Trai ở thủy trạch
Lãnh trang ít người. Tang bồng hồ thỉ đời đời...
Tình thế miền Nam lúc đó vô cùng nguy ngập rối
ren. Sau khi cụ Phan Thanh Giản bị ép phải trao ba tỉnh miền Tây cho Pháp rồi
tử tiết, Nguyễn Hữu Huân bị bắt đi đày, Trương Công Ðịnh bị Pháp giết, Nguyễn
Trung Trực ẩn náu ở miền Tây. Trước tình thế ấy, ông Cử Ða tan nát cõi lòng,
tìm về Thất Sơn ẩn dật hay là tìm về các trại ruộng của Bửu Sơn Kỳ Hương, chờ
ngày có cơ hội giúp nước. Vì vậy, dấu chân ông đi khắp các ngọn núi trong vùng
Thất Sơn. Rốt cuộc, ông chọn con đường tu hành như một người trong Tông phái
Bửu Sơn Kỳ Hương.
Nhưng quân Pháp cũng phát giác được tung tích của
ông, và kéo lính từ đồn Cây Mít đến bao vây. Ông sợ lụy đến dân chúng trong
vùng, nên từ giã đệ tử mà rời khỏi Thất Sơn, qua Hà Tiên, rồi lên núi Tà Lơn
(Cao Miên). Tại đây ông trở thành một người thoát tục, và viết rằng:
Hắc y đổi
lại cà sa, Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc Thanh.
Ông Cử Ða có nhiều đệ tử tại núi Tà Lơn, lâu lâu
ông cũng trở về Thất Sơn thăm lại các đệ tử cũ. Sau đó, ông biệt tích, không ai biết ông về đâu nữa.
Hiện tại vùng Kampot, dưới chân núi Tà Lơn có miếu thờ Ông Cử Ða. (Ghi chú: Tà
Lơn: dãy núi có tên là Chaine des Eléphants bắt đầu từ Kampot lên dãy
Cardamomes Tây Bắc Cao Miên). (PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRONG
DÒNG LỊCH SỬ DÂN TỘC)
5/ ĐỨC HUỲNH PHÚ SỔ (1920-1947)
Trong 5 thế hệ truyền thừa tinh thần "học Phật tu
nhân" và "Tứ ân hiếu nghĩa", Đức Huỳnh giáo chủ là người xuất
sắc nhất, nổi bậc nhất, trẻ nhất và thành đạt lâu dài nhất, có tầm ảnh hưởng
sâu rộng trong quần chúng miền Tây Nam bộ cho đến ngày nay. Ngài nói:
"Tôi tin chắc rằng giáo lý giải thoát chúng sanh
(của đức Phật Thích Ca) chẳng những được truyền bá ở Thiền Lâm, mà còn phải
được thực hiện trên trường chánh trị". Ngài giải thích thêm:"Theo như
sự nhận xét của tôi về giáo lý nhà Phật do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã khai sáng,
lấy chủ nghĩa từ bi bác đại đồng đối với tất cả chúng sanh làm nồng cốt, thì
tôi nhận Ngài là một nhà cách mạng triệt để về tư tưởng, vì những câu
"Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh" và "Phật cùng đồng
nhất thể bình đẳng với chúng sanh". Đã có những sự bình đẳng về thể tánh
như thế mà chúng sanh còn không bằng được Phật là do nơi trình độ giác ngộ của
họ không đồng đều, chớ không phải họ không thể tiến hóa ngang hàng với Chư Phật
được. Nếu trong cõi nhân gian này còn có chúng sanh tiền tiến áp bức những
chúng sanh lạc hậu thì là một việc trái hẳn với giáo lý chơn chánh ấy. Giáo lý
do đức Thích Ca Mâu Ni Phật không áp dụng được một cách thiết thực trong đời
của Ngài, là do hoàn cảnh xã hội của Ấn độ xưa không thuận tiện. Ngày nay,
trình độ tiến hóa của nhơn loại đã tới một mức khả quan, đồng thời với sự tiến
bộ về khoa học, thì là có thể thực hành giáo lý ấy để thực hiện một xã hội công
bằng và nhơn đạo. Thế nên với tâm hồn bác ái, từ bi mà tôi đã hấp thụ, tôi sẽ
điều hòa với phương pháp tổ chức xã hội mới, để phụng sự một cách thiết thực
đồng bào và nhơn loại" (Báo Nam Kỳ, ngày 29.11.1946, Sấm Giảng Thi Văn
Toàn Bộ, t 481). Một câu nói ngắn gọn thể hiện được đức Bi-Trí-Dũng của Phật
giáo.
Đây là một nhận thức tích cực và thông thoáng của
Huỳnh giáo chủ đối với tư tưởng bình đẳng của Phật giáo. Nếu lý thuyết bình
đẳng được truyền giảng trong kinh điển thì thực tế trong cuộc sống, đức Huỳnh
giáo chủ đã tích cực thể hiện và thực hiện qua công cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm dưới các tổ chức chính trị, đảng phái lúc bấy giờ.
Cuộc đời thanh thiếu niên của
Huỳnh Phú Sổ.
Người sinh ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi, tức ngày 15/1
năm 1920, tại làng Hòa Hảo, gần Vàm Nao, quận Tân Châu, tỉnh Châu đốc, một tỉnh
miền Tây nằm sát bên nước Cao Miên và trên sông Cửu Long (Tiền Giang), trong
một gia đình nông dân, con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh
Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Lúc nhỏ Người thường bịnh hoạn, đau yếu, xanh xao,
chỉ đi học trường làng, và đã đậu bằng tiểu học tại Tân Châu, nhưng đến năm 15
tuổi phải nghỉ học vì lý do sức khỏe. Ngài được điều trị bởi nhiều thầy thuốc
và bằng nhiều cách nhưng bịnh tình càng ngày càng trầm trọng và theo đuổi suốt
quãng đời thiếu niên của Người. Mãi cho đến khi 18, 19 tuổi, bỗng nhiên Người
hết bịnh và trở thành một thanh niên mạnh khỏe, tuấn tú, da mặt hồng hào, tươi
sáng, tướng bộ chững chạc, trang nghiêm.
Dù mới chỉ học xong tiểu học và chưa từng nghiên cứu
Phật Học, Người bỗng nhiên có một kiến thức Phật Học uyên bác, và hơn thế nữa,
một khả năng "xuất khẩu thành thơ" biến những kiến thức Phật Học
thành những bài thơ giảng đạo đi sâu vào lòng quần chúng bình dân, ít học.
Ngoài ra Người làm thơ bằng chữ Nho một cách tinh thông, xuất sắc dù không học
chữ Nho. Không những thế, Người còn bỗng nhiên có tài chữa bịnh, kể cả những
bịnh nan y dù chưa từng học về y khoa. Ngày 18 tháng năm năm Kỷ Mão, tức ngày
4/7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ tuyên bố khai lập Phật Giáo Hòa Hảo, khi ấy Ngài chỉ
mới 19 tuổi (Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo thời đại).
Hoằng pháp
Cũng như đức Phật Thầy Tây An và các vị tiền hiền, Đức
Thầy Huỳnh giáo chủ dùng phương tiện trị bệnh và chỉ trị bệnh như một phương tiện thực hiện trong vài tháng
để đưa quần chúng vào đạo, vì thế mà trong thời gian ngắn, hàng triệu người
biến thành tín đồ của đạo Phật giáo Hòa Hảo. Nét đặc biệt trong việc truyền đạo
là Ngài không dùng từ chuyên môn cao siêu của nhà Phật, Ngài dùng những từ mà
nhân gian thường dùng, dễ hiểu. Vả lại, những kinh luật kệ cú chữ Hán, Ngài
dịch nghĩa bằng văn vần chữ nôm rất giản dị đầy súc tích, ví dụ:
Thùy miên thỉ ngộ
Đương nguyện chúng sanh
Nhất thiết tri giác
Châu cố thập phương.
Như tôi tỉnh giấc lúc bình
minh
Chí nguyện cầu cho cả chúng
sanh
Tâm trí khai thông cùng tỉnh
táo
10 phương đều rõ máy anh
linh.
Đại tiểu tiện thời
Đương nguyện chúng sanh
Khí tham sân si
Quyên trừ tội pháp.
Cũng như tôi tiểu tiện ra
Nguyện cầu sanh chúng tống ra
khỏi mình
Tham lam,
gây gổ, si tình
Khỏi điều
tội lỗi nhẹ mình cao bay.
Sự ngật tựu thủy
Đương nguyện chúng sanh
Xuất thế pháp trung
Tốc tật nhi vang.
Việc xong rồi đến tôi dùng
nước
Cũng như tôi lấy nước nầy ra
Nguyện chúng sanh xuất khỏi
ta bà
Nhờ đạo pháp lướt qua nhanh
chóng.
Tẩy dịch hình uế
Đương nguyện chúng sanh
Thanh tịnh điều nhu
Tất kiến vô tất.
Như tôi rửa sạch khỏi dơ mình
Chí nguyện cầu cho khỏi chúng
sanh
Đắc được thân tâm thanh tịnh
lạc
Điều hòa chẳng nhiễm nghiệp
mê linh.
Dĩ thủy quán tưởng
Đương nguyện chúng sanh
Đắc thanh tịnh thủ
Thọ trì Phật pháp .
Lấy nước tôi rửa sạch tay
Nguyện cầu sanh chúng được
tay thơm lành
Ngỏ hầu nắm pháp vô sanh
Giữ gìn lời Phật ban hành từ
xưa.
Năng lễ, sở lễ, tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như Đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Đầu diện tiếp túc quy mạng
Sự lạy Phật vốn không, yên
tĩnh
Đạo cảm giao khó tính khôn
bàn,
Nay tôi ở trong đạo
tràng
Cũng như kết chặt vào đoàn
ngọc châu
10 phương Phật hiện bầu hình
ảnh
Có bóng tôi cùng sánh các
Ngài
Từ chơn cho chí mặt mày.
Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy
y.
Hoặc là:
Phật quán nhất bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sanh nhục.
Phật thấy chén nước có
trùng
Bốn ngàn tám vạn muốn dùng
cho tinh
Nếu không trì chú niệm
kinh
Khác nào ăn thịt chúng sanh
hằng hà.
Qua 45 bài chú trong Tỳ Ni Nhật dụng của nhà Phật,
được Ngài dịch 25 bài rất thoát và dễ hiểu, chứng tỏ, Ngài muốn Việt hóa kinh
Phật, nhưng thời gian chưa đủ để Ngài tiếp tục Hoằng pháp lợi sinh và Việt hóa
kinh tạng bằng ngôn ngữ giản dị.
