Năm 1976 Diane Perry, tức ni sư Tenzin Palmo đã ẩn tu trong một
hang động hẻo lánh ở độ cao 13.000 bộ trên rặng núi Hy Mã lạp Sơn, cách biệt
với thế giới bên ngoài bởi những rặng núi tuyết phủ. Ni sư đã vào động vào lúc
33 tuổi và rời khỏi nơi đây lúc 45 tuổi; ở đó ni sư đã phải chiến đấu với cái
lạnh không thể nào tưởng tượng được, với những thú hoang dã, với sự khan hiếm
thực phẩm và tuyết lở. Ni sư đã tự trồng hoa mầu để làm thực phẩm và đã ngủ
ngồi trong hộp thiền bằng gỗ có kích thước một mét vuông (three-feet square).
Ni sư không bao giờ nằm. Mục tiêu của ni sư là đạt được giác ngộ trong thân xác
của một phụ nữ.
Năm 1988 ni sư ra khỏi động tu với quyết tâm
xây dựng một tu viện Phật giáo cho phụ nữ muốn đi theo con đường giác ngộ giải
thoát của đức Phật tại vùng Bắc Ấn Ðộ. Từ cuộc sống một nhà tu hành với chi phí
$80 một năm, ni sư đã trở nên một nhà lạc quyên quán quân trên thế giới, nói
chuyện với hàng ngàn dân chúng từ suối nguồn sâu thẳm của tâm hồn ni sư. Dưới
đây là cuộc đời và công trình tu tập của ni sư do Vicki Mackenzie kể trong quyển sách
"Cave In The Snow" do Bloomsbury London, Anh Quốc xuất bản tháng 10
năm 1998.
Chọn cách ẩn tu trong một hang động hẻo lánh
trên rặng núi Ky Mã Lạp Sơn, cách biệt với thế giới bên ngoài bởi những rặng
núi tuyết phủ, ni sư Tenzin Palmo đã tu luyện tại đây trong suốt 12 năm. Ở đó
ni sư đã phải chiến đấu với cái lạnh cắt da cắt thịt, với những thú hoang dã,
với sự khan hiếm thực phẩm và tuyết lở.Cuộc sống trên độ cao lạnh lẽo những
tháng ngày sau đó với Tenzin cực kỳ khó khăn. Mùa hè thì còn có thể đi bộ ra
suối lấy nước, nhưng khi mùa đông đến thì không ra ngoài hang được, phải nấu
tuyết làm nước uống và sinh hoạt. Về thực phẩm, bà phải thu xếp để nhận các
thực phẩm khô, dầu đốt, dầu ăn, muối đường và củi khô ở dưới núi đem lên vào
mỗi mùa hè. Thêm vào đó, bà trồng thêm hoa màu ở một cái vườn nhỏ trước hang. Bà trồng
rau cải và đậu peas nhưng bị chuột núi ăn mất chỉ chừa cho bà loại cải turnip
và khoai tây mà thôi. Tenzin đã khám phá ra là loại cải turnip này rất tốt và
bổ dưỡng. Bà thu hoạch nhiều để phơi khô dành cho mùa đông.
Tenzin vẫn ăn chay từ ngày gia nhập vào hàng ngũ tăng lữ Phật
giáo. Thực đơn hàng ngày rất đơn giản, có thể nói ngày nào cũng như ngày nào
trong suốt 12 năm. Mỗi bữa ăn gồm cơm, đậu lentil và rau cải turnip khô hoặc
tươi, đôi khi thêm khoai tây. Trong suốt 12 năm, Tenzin đã ăn uống như thế,
không có gì thay đổi, không có những thứ xa xỉ như bánh ngọt hay sôcôla.
Mỗi khi mùa đông đến, thời tiết cực kỳ lạnh, nhiệt độ dưới thung
lũng là âm 35 độ, con nơi Tenzin ở lạnh hơn rất nhiều. Tuyết phủ dày đặc bao
quanh hang động, tuy thế trong hang lại ấm hơn là căn nhà mà Tenzin ở 6 năm
dưới thung lũng trước kia,
bằng chứng là cốc nước trên bàn thờ ở đây không đông thành đá trong khiở
dưới kia lại đông đá. Tenzin chỉ nhóm lửa một lần vào mỗi trưa để nấu ăn. Điều
này có nghĩa là khi mặt trời lặn, trong hang hoàn toàn không có một chút hơi
ấm, thế mà Tenzin vẫn vượt qua được, bà bảo khi thực sự hành thiền, tự nhiên cơ
thể phát nhiệt và trở nên ấm áp.
Trong động tu của Tenzin không có ti vi, không máy nghe nhạc,
không sách báo tiểu thuyết ngoại trừ kinh sách Phật giáo, ngay cả đến giường
nằm cũng không có. Tenzin muốn cuộc sống càng đơn giản chừng nào càng tốt chừng
nấy. Bà đã tập ngồi thiền mà không cần ngủ. Bà cho rằng trạng thái yên tịnh và
cô quạnh trong hang động là nơi hoàn hảo nhất để thực hành tu tập.