Về nghi lễ thờ phượng cũng rất đơn giản; không chú
trọng cốt tượng, không âm thanh sắc tướng nhiều, chỉ thờ tấm "trần
điều", vừa biểu tượng màu sắc tổng hợp, vừa là màu đất sét , quần áo nông
dân xa xưa, cũng là màu hoại sắc mà nhà Phật đề cập. Chỉ cúng bông hoa và nước
lã.
Giáo lý
PGHH không thuần túy là một tông phái Phật Giáo, dù
nền tảng là Phật Giáo nhưng có kết hợp tinh hoa Khổng Lão, tạo thành pháp môn
học Phật tu Nhân. Và nếu là một tông phái thì là tông phái canh tân rất sát
thực tế và giáo lý tổng hợp Tam giáo. Do đó, Tịnh Độ Tông cũng không là pháp
môn căn bản của PGHH, mặc dù cõi TỊNH ĐỘ là CỨU CÁNH tu hành của tín đồ PGHH.
Tiếp nối Phật giáo Tứ Ân, đạo Hòa Hảo chủ trương cải cách đạo Phật theo đúng
với đời sống thực tế của nông dân, không thiết lập giai cấp Tăng lữ, không tổ
chức giáo quyền, không tích lũy giáo sản, không chú trọng đến hình thức, không
làm chùa nguy nga, không tạc tượng, đúc chuông, không đốt vàng mã, khuyến khích
các nghi lễ giản dị trong việc thờ phụng, cưới xin, tang lễ.
Khuyến nông
Ngài có tài hùng biện, một ngày có thể diễn thuyết
khuyến nông nhiều nơi, không cần văn bản, đối đáp trôi chảy, đã thuyết phục
nhiều giới trí thức đương thời mà trong tập "Thất sơn mầu nhiệm" ông
Nguyễn văn Hầu viết:
"Với một giọng nói thanh tao, êm dịu, khi bỗng
lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu, khi giản dị, Ngài giảng giải cho
quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành. Ngài thuyết pháp không
ngưng, không vấp... Một nhà báo ở Sài Thành (ông Hiền Sĩ) nói về đức Huỳnh Giáo
Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài hùng biện và khoa ngôn ngữ của Ngài
bằng câu "thao thao bất tuyệt" và cho rằng Ngài "chiếm giải quán
quân về phương diện diễn thuyết". Nhà lãnh tụ nhóm "Tranh đấu"
là Tạ Thu Thâu chưa chắc có thể so sánh với đức Thầy về môn diễn thuyết và nói
trước công chúng được. Lại nữa, lời văn của đức Thầy còn có mãnh lực hấp dẫn
quần chúng một cách phi thường nên thính giả nhiều khi mũi lòng rơi lệ, liền
phát bồ đề tâm, quy y đầu Phật. Nhiều nho sĩ văn gia, nhiều trí thức tân học đỗ
cao (cử nhơn, tấn sĩ) đều bái phục đức Thầy vì tài ba, vì đức hạnh. Thật Ngài
là một bực thượng trí anh tài, một bực sinh nhi tri vậy".
Ngài diễn thuyết 107 địa điểm khác nhau để khuyến
nông, sản xuất lúa gạo cứu đói miền Bắc lúc bấy giờ đã chết trên hai triệu
người. Hịch khuyến nông của Ngài có tác động mạnh đến nông dân và các giới:
"Kẻ phu tá cũng là trọng
trách,
Cứu giống nòi quét sạch non
sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được
trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy sinh dầu thác cũng
cam."
Tham chính
Về tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, tạm gián
đoạn việc tu hành để làm tròn nghĩa vụ với đất nước với dân tộc, ngài nói:
"Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha,
Đền xong nợ nước thù nhà.
Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô".
# Lê Hiếu Liêm trong cuốn "Bồ Tát Huỳnh Phú
Sổ" đã viết:
Ông Việt Nam
còn hơn cả những người Việt Nam
nhất, ông là Phật Giáo hơn cả những người Phật Giáo nhất. ông là một đại Phật
Tử, đại thiền sư, đại Bồ Tát.
Qua ba câu thơ này, và qua cuộc đời ông, đã gói trọn,
một cách viên mã, đã kết tinh, một cách rực rỡ, đã hiển sinh, một cách chói
lọi, truyền thống yêu nước, truyền thống hành động của Dân Tộc Việt Nam và của
Phật Giáo Việt Nam.
Trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này, dù chỉ mới 25
tuổi, Huỳnh Phú Sổ đã thành lập hay tham gia, và đóng góp ở vai trò lãnh đạo
các tổ chức cách mạng yêu nước sau đây:
Năm 1945:
- Việt Nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội;
- Việt Nam Vận Động Độc Lập Hội;
- Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất;
- Đệ Tứ Sư Đoàn Dân Quân;
Năm 1946:
- Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (Chủ Tịch);
- Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (Lãnh tụ và linh hồn);
Năm 1947:
- Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Nam Bộ (Ủy Viên
Đặc Biệt);
- Mặt Trận Toàn Quốc.
Kêu gọi lòng ái quốc, đấu tranh cách mạng, kháng chiến
cứu quốc và cải tạo xã hội trong tinh thần Phật Giáo được nhấn mạnh trong thời
điểm từ năm 1943 đến năm 1947. Tuy nhiên ngay trong thời kỳ đầu mới khai đạo
những bài thơ kêu gọi lòng yêu nước, nghĩa đồng bào, đấu tranh chống Thực Dân
Pháp được viết một cách khéo léo, nửa thật nửa hư để khỏi bị Thực Dân khủng bố.
Đọc suốt toàn bộ tác phẩm của Ông, mọi người đều thấy
sáng ngời một giòng thơ nhất quán, bất khả phân ly, truyền đạo và yêu nước,
truyền bá Phật Pháp và cứu nguy đất nước, một giòng thơ liên tục, tuyệt vời
dựng đạo, cứu đời không thể tách rời nhau..
Để kết thúc tập "Bồ Tát Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo
thời đại"; Lê Hiếu Liêm viết: Huỳnh Phú Sổ Bất Tử!
Sự nghiệp của ông đã trở thành một phần tinh anh tuyệt
đẹp của sự nghiệp Phật Giáo và sự nghiệp Việt Nam .
Các tác phẩm của Huỳnh Phú Sổ
Dù chỉ xuất hiện trên đời 27 năm, Huỳnh Phú Sổ đã viết
rất nhiều, rất phong phú. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và tư tưởng
Phật học nói riêng, ít có tác giả nào đã để lại những tác phẩm đa dạng, về mọi
chủ đề và có tính cách đi trước thời đại như Huỳnh Phú Sổ. Ông để lại một số
tác phẩm quan trọng sau đây và những tác phẩm này là phần chính yếu, căn bản
của giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo:
* Sấm Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm, tức quyển nhứt,
912 câu, văn vần thể lục bát, viết năm 1939, khi 19 tuổi, tại làng Hòa Hảo.
* Kệ Dân Của Người Khùng, tức quyển nhì, 846 câu, văn
vần thể thất ngôn trường thiên, viết năm 1939, tại làng Hòa Hảo.
* Giác Mê Tâm Kệ, tức quyển tư, 846 câu, văn thất ngôn
trường thiên, viết tại làng Hòa Hảo ngày 20-10 năm Kỷ Mão.
* Khuyến Thiện, tức quyển năm, 756 câu, văn lục bát
đoạn đầu và đoạn cuối, đoạn giữa thể văn thất ngôn viết tại Chợ Quán năm 1941.
* Cách Tu Hiền Và Sự Ăn ở Của Một Người Bổn Đạo, tức
quyển sáu, thể văn xuôi, viết năm 1945 tại Sài Gòn.
Ngoài sáu tác phẩm trên, còn khoảng 200 bài thơ và một
số tác phẩm văn xuôi mà Huỳnh Phú Sổ đã viết từ năm 1939 đến năm 1947.
Ông còn dịch, một cách xuất sắc quyển Tăng Đồ Nhà Phật
bằng chữ Nho ra thành những thi kệ tiếng Việt. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên đã
sáng tác các thi kệ bằng chữ quốc ngữ. Ngoài ra Huỳnh Phú Sổ còn để lại nhiều
lời nói, câu chuyện do các nhân chứng kể lại.
Các tác phẩm này, rất độc đáo trong thế kỷ 20 vì hơn
8/10 là thơ có hai chủ điểm rõ rệt, thứ nhất là thuyết giảng Phật Pháp, khuyên
người đời tu hành, ăn hiền ở lành, tâm trí hướng thiện, sống và hành động trong
tinh thần từ bi cứu khổ độ sinh của Đức Phật. Các tác phẩm hướng về chủ điểm
này được viết trong thời gian từ năm 1939 đến năm 1942.
# Lý Khôi Việt nhận xét:
Chàng đã lội ngược dòng với thời thượng; để đi về núi
Cấm, núi Thất Sơn. Không đến những thủ đô của Đông phương và Tây phương, chàng
cũng không bắt chước những tư tưởng, ý hệ của thế giới, dù là Ấu hay Á. Những
ngôn ngữ của thời đại: dân quyền, duy tân, những chủ thuyết của thế kỷ: cộng
sản, tư bản, tam dân, quốc xã đối với chàng là những gì xa lạ và không cần
thiết. Vì chàng đã đi, đã đến, đã sống trọn vẹn trong truyền thống Việt Nam mà
tinh hoa cốt tủy là truyền thống Phật Trúc Lâm Yên Tử nhập thế đời Trần, và
truyền thống đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương bàng bạc khắp nhân gian miền Nam.
Không đến những thủ đô văn hóa chính trị của thế giới
mà chỉ về miền núi Cấm, núi Thất Sơn, thủ đô tâm linh của đất nước hiển linh.
Đó là một điều độc đáo. Không chạy theo những chủ thuyết, ý thức thời thượng mà
chỉ trở về và phục sinh truyền thống Trúc Lâm Yên Tử và Bửu Sơn Kỳ Hương, đó đã
là điều vi diệu. Và hơn thế nữa, chàng thanh niên 20 tuổi của chúng ta khác hẳn
những nhà trí thức và cách mạng đương thời chỉ hướng về tầng lớp thị dân và
tầng lớp Tây phương hóa. Chàng đã đi vào nông thôn và đi đến quảng đại quần
chúng nông dân, một tuyệt đại đa số quốc dân Việt Nam.Hy hữu, tuyệt vời hơn nữa
là chàng đã ra giảng cho nhân gian con đường tu thân và cứu nước không phải
bằng học thuyết, chủ nghĩa, bằng lý luận, sách vở, bằng truyền đơn hay súng đạn
mà bằng thơ lục bát, thể thơ mang đầy hồn dân tộc và dễ dàng đi vào muôn lòng
nhân gian.
Những nhận xét của giới trí
thức:
PHẬT GIÁO HÒA
HẢO
NĂM LÝ DO GIẢI
THÍCH SỰ PHÁT TRIỂN NGOẠN MỤC TỪ 1939 ĐẾN 1944, ĐƯA CON SỐ TÍN ĐỒ LÊN KHOẢNG 5
TRIỆU.
# GS. Minh Chi
Trước hết, quý vị có thể đặt câu hỏi: Con số 5 triệu
tín đồ xuất xứ ở đâu, có đáng tin cậy không?
Xin trả lời: Quý vị đặt nghi vấn là rất phải. Bởi lẽ
ngay các con số thống kê tín đồ các tôn giáo lớn trên thế giới, mặc dù in thành
sách trong các tự điển bách khoa tôn giáo, như cuốn “World Chrishan
Encyclopedia” (Tự điển bách khoa Kitô giáo thế giới) do Oxford xuất bản, hay
cuốn “Dictionaire des Religions” của Paul Poupart xuất bản (Pháp ngữ), cũng đều
bị các học giả đặt nghi vấn. Lý do dễ hiểu, niềm tin tôn giáo là chuyện sâu kín
trong lòng mỗi người, khó mà thống kê chính xác, chỉ có thể thống kê đại khái
với sai số hàng vạn, thậm chí hàng triệu.
Còn con số 5 triệu tín đồ Hòa Hảo, tôi trích trong
cuốn “Print and Power” (In ấn và quyền lực), của tác giả Shawn Frederick Mc
Hale, trường đại học Hawai xuất bản, trang 4. Hơn nữa trong con số 5 triệu,
phải kể cả số tín đồ của Bửu Sơn Kỳ Hương, đã từng đi theo Phật Thầy Tây An,
Đức Phật Trùm, ông Sư Sãi bán khoai v.v…
Nhưng phải đến khi Huỳnh Phú Sổ bắt đầu truyền đạo,
con số tín đồ mới tăng vọt.
Vào năm 1939, Huỳnh Phú Sổ lúc bấy giờ còn là một
thanh niên 19 tuổi, tự tuyên bố mình là giáo chủ; là phái viên của đức Phật ở
cõi đời này, kêu gọi mọi người sống thiện và tin theo tôn giáo của ông ta rao
truyền.
Tôn giáo mới do Huỳnh Phú Sổ thành lập, có tên Hòa
Hảo, phát triển rất nhanh. Đến năm 1944, đã có tới 5 triệu tín đồ. Nhưng sau
đó, trong một cuộc xung đột tình tiết không rõ, Huỳnh Phú Sổ lâm nạn. Tôi xin
phép không phân tích tình tiết của sự việc, chỉ ghi nhận Huỳnh Phú Sổ tỏ ra
không đồng tình với một vài hành động của các đệ tử mình làm, mà ông cho là
trái với chủ nghĩa từ bi, bác ái của nhà Phật.
Trong bài phát biểu ngắn gọn này, tôi chỉ nói lên điều
tâm đắc của tôi về “Sự thành công ngoạn mục của một phong trào tôn giáo – Đạo
Phật Hòa Hảo” do Huỳnh Phú Sổ khởi xướng, năm 1939, khi ông còn là một thanh
niên 19 tuổi, chỉ trong vòng không đầy 5 năm, tức năm 1944 đã đạt con số tín đồ
5 triệu. Tài liệu nước ngoài và trong nước đều nhất trí xung quanh con số 5
triệu tín đồ (Xem “Print and Power”, sđd).
Câu hỏi: “Nguyên do ở đâu?”. Câu hỏi đã nhận được
nhiều câu trả lời mà tôi xin phép khái quát lại như sau:
I. Khéo khai thác truyền thống kể chuyện miệng bằng thơ
ở Nam
Bộ:
Một lý do là đạo Hòa Hảo biết khai thác – có thể là
một cách tự nhiên, không cố ý – truyền thống kể chuyện miệng của đồng bằng Tây
Nam Bộ. Phải chăng, với một quần chúng đa số là nông dân ít học, lối truyền
giáo bằng thi ca, bằng vè là thích hợp nhất, bởi vì dễ nghe, dễ nhớ.
Tôi trích dẫn dưới đây một vài vần thơ do ông Huỳnh
Phú Sổ sáng tác và được lưu hành rộng rãi:
“Non sông rực rỡ chói ngời
Mãnh gương Phật đạo soi đời cổ kim”
“Theo đời gương phẩm Thích Ca
Dốc đem tâm chí tìm ra đạo mầu”
“Ta thừa vâng sắc lệnh Thế Tôn
Khắp hạ giới truyền khai đạo Pháp”
Người ta nói Huỳnh Phú Sổ ít học (chỉ đến bậc tiểu học
trở lại). Nhưng các bài sấm vè của ông dùng rất nhiều từ Hán Việt, từ Phật học,
chứng tỏ một trình độ Phật học cao, một sự vận dụng kho từ Hán Việt phong phú.
Đó lại một ẩn số nữa của Huỳnh Phú Sổ.
II. Đạo Hòa Hảo tuy về mặt giáo lý, chủ yếu dựa vào
đạo Phật, nhưng về mặt tổ chức lại chịu ảnh hưởng nhiều của phương Tây.
Thí dụ, Hòa Hảo thành lập Đảng chính trị, sử dụng
phương tiện in ấn để truyền đạo. Sử liệu Hoà Hảo cho biết, từ năm 1939 đến
1965, nhiều bài giảng của Huỳnh Phú Sổ tái bản hơn 200 lần, với tổng số bản in
là 800.000 bản.
Phải chăng đây là một lý do nữa giải thích sự thành
công nhanh chóng và ngoạn mục của đạo?
III. Mùi vị “Tận thế” (Apocalyptic) của giáo lý được
rao giảng:
Huỳnh Phú Sổ tuyên bố nhân loại đang ở trong thời kỳ
“Hạ ngươn” là kỷ nguyên của tội ác hoành hành, chiến tranh liên miên, thiên tai
dồn dập, bệnh dịch cùng khắp. Huỳnh Phú Sổ viết: “Thiên tào đã xét định, khắp
chúng sanh trong thế giới, trong cái buổi Hạ Ngươn này, say mê vật dục, chìm
đắm trong biển lợi danh gây nên nghiệp quả, luật trời đã trị tội v.v…” (Xem
“Tôn chỉ hành đạo Phật giáo Hòa Hảo của đức Huỳnh giáo chủ”, trang 7, NXB Tôn
giáo, 2002).
Đúng như vậy, thời kỳ Huỳnh Phú Sổ bắt đầu truyền giáo
là thời kỳ bắt đầu cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, với những tổn thất nhân
mạng và tài sản không kể xiết. Vì là một cuộc đại chiến thế giới, cho nên Việt
Nam lúc bấy giờ là thuộc địa và xứ bảo hộ của Pháp, cũng bị họa lây và trở
thành chiến trường xung đột giữa Pháp và Nhật, trở thành hậu phương góp công
của cho cuộc chiến tranh Đại Đông Á do đế quốc Nhật khởi xướng. Nạn đói khủng
khiếp làm hơn 2 triệu người Việt Nam chết năm 1945 là con đẻ của
tình hình này. Trong một thời kỳ nhiễu nhương, tội ác, chiến tranh, thiên tai,
dịch bệnh, đói kém, dân chúng khốn khổ, lầm than như vậy, thì lời kêu gọi của
giáo chủ Hòa Hảo, mang hình thức sấm truyền, tất nhiên là có một sức hấp dẫn
đặc biệt.
Nhưng theo chúng tôi nhận định 3 lý do trên là lý do
phụ. Hai lý do 4 và 5 là chủ yếu, cho nên tôi xin phép nói dài hơn.
IV. Phật giáo Hòa Hảo coi nhẹ hình thức, bồi dưỡng đức
tự tin ở bản thân, đơn giản hóa nghi lễ, coi trọng lối hành đạo gần gũi dân
chúng, đặc biệt là dân chúng nghèo.
Huỳnh Phú Sổ
đích thân chữa bệnh – kể cả những bệnh hiểm nghèo và theo sử liệu để lại ông đã
thành công trong nhiều trường hợp. Ngày nay, với nền y học hiện đại, với những
thành tựu mới, vang dội về khoa chữa bệnh bằng tâm lý (Psycho therapy), phải
thừa nhận ảnh hưởng lớn của trạng thái tâm lý người bệnh đối với việc chữa
bệnh. Trong cuốn “Con người, một ẩn số” (“L’Homme, cet inconnu”), tác giả bác
sĩ Carrel (giải thưởng Noben) đã nêu một
số trường hợp do ông đích thân quan sát người mắc bệnh hiểm nghèo đã được chữa
khỏi bệnh, chỉ dựa vào niềm tin và cầu nguyện mà thôi. Đấy là những chuyện cá
biệt, nhưng có thực, xảy ra không phải riêng cho Thiên Chúa giáo mà cho nhiều
tôn giáo khác.
Nhưng ở đây, chúng ta đang nói về Phật giáo Hòa Hảo.
Thành công ngoạn mục của đạo Hòa Hảo, trong
một thời gian ngắn, từ 1939 đến 1944 đã đưa con số tín đồ lên 5 triệu,
không phải chỉ ở nội dung giáo lý dễ hiểu, hình thức giáo lý dễ thực hành, mà
còn ở tác phong của người truyền giáo nói và làm đi đôi, lý thuyết và thực hành
nhất trí. Một tác phong mà trước Huỳnh Phú Sổ, các lãnh tụ của đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương có liên quan mật thiết với đạo Hòa Hảo đã làm rồi như Phật Thầy Tây An,
đức Phật Trùm, Sư Sãi bán khoai.
Nói một cách khác, các lãnh tụ truyền giáo Hòa Hảo
không phải chỉ rao giảng giáo lý của họ, mà toàn bộ cuộc sống của họ là hiện
thân của giáo lý đó, không những họ giảng hòa hiếu mà thực sự họ sống hòa hiếu,
và khi họ giảng và sống hòa hiếu, họ tin là quần chúng tín đồ đi theo họ, đều
muốn và sống hòa hiếu như họ. Hãy hỏi: Ai, dù là tín đồ hay không phải tín đồ
Hòa Hảo, ai lại không muốn sống hiếu thuận với ông bà tổ tiên, ai lại không
muốn sống hòa hài đoàn kết với hàng xóm, láng giềng, bè bạn? Phải chăng, thưa
quý vị, một bí mật của sự thành công ngoạn mục của đạo Hòa Hảo là các nhà
truyền giáo của họ đã rao truyền một giáo lý mà cả đời họ là hiện thân sống
động: Cái gì họ nói là họ sống, họ làm; cái gì họ làm, họ sống thì họ mới nói,
theo đúng phương châm "Ngôn hành hiệp nhất" của triết gia Vương Dương
Minh đời Tống, tuy rằng họ có thể không biết Vương Dương Minh là ai.
Họ có thể không biết Vương Dương Minh là ai, nhưng
giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, tự tuyên bố mình là đệ tử của Phật Thích Ca rất có thể
đã ghi lòng tạc dạ lời Phật Thích Ca giải thích Như Lai, tức Phật là gì?
“Này các Tỷ kheo, Như Lai nói gì làm vậy, làm gì nói
vậy. Vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên được gọi là Như Lai.” (Tiểu Bộ
kinh, tập I, bản dịch của HT.Thích Minh Châu, trang 509).
Trong sách Phật giáo, có từ thân giáo, nghĩa là lấy tự
thân mình làm gương sáng giáo dục cho người khác. Không những các lãnh tụ Hòa
Hảo như Phật Thầy Tây An, và đức Huỳnh Phú Sổ thực hành như vậy, mà mỗi tín đồ
Hòa Hảo đều làm như vậy. Họ đều thực hành thuyết bốn ân, sống hòa hiếu với cha
mẹ, tổ tiên, hàng xóm láng giềng v.v… Họ truyền đạo không chỉ bằng lời nói, mà
bằng cuộc sống cả đời họ, cuộc sống hằng ngày của họ. Phải chăng nhờ đó mà đạo
Hòa Hảo lan truyền rất nhanh từ năm 1939.
V. Tôi xin phép gút lại bài tham luận của tôi trong
điểm V:
Sự thành công ngoạn mục của Phật giáo Hòa Hảo, chủ yếu
còn ở chỗ, từ tiền thân của nó là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cho nên năm 1939, khi
với Huỳnh Phú Sổ, nó mang tên chính thức Phật giáo Hòa Hảo – tức là Phật giáo ở
làng Hòa Hảo, luôn luôn các thế hệ giáo chủ của nó đều khẳng định “cốt lõi giáo
lý của đạo Hòa Hảo chính là giáo lý của Phật Thích Ca tuy cội nguồn ở Aán Độ,
nhưng đã được truyền đến nước ta vào những năm đầu CN, tức là một tôn giáo có
truyền thống hơn 19 thế kỷ của một đạo dân tộc, hòa vận mệnh của mình vào vận mệnh
của dân tộc, đến mức thi sĩ cận đại Hồ Dzếnh có câu thơ:
“Trang sử
Việt
Đồng thời
là trang sử Phật
Trải qua
bao độ hưng suy
Có nguy mà
chẳng mất”.
Hay là hai câu thơ của thi sĩ Huyền Không:
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Thơ ca có phần thi vị hóa thực tế, một phần nào huyền
thoại hóa thực tế, nhưng cốt lõi của thực tế vẫn được bảo tồn, cùng với bản sắc
dân tộc. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, vào buổi tiếp đoàn đại biểu Giáo hội Phật
giáo Việt Nam sau ngày mới thành lập (1981), có nói một câu mà không rõ vì sao
báo chí lúc bấy giờ không nhắc tới: “Trong bụng người Việt Nam nào cũng có ông
Phật”.
Phật giáo Hòa Hảo tự nhận mình là kế tục đạo Phật,
không có một tín đồ Hòa Hảo nào phủ nhận sự kiện này, trái lại còn lấy đó làm
tự hào. Cuốn “Để hiểu Phật giáo Hòa Hảo” của Thanh Sĩ và Vương Kim, in ngay ở
trang bìa 4 câu thơ:
Phật
xuất An Giang đủ phép mầu
Giáo
truyền đạo Thích rất cao sâu
Hòa
trong sanh chúng gieo điều thiện
Hảo ý
đưa về Kiến Bửu Châu.
Quan hệ giữa đạo Phật nói chung và Phật giáo Hòa Hảo
nói riêng trên bình diện giáo lý và thực hành là một đề tài rộng lớn, rất lý
thú, không thể bàn ở đây. Chúng tôi chờ đợi ở quý học giả của Phật giáo Hoà Hảo
một công trình khoa học có tầm cỡ về chủ đề này. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam sẽ
rất hoan nghênh một công trình như thế.
Xin trân trọng cảm ơn sự chú ý của quý vị.
http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/phatgiaohoahao.htm
(TRÍCH DỊCH TỪ
BỘ TỰ ĐIỂN BÁCH KHOA UY TÍN THẾ GIỚI BỘ ENCYCLOPAEDIA BRITANNICA - ANH QUỐC)
Huỳnh Phú Sổ là một triết gia Việt Nam , là người
chủ trương chấn hưng Phật giáo và là người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo năm
1939.
Ông bắt đầu thuyết giảng về sự chấn hưng nền Phật
giáo, chủ trương sự quay trở lại tinh thần Phật giáo nguyên thủy (Thượng tọa
phái: Đạo của những người đã có thành quả tu tập) và nối kết với tư tưởng đại
thừa thịnh hành khắp Việt Nam, Ông đề cập sâu đến cách sống mộc mạc, bền bỉ,
cùng hình thức thờ cúng đơn giản và sự tự giải thoát. Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là
một sự kết hợp giữa đạo Phật và truyền thống thờ cúng Tổ tiên cùng với những
nghi thức nuôi dưỡng đời sống tâm linh, cùng những tinh tuý của Khổng giáo và
những sinh hoạt thực tiễn phù hợp bản xứ người Việt Nam.
Bằng lời nói của mình, Ông có khả năng cuốn hút thính
gỉả một cách mãnh liệt và được biết đến dưới danh hiệu Ông “Đạo Khùng”. Ông đã
tiên đoán chính xác sự thất bại của Pháp trong thế chiến thứ hai và sự xâm
chiếm của người Nhật ở Đông Dương.
Sự thành công của Ông trong vai trò một vị Giáo chủ đã
khiến cho những người tín đồ gọi Ông là Phật Sống.
----------------------------------------
Nguyên văn bản tiếng Anh, nguồn Website: www.
Britannica. com. Inc.
Huynh Phu So.
Vietnamese philosopher, Buddhist reformer, and founder
(1939) of the religion Phat Giao Hoa Hao.
He set about preaching Buddhish reform, advocating a
return to Theravada (Way of the Elders) Buddhism, from the Mahayana (Greater –
Vehicle) form prevalent in Vietnam ,
and stressing austerity, spartan living, simple worship, and personal
salvation. Hoa Hao is an amalgam of Buddhism, ancestor worship, animistic
rites, elements of Confucian doctrine, and indigenous Vietnamese practices.
In speaking, he exerted an almost hypnotic influence
over his audiences and became known as Dao Khung (Mad Monk). He predicted with
accuracy the fall of France
in world war 2, the Japanese invasion of Indochina …
His success as a prophet led his followers to call him
the Phat Song (Living Buddha).
# TRÍCH HỒI KÝ CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ (*)
Hai anh
Tân Phương và Việt Châu (**) đều như tôi rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sàigòn,
mong Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân
Phương không làm chính trị, mà Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do
một cơ hội nào được nghe Thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành
thi, lấy làm lạ, nhất là thấy Thầy như có một ma lực gì kỳ dị, thu phục được
rất nhiều người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ.
Việt Châu bảo tôi: “Con người đó thật kỳ dị. Mỗi ngày
ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao
bất tuyệt trong hai, ba giờ ở giữa trời, trước một đám đông nông dân hằng ngàn
người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần
đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, Thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn đứng nghe
dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy
mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi
dào thế! Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế “
Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị nhân, và tôi
bỗng nhớ tới Raspoutine thời Nicolas 2 ở đầu thế kỷ, nhưng không nói ra.
Raspoutine cũng có sức mạnh phi thường, cũng cò tài thôi miên, nhưng đời sống
bê bối, hình dáng ghê tởm, rõ là một nhân vật bất thường, còn Huỳnh Phú Sổ thì
ai cũng phục là người nghiêm trang, đạo đức.
(*) Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn Học
1997.
(**) Tức Nguyễn Xuân Thiếp, Nhà thơ bút hiệu Việt
Châu, người gốc Hà Tây, là anh của Học giả Nguyễn Hiến Lê, và là một đệ tử
trung thành của đức Huỳnh Phú Sổ.
NHẬN THỨC PHẬT GIÁO HÒA HẢO (*)
# Trần Nguyên Bình Giáo Sư Sử học
Phật Giáo Hòa Hảo hưởng ứng lời kêu cứu thiết tha của
lịch sử dân tôc và lịch sử loài người đứng ra nhận lãnh một sứ mạng. Sứ mạng đó
là võ trang tinh thần cho nòi giống để chặn ngăn mọi luồng tư tưởng tà nguỵ từ
bốn phương tám nẻo tràn vào, rồi đứng lên trên cái ưu thế của dân tộc Việt đã
được giác ngộ qua cơn khói lửa triền miên, mà thiết lập một “Niết Bàn nơi hạ
giới” cho loài người.
Muốn hiểu rõ sứ mạng đó phải thực hiện ra sao, chúng
ta cần trở lại dĩ vãng cách đây 100 năm, để xem tất cả những sức lực chính trị
kinh tế, văn hóa nó đã đè nén xã hội Việt như thế nào.
Khi nước ta tiếp xúc với Tây phương, thì cái văn hóa
bệnh hoạn thời Nguyễn không đủ sức kháng cự với cái văn hóa đại kỹ nghệ, đại
thương mại đương tích cực tìm đường phát triển ra bên ngoài, đặc biệt vào Châu
Á và Châu Phi. Văn hóa thời Nguyễn chỉ là văn hóa vụ hình thức, rỗng tuếch về
nội dung. Đa số các nhà Nho không nuôi chí học những thứ gì cần thiết cho dân
tộc, đất nước mà chỉ cốt gọt giũa câu văn cho óng chuốt, câu thơ cho điêu
luyện, hợp điệu hợp vần và gác ngoài tai, không chịu tìm tòi nghiên cứu tất cả
những biến chuyển bên ngoài quốc tế.
.............
Để cứu vãn tình thế của nước nòi, rộng ra cứu vớt loài
người. Phật Giáo Hòa Hảo ra đời, với sứ mạng đem đuốc từ bi đốt cháy mọi mê lầm
để dẫn dân Việt từ chỗ đại bi đến đại giác, đứng lên làm cách mạng bằng một đại
hành hoàn thành đại đạo cho toàn dân.
Sứ mạng thật nặng nề, khó khăn, nhưng cũng thật cao
cả. Chúng ta hãy lắng tâm tỉnh trí, mở các tập Thi Văn Sấm Giảng ra, thắp nén
hương lòng lên mà đọc, đọc với tất cả tấm lòng tha thiết thương yêu nòi giống,
thương yêu nhân loại, chúng ta sẽ thấy ở đây những gì cần phải học, cần phải
biết, những gì cần phải cứu vớt, cứu vớt lấy bản thân chúng ta đang chìm đắm
trong hôn mê, trong ngõ lợi đường danh, cứu vớt lấy dân tộc đang phân hóa một
cách ghê sợ do những tư trào quốc tế tràn vào xung đột lẫn nhau, để rồi, tiến
lên góp phần với mọi cá nhân tiến bộ, mọi tổ chức tiến bộ, mọi quốc gia tiến bộ
trên thế giới mà cứu vớt loài người đương đứng trên bờ vực thẳm, có thể vì một
giây điên khùng mà tự tiêu diệt bằng đủ loại vũ khí hạch tâm.
Phật Giáo Hòa Hảo ra đời với một sứ mạng cứu vớt. Vậy
sự cứu vớt đó khai triển như thế nào, bắt đầu từ đâu để rồi chấm dứt ở nơi đâu?
Trong hoàn cảnh đất nước sống quằn quại dưới gót sắt
của thực dân Pháp, những người hơi tỏ ra yêu nước thương nòi là bị thực dân kiềm
chế hoặc bắt tù đày, giam cầm; còn đa số quốc dân trí thức đuổi theo danh lợi
lãng quên sự nghiệp tổ tông. Khối dân quê đông đảo nhất, thuần phác nhất, giữ
được nhiều đức tính của dân tộc nhất thì lại dốt nát, sống cơ cực làm chẳng đủ
ăn, không người lãnh đạo. Mà chính khối dân quê này trong suốt dòng lịch sử đã
là chủ động cho mọi cuộc phục hưng dân tộc. Những cuộc cách mạng Đinh Tiên
Hoàng, Lê Lợi, Quang Trung đều do nông dân hoàn thành bằng cách cung cấp nhân
lực, vật lực, tài lực.
Cho nên cứu vớt gì thì cứu, nếu không chú trọng đến
nông dân thì chỉ là làm cái công việc của dã tràng xe cát. Vì lý do đó mà Phật
Giáo Hòa Hảo xuất hiện ngay trong lòng nông dân để giác ngộ họ, giúp họ tiến
lên tự giải thoát lấy mình, giải phóng dân tộc rồi góp phần vào công việc giải
thoát loài người.
Vì Giáo chủ là người sinh trưởng ở nông thôn đã đau
khổ cái đau khổ của nông dân, ước ao và hy vọng cái ước ao hy vọng của nông
dân, nên mới hiểu được họ, cảm hóa được họ.
Sau hơn nửa thế kỷ sống dưới triều Nguyễn, một triều
đại đã xao lãng cái căn bản tinh thần của nòi giống, sau ngót trăm năm Pháp
thuộc, lòng người dân tựa đống tro tàn trong mùa gió lạnh, họ sống không có chỉ
nam, mất tin tưởng ở bản thân mình, ở dân tộc mình, trước sự tràn lan của nền
văn minh vật chất Tây phương. Bởi vậy, việc cần thiết là phải gây cho họ lòng
tin ở tự mình, ở dân tộc mình bằng cách phác vẽ cho mọi người một lý tưởng nhân
sinh, một lý tưởng sống.
Lý tưởng đó là lý tưởng Phật Giáo Hòa Hảo, một lý
tưởng tổng hợp cả ba luồng tư tưởng lớn nhất ở Châu Á là Phật giáo, Khổng giáo
và Lão giáo.
Từ Đinh qua Lê, Lý, Trần, ba luồng tư tưởng này đã ảnh
hưởng rất lớn đến nhân sinh và kiến quốc của dân Việt, ngày nay chỉ cần hiện
đại hóa bằng tinh thần khoa học Tây phương, tinh thần từ bi bác ái của nhà
Phật, tinh thần nhân thứ của Khổng Tử, tinh thần tiêu dao không màng danh lợi
của Lão Tử, được phô diễn trong những lời vàng ngọc, khi thì như hiệu lệnh, khi
thì như nhắn nhủ khuyên răn, khi thì như cảnh cáo, thấy bàng bạc khắp trong Thi
Văn Giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ ...........Ở trên chúng ta
đã nói xã hội Việt trong thời Pháp thuộc băng hoại và thối nát như thế nào. Cờ
bạc rượu chè đàng điếm hoành hành khắp nơi, mê tín dị đoan đè nặng lên mọi tầng
lớp xã hội. Vấn đề đặt ra cho Phật Giáo Hoà Hảo là phải cải tạo hết những cái
bẩn thỉu trong xã hội. Công việc thực khó khăn , chỉ có cách dùng cái quyền uy
tinh thần, để tâm phúc mọi người bằng giác ngộ. Trong tôn chỉ hành đạo của Phật
Giáo Hòa Hảo, rượu chè, thuốc sái bị cấm. Vàng mã, thầy bùa, thầy pháp, làm
chay đàn bị coi như những thứ tin nhảm, mê hoặc lòng người.
Xá với phường là trò kỳ quái,
Làm chay đàn che miệng thế
gian.
………
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Tất cả những điểm trên là những chủ trương cải tạo cần
thiết trong Phật Giáo Hòa Hảo mà chúng ta được thấy thực hiện ngay từ bước đầu.
Đi xa hơn, chúng ta sẽ gặp một niềm tin lớn được xây đắp lên cho tương lai.
.......... Lý tưởng Phật giáo thật là thích hợp với tư
tưởng cốt cán của dân tộc ta, mà Phật Giáo Hòa Hảo lại là một luồng tư tưởng
tổng hợp Phật Khổng Lão, một thứ tổng hợp gạn lọc qua tinh thần Tiên Rồng đã
làm cho nước nhà thoát ra khỏi âm mưu diệt chủng của người phương Bắc mà thành
một quốc gia có một văn hóa riêng biệt, nó chối bỏ tất cả những thứ văn hóa nô
dịch, nhưng luôn luôn sẵn sàng hấp thu những tinh hoa của nền văn hóa khác, để
tự do dân tộc, tập trung nhân lực, tài lực, vật lực, vùng lên cao cả và đại
hùng hoàn thành sứ mạng, thiết lập một “Niết Bàn nơi hạ giới". Chỉ lúc đó
và chỉ sau lúc đó, Phật Giáo Hòa Hảo mới hoàn thành được sứ mạng của mình:
Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,
Bụi hồng trần rứt sạch cửa
không,
Chuông linh ngân tiếng đại
đồng,
Ta bà thế giới sắc không một
màu.
…………………………………….
(*) Trích trong lời Bạt, Nhận Thức Phật Giáo Hòa Hảo,
Nguyễn Văn Hầu, Hương Sen xuất bản 1970.
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ LÀ MỘT
TRIẾT GIA VIỆT NAM (*)
# Phạm Công Thiện, Nguyên Giáo sư triết học Đại học
Vạn Hạnh Saigon
Có lẽ không ai mà không biết Đức Huỳnh Phú Sổ là Đức
Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng ít ai biết rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là một
triết gia Việt Nam .
Chẳng những thế, không phải chỉ triết gia Việt Nam như bất cứ một triết gia nào
xứng đáng được gọi là “triết gia “mà Đức Huỳnh Giáo Chủ lại đúng là một minh
triết, một thánh triết, trong mọi ý nghĩa cao siêu nhất của danh từ.
Khi tình cờ đọc một bộ từ điển bách khoa có thẩm quyền
nhất thế giới, bộ Encyclopaedia Britannica, dở qua cuốn 6, trang 181, tôi thấy
tên tuổi và cuộc đời sự nghiệp của Đức Huỳnh Giáo Chủ chiếm trên nửa cột chữ in
nhỏ trên trang giấy tự điển, mấy hàng chữ đầu đã đập mạnh vào mắt tôi : “Huynh
Phu So is a Vietnamese philosopher… “Hiển nhiên mấy hàng chữ tiếp tục cũng xác
định thêm rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ là nhà cải cách Phật giáo và nhà sáng lập
Phật Giáo Hòa Hảo, nhưng chính điều xác định đầu tiên của Encyclopaedia
Britannica đã làm tôi chú ý đặc biệt: “Huỳnh Phú Sổ là triết gia Việt Nam …”
Mặc dù tôi có thói xấu giống như Aldous Huxley là hay thích đọc tự điển như đọc
tiểu thuyết (Aldous Huxley rất say mê đọc bộ Encyclopaedia Britannica), nhưng
không phải bất cứ cái gì tự điển đã định nghĩa thì tôi tin ngay lập tức; bản
tính cố hữu của tôi là ngờ vực tất cả định nghĩa của tất cả tự điển và từ điển.
Tuy nhiên, lúc thấy Encyclopaedia Britannica gọi Đức
Huỳnh Phú Sổ là “triết gia Việt Nam “thì tôi bỗng ngừng lại và bắt đầu suy
nghĩ. Bao nhiêu âm hưởng bất ngờ xoáy tròn xung quanh một danh từ quen thuộc.
Từ lâu, tôi đã có thói quen nghĩ rằng Đức Huỳnh Giáo
Chủ là một thiên tài tôn giáo dân tộc, là một đại Bồ Tát trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam, là tất cả những gì đáng tôn kính trong vị thế của một Giáo chủ một tôn giáo gồm nhiều triệu tín đồ ở Việt
Nam. Nhưng tôi chưa nghĩ đến khía cạnh “triết gia" của Huỳnh Giáo Chủ.
Hiển nhiên tất cả mọi Giáo chủ tôn giáo đều là triết gia ở một bình diện nào
đó, và tất cả mọi triết gia ở trên tất cả bình diện đều không thể là Giáo chủ
được, nếu người ta hiểu được tính thể chân chính của triết lư như là triết lý.
Một triết gia có thể là một triết gia về tôn giáo với
một nền tảng triết lý về tôn giáo, nhưng một nhà tôn giáo học không hẳn bị bắt
buộc phải là một triết gia, và nhất là một nhà tu hành tôn giáo và nhất là một
Giáo chủ tôn giáo lại không nhất thiết phải cần đến một triết lý nào cả, nhất
là thứ triết lý kinh viện nhà trường. Tuy nhiên nếu triết lý được hiểu là triết
lý trong tất cả mọi ý nghĩa toàn diện của triết lý thì không có ai có thể chạy
thoát ra ngoài cái vòng tròn khủng khiếp của triết lý, dù triết lý được hiểu
theo nguyên nghĩa Philosophia hay được hiểu theo nguyên nghĩa Minh triết Đạo lý
của Đông phương.
Nếu được hiểu theo nghĩa nguyên vẹn toàn diện thì Đức
Huỳnh Giáo Chủ đúng là một triết gia Việt Nam vĩ đại mà chỉ có người nào nắm
trọn tất cả triết lý Tây phương và đạo lý Đông phương thì mới có khả năng nhìn
thấy được tất cả ý nghĩa ẩn hiện của bốn chữ triết lý Việt Nam.
Một thanh niên Việt Nam mới 20 tuổi mà đã cưu mang tất
cả sức nặng bí ẩn của đạo lý Đông phương, đã thể hiện tất cả khả tính có thể có
được của tư tưởng Việt Nam, đã thể hiện trọn vẹn tất cả tinh tuý của Mật tông,
Thiền tông và Tịnh độ tông, đã thành tựu oanh liệt truyền thống Thiền Lý Trần
và Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam, đã nối kết lại tinh thần Phật giáo
nguyên thuỷ với đại nguyện và đại hành của lý tưởng Bồ Tát trong Đại thừa, đã
đốt cháy lại ngọn lửa thiêng trao truyền từ lục tổ Huệ Năng, đã gây dựng lại
với hai bàn tay trắng tất cả những gì cao siêu nhất của dân tộc và của nhân
loại trong sự nghiệp tư tưởng và hành động của mình, đã nuôi dưỡng đời sống tâm
linh và hùng khí dân tộc cho bao nhiêu triệu người Việt Nam. Một người như thế,
chẳng những là một triết gia Việt Nam thôi, mà chính là minh triết,
thánh triết cho cả nhân loại.
(*) Lược trích trong “Phật Giáo Hòa Hảo trong dòng
lịch sử dân tộc “, Nguyễn Long Thành Nam , Đuốc Từ Bi xuất bản 1991.
# Giáo sư Phạm Cao Dương (Nguyên Giáo sư Sử học Đại
học Sư phạm và Văn khoa Saigon ):
PHẬT GIÁO HÒA HẢO VÀ CHỦ
TRƯƠNG CHẤN HƯNG XÃ HỘI
Lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Phật giáo nói
riêng trong những năm cuối của thời kỳ Pháp thuộc, đúng hơn là trong hai thập
niên ba mươi và bốn mươi, đã được đánh dấu bởi hai biến cố vô cùng quan trọng.
Đó là sự phát sinh của phong trào chấn hưng Phật giáo truyền thống, và sự hình
thành của Phật Giáo Hòa Hảo. Cũng là Phật giáo, nhưng hai phong trào này đã có
những hoàn cảnh xuất hiện khác nhau, những chủ trương khác nhau, những đường
hướng khác nhau, những điều kiện phát triển khác nhau, do đó, đã mang lại những
thành quả khác nhau. Có điều cả hai đều đã góp những phần vô cùng tích cực vào
sự hình thành của một nền Phật giáo Việt Nam thuần tuý sau khi tôn giáo này
đã du nhập vào nước ta từ hơn mười thế kỷ…..
Nhưng Đức Thầy đã không chỉ chú trọng tới sự suy đồi
của Phật giáo mà thôi, Ngài còn chú trọng nhiều hơn tới tình trạng suy đồi của
toàn thể xã hội Việt Nam về nhiều phương diện, trong đó có sự suy đồi của cuộc
sống đạo đức theo quan niệm bình thường và theo quan niệm của Khổng giáo. Ưu tư
về sự suy đồi của đạo đức xã hội này đã được Đức Thầy nói tới rất nhiều trong
Sấm giảng. Suy đồi trong quần chúng cũng như suy đồi trong hàng ngũ giới trí
thức mới, trong giới trẻ cũng như giới già. Một sự suy đồi đến độ cùng cực
khiến cho Đức Thầy phải than rằng:
Chẳng có người nào tu niệm
hiền lương.
(Sấm giảng Khuyên người đời
tu niệm, câu 768)
Vì bá tánh thì “nghinh tân
yểm cựu"
Phụ mẹ cha khinh rẻ Phật
Trời,
Chẳng có kể công sanh, dưỡng
dục.
(Kệ Dân của Người Khùng, câu 83-84)
# Nhà văn Sơn Nam
Ca dao là tâm
ca, trường hợp của những câu sấm, câu vãn ở miền biên giới Việt Miên, gần dãy
Thất Sơn, Châu Đốc. Nơi đây văn minh Tây phương xâm nhập trễ và khó khăn, hồi
cuối thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20. Sấm vãn do Phật Thầy Tây An và các giáo chủ
nối tiếp trở thành kinh nhựt tụng của mọi gia đình, lúc khẩn hoang nhọc nhằn ở
nơi đất thấp chỉ thích hợp với giống lúa thum đưng thuở ấy và vài giống lúa sạ
du nhập từ Cao Miên sau này.
Những bài sấm vãn được truyền tụng, gây tin tưởng cho
kẻ đang chịu nhẫn nại là được phước về sau; chịu đựng không có nghĩa là ngồi
một chỗ mà chờ ngày tận thế, nhưng phải nhập thế, lo siêng năng trồng tỉa, làm
tròn phận sự với cha mẹ, với xã hội, với đất nước, với Phật, nên đọc bộ Kim cổ
kỳ quan, các sách về giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo, của hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa để
thấy rằng ca dao Miền Nam đã mang sắc thái đặc biệt, hồi đầu thế kỷ; đã là tín
đồ thì ai cũng thuộc vài chục vài trăm câu, gặp những trường hợp khó khăn về
sanh kế, về thiên tai thì đem ra mà dẫn chứng, để lấy lòng tin.
Sấm vãn lưu truyền ở Hậu Giang là ca dao, là văn
chương bình dân. Đó là luận đề lớn, để nghiên cứu. Muốn hoàn thành công việc ấy
chúng ta cần để nhiều thời giờ đến quan sát tại chỗ, chọn lọc những câu sấm vãn
nào được lưu truyền, được nhắc nhở nhiều nhất, trong sinh hoạt hằng ngày.
Trong hoàn cảnh khó khăn, thầy Đoàn Minh Huyên đã hiện
đại hóa đạo Phật, nêu thái độ dấn thân (khẩn hoang, giữ nước). Thầy và Giáo chủ
Phật Giáo Hòa Hảo nối tiếp sau này, chẳng những góp công về mặt chính trị, kinh
tế để tô điểm vùng đất nghèo nàn, khó sống nhất. Công ơn mà bấy lâu nay chúng
ta đánh giá không đúng mức là sự xây dựng về văn chương: đó là những lời khuyến
dạy về đạo lý được diễn đạt bằng lời lẽ bình dân, theo văn Nôm và theo thể thơ
lục bát. Nhiều đoạn trong sấm vãn đã thật sự trở thành ca dao ở vùng biên giới.
(Theo Tập san
Nghiên cứu văn học, số 16 tháng 6 năm 1972)
# KIM ĐỊNH
Triết gia Kim Định viết:
Tôi vừa đọc xong tập “Phật Giáo Hòa Hảo Yếu Lược”. Gấp
sách lại, thấy tự lòng dấy lên một niềm vui đầy hy vọng: đây chính là nơi đại
diện cuối cùng của nền văn hóa nông nghiệp. …………Về
môi sinh, thì đây là miền nông nghiệp trù phú nhất nước, với năng xuất gần gấp
đôi các nơi (3 triệu tấn lúa cho 1.885.000 mẫu, so với suýt soát 17 triệu tấn
cho 17.326.000 mẫu trong toàn quốc). Số dân là hai triệu ở khắp trong 15 tỉnh
miền Hậu Giang. Đông nhất là Châu Đốc, An Giang, Kiến Phong tức là khối lớn,
lại thêm đông đặc và được tổ chức thành hàng ngũ rất chặt chẽ, thì dễ đủ sức
đương đầu với mọi thử thách, dù cam go đến đâu. Nhất lại về đàng giáo lý thì đã
đạt được nét đặc trưng cao nhất có thể. Trên đời mới thấy xảy ra ở đây là một:
Đường tu tiến của con người có thể chia làm ba giai
đoạn lớn là Hữu Vi, Vô Vi, và An Vi.
Hữu Vi đi với Địa
Vô Vi đi với Thiên
An vi đi với Nhân....
…. Đó là kiện chứng minh bạch dứt khoát. Kiện chứng
thứ hai và rất đặc biệt, đó là bản thân Đức Huỳnh Giáo Chủ không là một tăng lữ
mà chỉ là một cư sĩ tại gia, là một nhà ái quốc, một nhà đại cách mạng đã lập
ra đảng Dân Xã, tức có chủ trương, có sách vở, có cơ cấu tổ chức đầy đủ, không
thể nghĩ ngợi gì nữa. Đó quả là một thành tựu, cho tới đó chưa ai hiện thực
nổi. Đó là bước từ đạo Phật bước vào đạo Nhân, tức từ Tài Thiên đi sang Tài
Nhân.
Đến khi đi vào chi tiết càng thấy rõ cái bước sang qua
xảy ra từ cơ cấu nền tảng, nên rất giống Việt Nho. Thí dụ: Việc nhấn mạnh cần
phải học hành, không được tin mù quáng, dù ông thầy có đáng kính mấy cũng phải
đưa óc thông minh ra để xét lời thầy trước đã, có nên tin hay chăng. Rất giống
Nho đặt Trí lên đầu: Trí Nhân Dũng.
Về thờ tự, thì cắt hết mọi phiền toái. Không nhận thầy
cúng, thầy tế, thầy bói, thầy phù thủy. Không cho đốt vàng mã. Thờ Phật thì
không có tượng, mà chỉ có một tấm vải màu dà để tượng trưng sự hòa hợp nhân
loại. Đã không chuông không mõ, không cho dâng cúng chè xôi, thực phẩm. Không
cấm sát sinh, chỉ cấm sát sinh để tế. Không có cả chùa, chỉ có “độc giảng
đường”, không phải để ở, mà chỉ để giảng đạo, giống như Văn Miếu bên Nho vậy…
Quả là một kết tinh của Tam giáo.
Phật thì đã bỏ tượng, bỏ chùa, chỉ còn tên, và giáo lý
để đúng với câu “học Phật tu Nhân”. Thuyết là thuyết Phật, nhưng thực hiện thì
lại là Nhân. Đúng ra thì cũng là thực hiện Phật, vì giữa Phật và Nho có rất
nhiều mẫu số chung, như “tự lực tự cường”. Phật nói hãy thắp đèn mình mà đi thì
Nho cũng nói “doãn chấp kỳ trung”; nền tảng như nhau, nhất là cả hai đều căn cứ
trên Đạo Trống để bàn nơi khác.
Pháp thì sự nhận định tính cách vô thường của các pháp
rất giúp vào việc tạo dựng nên tâm hồn xả bỏ, là điều quý vô cùng nơi nhà cai
trị, để dễ có lòng thái công là chìa khóa cho sự thành công trong lãnh vực
chính trị. Ngoài ra còn một số những điều rất khó có thể hiểu cho người thông
thường, như là thuyết “thập nhị nhân duyên”, thì đề ra cho dân kính bái vậy
thôi.
Tăng thì kể như không có. Phật Giáo Hòa Hảo bản chất
là tại gia, không nhận sư ni, nhưng theo lối nhu thuận của Nho, là không chống
đối, mà chỉ “kính nhi viễn chi”, sau khi dặn dò phòng bị những tăng sư giả mạo,
như về việc ma chay giỗ chạp, thì dạy rằng: “giá trị ở chỗ tu tâm”, tự mình cầu
nguyện, khỏi đi thuê khoán ai cầu cho……
Tóm lại, xét chung nội dung giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo,
thì chính là đạo Nhân, nhưng bọc ngoài bằng danh Phật. Thế mà lại giữ được nét
sùng mộ nhiệt tính của Phật giáo để đóng góp, nên có thể bù trừ cho đạo Nhân
nơi Nho. Đạo Nho là một thứ đạo “ung dung tự tại” vì đạo nhân đã có đủ thiên
địa nơi mình, khỏi cần phải bước đi đâu (vạn vật gia bị ư kỷ). Đó là chỗ cao cả
nhưng cũng là chỗ yếu kém của Nho. Cao cả cho những tâm hồn có óc siêu lý cảm
thấy được an nhiên tự tại: còn đối với đại chúng thì khó thấy được, nên cần có
sự thúc đẩy mạnh hơn…..
…………………..
Những suy luận trên đây giúp ta thấy cái thiên tài của
Đức Huỳnh Giáo Chủ, khi bước từ Phật giáo đi sang tu Nhân. Đó quả là đợt mới
của cây Việt mọc lên tự nội, vì Giáo Chủ không có học hành gì (học được hết
tiểu học rồi cứ bệnh hoạn liên miên) mà đến 20 tuổi đột nhiên thông suốt đạo lý
và bước qua nổi cái bước từ Thiên sang Nhân, một bước đã bao đời không ai bước
qua được, thì đủ biết là thiên tài làm cho ta thêm lòng tin tưởng vào sinh lực
lớn lao của nòi Việt, để ta mạnh dạn đặt vào tương lai cái nhìn tươi sáng.
KIM ĐỊNH
# BS Trần Nguơn
Phiêu:
……………..
....ông Huỳnh Phú Sổ đã giảng
dạy cho Tín đồ một nội dung Phật Pháp đúng theo lời chuyển Pháp luân của đức
Phật;
GIÁO LÝ PHẬT GIÁO HÒA HẢO:
Đạo Phật là đạo giác ngộ, chỉ lối đưa đường dẫn dắt
con người từ cõi đau khổ đến cõi an lạc. Đức Phật tức đức giác ngộ đã vì lòng
thường xót chúng sanh, khai ngộ cho tất cả mọi người được giác ngộ như chính
đức Phật.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã giảng dạy cho tín đồ một nội dung
Phật pháp đúng theo lời chuyển Pháp luân của Đức Phật. Những ai đã có dịp đọc
lại các thuyết giảng của Đức Thầy đều phải khâm phục vì ông đã đem giáo lý nhà
Phật đến đại chúng nông dân một cách rất gần gũi nhưng rất trọn vẹn, từ con
đường trung đạo đến tam nghiệp, tứ diệu đế đến tứ vô lượng tâm, tứ ân, ngũ
giới, lục độ, bát chánh đạo, thập thiện, thập nhị nhân duyên, Đức Thầy chỉ có
một chút phần thay đổi trong thứ tự Tứ Ân. Ngoài ra, trọn vẹn nội dung là đúng
với những lời Đức Phật đã dạy cho đệ tử của Ngài trong Phật giáo nguyên thủy.
Ông Huỳnh Phú Sổ không hề có chủ trương một nền Phật giáo nào khác. Đường vào
cõi Phật có ngàn pháp môn. Đức Thầy là người thấu hiểu căn cơ chất phác của
người nông dân, là những người ít học, không thể tự lực hành trì các pháp tu
tối thắng, tối cao để vượt ra khỏi tam giới, thoát nạn trầm luân trong tam đồ
lục đạo. Vì thế nên ông Huỳnh Phú Sổ đã chọn pháp môn Tịnh Độ là một pháp tu
phù hạp với căn cơ của người nông dân Nam bộ. Ông khuyên đạo hữu: “Môn
Tịnh Độ là môn cứu cánh – rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa”.
Khi chỉ mới 23 tuổi, ông đã viết bài ”Phật là gì?” để
tín đồ hiểu rõ hình ảnh đức Phật như Ngài đã tự giới thiệu khi còn tại thế.
Ngài là người giác ngộ, một đạo sư chỉ dắt chúng sanh con đường và phương pháp
đi đến giải thoát. Ông Huỳnh Phú Sổ đã cho tín đồ sự hiểu biết để họ không bị
mê hoặc, tôn sùng Đức Phật như một vị Thần linh.
Thử đọc lại bài nói trên như một thí dụ điển hình, để
biết rõ những lời văn thực tiển, gần gũi của ông Huỳnh Phú Sổ, những lời dạy dễ
lãnh hội, đã ăn sâu vào tâm hồn chất phát của người nông dân miền Nam: “ Phật
giả là Giác giả (người giác ngộ). Giác giả là tỉnh giả (người tỉnh thức)”
Khi Đức Thích Ca thành Phật thì Ngài nói pháp Tứ đế mà
độ đời trước hơn các pháp, và chỉ con đường Trung đạo cho người hành theo.
Đường Trung đạo của Phật:
Không trưởng dưỡng xác thịt quá ư sung sướng như: ăn
nhiều, ngủ nhiều, chẳng lo làm công chuyện, chẳng học hỏi, vì sung sướng thái
quá thì sanh nhiều dục vọng mê đắm, làm cho trí đạo tối tăm, không đạt huệ
được.
Không nên hành xác hay ép xác thái quá như: phơi nắng
dầm sương, bỏ ăn bỏ ngủ, làm lụng quá sức lực của mình, vì ép xác quá độ hay
sanh bệnh họan nhiều, người mà đã mang bịnh tật rồi, tinh thần kém cỏi, nhọc
mệt trí hóa lu mờ, không đủ sức mà học Đạo đặng.
Nên người biết Đạo, chẳng ép xác thái quá, mà cũng
chẳng để nó sung sướng quá độ, chỉ ăn ngủ có chừng mực, làm việc vừa với sức
mình, giữ gìn sức khỏe mới mong được Đạo pháp.
Vậy Phật chẳng buộc ai phải ăn ở khổ hạnh và cũng
chẳng biểu ai ăn ở sung sướng, chẳng ép ai ăn chay, chẳng xúi ai ăn mặn, tùy
theo trình độ và lòng nhơn của mình. Điều cần yếu là phải:
“LÀM HẾT CÁC VIỆC THIỆN
TRÁNH TẤT CÁC ĐIỀU ĐỘC ÁC
QUYẾT RỬA TẤM LÒNG CHO TRONG SẠCH”
Ông Huỳnh Phú Sổ đã có cả triệu tín đồ hưởng ứng tu
hành vì Ông đã thuyết giảng đúng trình độ đại chúng bình dân trong đó phần lớn
là nông dân, đúng thực trạng xã hội Việt Nam phần đông là ít học, ít hiểu
biết. Tuy nhiên, những bài giảng của Ông Huỳnh Phú Sổ mang tính cách bình dân
nên không khỏi bị một số Tăng Ni chê là kém cỏi, tầm thường, hoặc giáo lý PGHH
không có gì là cao siêu, là chân chánh. Nhưng, những ai hiểu đạo Phật đếu phải
công nhận là những bài thuyêt pháp của Ông tuy giản dị nhưng rất trong sáng và
chan hòa tư tưởng Phật giáo. Ông chỉ đặc biệt chú trọng nhiều đến Tứ Ân như
Phật thầy Tây An. Ngoài ra Ông không có chủ trương đưa ra những tư tưởng Phật
học gì mới.
Trình độ nông dân của 90% tín đồ Ông vào thời khoảng
nhiễu nhương 1940 khó có thể thông hiểu được các tư tưởng cao siêu chưa đựng
trong thiên kinh vạn quyển của triết lý.
HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG CỦA PGHH
Sự thành công đặc thù của PGHH, đưa đến sự hiện diện
trường tồn ở miền Nam
cho đến ngày hôm nay, mặc dầu trải qua bao nhiêu biến cố tưởng cần phải suy gẫm
cặn kẽ hơn.
Hình thức tín ngưỡng của PGHH là một yếu tố quan
trọng. Đây quả là một cuộc cách mạng, đang được nhiều học giả về tôn giáo
nghiên cứu.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã thổ lộ trọng trách lâm phàm của
Ông là việc phải chấn hưng Phật pháp. Từ ngày chư Tổ bặt truyền y bát đến nay,
chơn pháp của Phật bị người đời làm sai tinh nghĩa nên một ngày một suy đồi.
Ông tự nhận là đệ tử trung thành của Phật Thích Ca. Lãnh sứ mạng giáo truyền
một nền đạo Vô Vi, khác với lối âm thinh sắc tướng của phái Thần Tú. Ông kêu
gọi:
“khuyên sư vãi mau mau cải
hối
Làm vô vi chánh đạo mới mầu
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao
sâu.
Hãy tìm kiếm cái không mới có”
Vì thế Ông Huỳnh Phú Sổ chủ trương” theo Lục Tổ chớ
theo Thần Tú…. Đạo vô vi của Phật ân cần, noi theo chí Thích Ca ngày trước”.
Ông Huỳnh Phú Sổ đã đặc biệt tạo nên một nền Phật giáo
mới lạ, một nền Phật giáo do các giới Phật tử tại gia điều hành, một nền Phật
giáo cấp tiến, không có giới Tăng lữ tham gia. Đức Thầy tuy không chủ trương
xây chùa, đúc tượng nhưng trong “lời khuyên bổn đạo” Ông vẫn khuyên tín đồ phải
kính trọng giới Tăng sĩ, vẫn khuyến khích đi chùa vào các ngày rằm ngày vía của
Đức Phật… Ông đã khéo léo tránh tạo sự bất hòa giữa giới Tăng sĩ và cư sĩ tại
gia. Đức Thầy viết: “Hạng tại gia gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ
chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ
quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà Sư, Ni Cô
đặng.Tuy vậy, họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại
đồng của nhà Phật và luật nhân quả do Phật thuyết ra. Thế nên, ở tại nhà họ
phượng thờ Đức Phật phát nguyện quy y, giữ gìn ít nhiều giới luật, hằng coi
kinh sách, sửa tánh răn lòng, ủng hộ các Sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.”…
Ông đặt trọng tâm vào việc tu tâm sửa tánh, khuyên
không nên dựa vào hình tướng, lễ nghi. Hình tướng như tượng Phật, chuông mỏ chỉ
là những trợ lực, những phương tiện giúp dễ tu tập nhưng lắm khi sự chấp vào
hình tướng lại dẫn đến sự sai lệch đạo pháp. Về thờ phượng, PGHH chủ trương các
cư sĩ tại gia nên “thờ đơn giản cho lòng tin tưởng trở lại tâm hồn….chỉ thờ một
tấm trần màu dà… màu ấy là sự kết hợp của tất cả các màu sắc khác, nên có thể
tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại không phân biệt chủng tộc cá nhân…
Màu ấy tiêu biểu cho tinh thần vô thượng của nhà Phật”……
Đặc biệt” đối với các tôn giáo khác” đức Thầy đã
khuyên tín đồ “không nên đụng chạm đến cách thức tu hành của họ”……
SẤM GIẢNG THI KỆ CỦA HUỲNH
PHÚ SỔ
Có rất ít bậc
trí thức được biết là 40 năm về trước. Ông Huỳnh Phú Sổ đã dịch nhiều thi kệ từ
tiếng Hán ra Việt ngữ cho tín đồ của Ông. Xin được nhân dịp nầy, thử đọc lại
các câu chú thường được niệm, trích ra từ tập Sấm Giảng Thi văn của Ông Huỳnh
Phú Sổ:
“Năng lễ sở lễ tánh không
tịch
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế
châu.
Thập phương chư Phật ảnh hiện
trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật
tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng
lễ”
Ông Huỳnh Phú Sổ đã dịch thành thơ như sau, một cách
rất sát nghĩa:
“Sự lạy Phật vốn không, yên
tĩnh
Đạo cảm giao khó tính khôn
bàn
Nay tôi ở trong đạo tràng
Cũng như kết chặt vào đoàn
ngọc châu.
Mười phương Phật hiện bầu
hình ảnh
Có bóng tôi cũng sánh cùng
Ngài,
Từ chơn cho chí mặt mày,
Cúi đầu làm lễ nguyện rày quy
y”.
……….
Về bài “rửa tay”:
Hán văn: “Dĩ
thủy quán tưởng/ đương nguyện chúng sanh/ đắc thanh tịnh thủ/ thọ trì Phật
pháp.”
Ông Huỳnh Phú Sổ viết:
“lấy nước, tôi rửa sạch tay
Nguyện cầu sanh chúng được
tay thơm lành
Ngỏ hầu nắm pháp vô sanh
Giữ gìn lời Phật ban hành từ
xưa”
Về bài “thỉnh chuông”
Hán văn: Nguyện
thử chung thinh siêu pháp giới / Thiết vi u ám tất giai văn / văn trần thanh
tịnh chứng viên thông /nhất thiết chúng sanh thành chánh giác”
Ông Huỳnh Phú Sổ viết:
“Nguyện tiếng chuông lành
thông các cõi
Thiết vi địa ngục cũng nghe
rành
Nghe rồi thân tịnh, tâm tròn
sáng
Tất cả chúng sanh Phật đạo
thành”
…………
Kết luận:
Trong những trình bày vắn tắt vừa qua về giáo lý, Hình
thức, tín ngưỡng, Sấm giảng, thi kệ PGHH, chúng ta có thể hiểu được phần nào vì
sao nền PGHH đã bén rễ sâu xa trong tâm hồn người nông dân Nam bộ.
Đức Huỳnh Phú Sổ đã cách mạng, hiện đại hóa PG truyền
thống thành một nền PG thời đại. Những thành tựu ông đã thực hiện trong thời
gian ngắn ngủi 7 năm thật khó có thể giải thích ngoại trừ phải chấp thuận ý
kiến xem Ông là một vị Bồ Tát đã xuất hiện sau nhiều kiếp tu tập để cứu rỗi
nông dân ở địa linh Cửu Long.
………….
BS Trần Nguơn Phiêu
Arlington.Texas
Qua những nhận xét của giới trí thức, qua hành trạng
của Đức Huỳnh giáo chủ trước bối cảnh lịch sử của đất nước, cho ta thấy Ngài là
một người tràn đầy lòng yêu nước, là một thiên tài, một Bồ Tát bổ xứ, một vị
Phật hóa thân; hai vai gánh nặng đạo và đời. Đạo, muốn chấn hưng về trạng thái
nguyên thủy - vô tướng - vô cầu, loại từ mê tín Thần quyền; Đời, muốn quét sạch
ngoại bang, chấn chỉnh khuyến khích nông nghiệp, đoàn kết dân tộc. Áp dụng tinh
thần bình đẳng đại đồng của nhà Phật trong cuộc sống.
Ngài không muốn thành lập một tông môn tôn giáo mới,
vì Ngài tự nhận mình là đệ tử trung thành của đức Phật, vì thế PGHH không xây
chùa, không có tu sĩ, không lập chức sắc, không nghi lễ rườm rà, chủ trương học
Phật tu nhân để làm tròn sứ mạng nhân luân đối với đồng bào, xã tắc. 27 năm có
mặt và 7 năm đóng góp cho cuộc đời,Tạm gọi Ngài là một giáo chủ 20 tuổi quá trẻ
mà thế giới chưa có ai so cùng, thời gian quá ngắn mà đóng góp rất lớn cho xã
hội, cho dân chúng, tạo một nét văn hóa thuần Việt cho nền tín ngưỡng Việt Nam.
Ngài đã đi vào lịch sử nhân loại.
Tuy một tập thể tín ngưỡng nhân gian, nhưng bao hàm
các tư tưởng, trường phái triết học, tín ngưỡng Châu Á. Ngài là hiện thân một
Duy Ma Cật, một Tuệ Trung thượng sĩ; tinh thần vô vi của Lão, nhân luân của
Khổng Mạnh,siêu thoát của Phật giáo, cách tân của khoa học, giản dị trong lễ
nghi. Ngài kết nối tinh thần Trúc Lâm Yên tử, nhưng Trúc Lâm đầu đà trong tay
có quyền lực đủ khả năng thực hiện lý tưởng xã hội và tôn giáo, Huỳnh giáo chủ
là một truyền thống nông dân Nam bộ, không quyền lực, với đôi tay và khối óc đã
lập thành kỳ tích mà nhân loại khó phủ bác, chỉ vỏn vẹn 7 năm đã làm nên lịch
sử mà giới hiểu biết phải nghiêng mình cẩn bái.
Suốt hàng ngàn năm lịch sử từ thời Hùng Vương, trãi
qua Lý Trần đến nay, không thiếu những anh hùng dân tộc, nhưng bậc vĩ nhân có
công với sơn hà xã tắc và phục hoạt tín ngưỡng tâm linh không được mấy ai; Có
lẽ Huỳnh giáo chủ trong thời cận đại xuất hiện đúng lúc, sử sách cẩn trọng để
lại đầy đủ những chi tiết về nhân thân và hành hoạt mà tiền nhân đôi khi bị
thất thoát. Lịch sử của Ngài đầy đủ hơn cả các tiền nhân kế thừa, luôn cả Đức
Phật thầy Tây An.
Qua những nhận định của các nhà trí thức có uy tín,
chúng ta thấy được tầm vóc to lớn, tư tưởng kỳ vĩ, công trạng hiển hách của một
thanh niên ngoài 20 trong thời gian rất ngắn đã để lại cho nền tín ngưỡng, nền
văn hóa và tấm lòng yêu nước... một gia tài không thể phủ bác.
PHẬT GIÁO THĂNG TRẦM QUA CÁC
THỜI ĐẠI
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
1. Từ đầu công
nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng
khắp.
2. Thời Nhà Lý
- Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh
3. Từ đời Hậu
Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
4. Từ đầu thế
kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền
tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
(Trích Tạng Thư Phật Học - HT Thích Thiện Hoa)
THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ
VIỆT NAM
HIỆN TẠI
Vì thiếu phương tiện học hỏi chánh pháp nên họ không
phân biệt được Phật giáo và Thần giáo. Do đó, họ có những tin hiểu sai lầm như
sau:
A. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ
1. Thiên hình thức nghi lễ
2. Tin Phật như vị thần linh
3. Tin Phật qua những hình thức tà giáo
B. THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA GIỚI TRÍ THỨC NGHIÊN CỨU PHẬT
1. Căn cứ lý Nhân Quả
Nhân đã gây thì quả phải chịu; nguyện cầu, cúng tế,
làm phước... của người khác không liên hệ gì đến người này cả.
2. Căn cứ thuyết vô ngã, vô trước
Nhìn vào Phật giáo thấy thuyết vô ngã, vô trước thật
là hệ trọng. Nếu người tu không phá được ngã chấp thì không sao giải thoát
được.
C. DUNG HÒA
1. Sai lầm của người nặng phần tín ngưỡng
2. Sai lầm của người nghiêng về triết lý
Nơi mỗi con người chúng ta đều có hai phần, tình cảm
và lý trí. Nếu có người chỉ thuần tình cảm, không có lý trí thì họ chìm đắm
trong biển thương yêu mê hoặc. Ngược lại có người ròng rặt lý trí, không có
tình cảm thì họ khô khan cô độc.
Một tôn giáo cũng thế, triết lý và tín ngưỡng không
thể thiếu một được. Nếu thiếu một, tôn giáo ấy sẽ chết mòn. Cho nên, chủ trương
cực đoan về triết lý của giới trí thức này cũng là tai họa của Phật giáo.
(thientongvietnam.net)
Tóm kết:
Để tưởng nhớ tiền hiền liệt tổ, tiền nhân có công với
Đạo và Đời, tập sách mõng nầy tóm lược các danh nhân tiêu biểu, lưu lại cho
cháu con có một cái nhìn xuyên thông mà quốc sử và giáo sử bàng bạc trong các
trang mờ tỏ.
Kính dâng lên Tam bảo, chư t iền hiền, chư Thánh Tăng
và Bồ Tát bổ xứ lòng tôn kính vô lượng dưới năng lượng vô biên của các Ngài. Hy
vọng nền tảng đạo đức và lý tưởng của hiền nhân sẽ được hậu thế truyền thừa
chấn phát.
Nguyện hồi hướng công đức cho Phật pháp tăng huy, nhân
sanh an lạc, tổ quốc được thanh bình thịnh vượng.
MINH MẪN
Trọng xuân Giáp Ngọ 2014
Hay và ý nghĩa
Trả lờiXóa