Sống trong hang động hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài
là một điều kỳ bí và thích thú đối với Tenzin. Phụ nữ thường hay nhút nhát sợ
hãi và mất bình tĩnh khi thấy những con thú đi lảng vảng xung quanh, nhưng
Tenzin chẳng bao giờ sợ bất cứ con thú nào, ngược lại, chúng cũng không sợ hãi
bà. Trong suốt 12 năm sống trong hang động Tenzin cảm thấy yên bình hạnh phúc,
tuy không ít lần bà phải đối diện với cái chết bởi những trận bão tuyết, tuyết lở
và thiếu thực phẩm. Ví dụ như trận bão tuyết và tuyết lở kinh hoàng vào tháng
3/1979 kéo dài liên tục suốt một tuần làm 200 người dân Lahoul chết. Trong trận
bão tuyết ấy, Tenzin phải sống trong bóng tối vì tuyết phủ kín, bà không dám
đốt đèn vì sợ không còn oxy để thở. Tenzin đã đối diện với cái chết, nhưng
trong giây phút đó bà đã không nghĩ đến cái chết và tỏ ra sợ hãi, bà đã tự kiểm
điểm lại bản thân, những việc làm tốt và không tốt và luôn cảm thấy hạnh phúc
khi nghĩ rằng mình là một tu sĩ Phật giáo. Tenzin đã trải qua cơn bão tuyết
kinh hoàng ấy khi mà những người dưới núi không ai nghĩ bà còn sống sót.
Lẽ ra Tenzin Palmo sẽ ở trong động tu suốt cuộc đời, nhưng vì
một trục trặc nhỏ về giấy tờ di trú nên bà bị bắt buộc phải rời khỏi động tuyết
để trở về với thế giới bên ngoài bởi chính quyền sở tại. Khi được tin bà ra
khỏi động tu sau 12 năm dài ẩn tu, nhiều người đã tìm đến để có dịp tận mắt xem
Tenzin giờ ra sao, kết quả tu hành của bà thế nào? Bà thành Phật chưa? Một
người bạn Đức quen biết bà nhiều năm tên là Lia đang sinh sống ở Dharamsala
cũng đến tìm gặp Tenzin. Lia kể về Tenzin Palmo như sau: “Khi tôi hỏi nhiều lần
về sự chứng ngộ, Tenzin Palmo chỉ trả lời: “Một điều tôi có thể nói với bạn là
– Tôi đã chẳng bao giờ nhàm chán”.
Và thế là Tenzin Palmo ra khỏi động tu, lúc ấy vào năm 1988 và
bà bước sang tuổi 45. Theo như người ta kể, bà giã từ động tu, nơi mà đã ấp ủ
bà suốt quãng tuổi thanh xuân một cách bình thản không tiếc, không thương,
không buồn. Chính bà đã nói: “Chẳng có gì cả, phần lớn những gì tôi đối mặt ở
đây đã qua đi. Thời gian ngưng lại, đặc biệt là ba năm cuối cùng qua đi như là
có mấy tháng.” Sau 24 năm ở Ấn Độ, trong đầu bà lúc này hoàn toàn không có ý
niệm đi đâu. Nhiều người quen ở khắp nơi trên thế giới đều biên thư hoặc đánh điện
ngỏ ý mời bà đến đất nước của họ. Nhưng cuối cùng bà đã chọn về với gia đình
một người bạn Hoa Kỳ ở Italy, thị trấn Assissi, tỉnh hạt Umbria.
Tenzin ở Assissi 5 năm. Trong thời gian này nhiều nơi ở châu Âu
và châu Á, cả Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo đều mời bà đến diễn thuyết và dạy
thiền. Vì thấy các nữ tu sĩ Phật giáo không có chốn tu hành, họ thường phải di
chuyển từ trung tâm này đến trung tâm khác, không thuận tiện cho việc tu tập
phát triển tâm linh, nên bà quyết định bắt tay vào việc thiết lập một nữ tu
viện Phật giáo tại miền Bắc Ấn Độ. Bà đi diễn thuyết và cổ vũ khắp mọi nơi cho
dự án này. Bà gặp đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Đức Giáo Hoàng. Bà cũng đã tham
dự hội nghị Phật giáo do lời mời của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Dharamsala và giúp
tổ chức các hội nghị về nữ tu Phật giáo thế giới hàng năm tại Bồ Đề Đạo Tràng,
Ấn Độ và Lâm Tỳ Ni, Nepal.
Tenzin Palmo là người có công lớn trong việc xây dựng nữ tu viện
Phật giáo, bà nhiệt thành đi diễn thuyết xin tiền ủng hộ. Bà làm việc không mệt
mỏi. Tài sản của bà chỉ vỏn vẹn gồm một cái túi ngủ, một vài quyển sách Phật
giáo, một ít dụng cụ cá nhân, và ba bộ áo nhà tu. Bà từ chối không dùng tới số
tiền quyên góp dành xây tu viện, ngay cả dùng vào chi phí di chuyển. Bà không
ngần ngại đi khắp mọi nơi, đi xe, đi bộ, đi máy bay, chờ đợi nhiều giờ, có khi
nhiều ngày để chuyển tiếp phương tiện, nhưng không bao giờ cau có, than phiền,
ngoại trừ khi đụng tới vấn đề ăn mặn, bà nói mạnh và thẳng thừng lý do tại sao
không nên ăn thịt chúng sinh.
Cuộc đời của ni sư Tenzin Palmo đã trở thành một huyền thoại
thần kỳ. Bà trở thành thần tượng cho các nữ tu sĩ phương Tây, cả Phật giáo và
các tôn giáo khác. Hiện tại với vai trò là ni sư trưởng của Phật giáo Tây Tạng,
ni sư Tenzin vẫn ngày ngày tâm huyết với các dự án của mình. Bà nói rằng bà sẽ
trở lại động tu nhưng bà sẽ không trở lại động tu cũ bởi sức khỏe hiện tại
không cho phép bà sống ở độ cao như thế nữa. Đối với bà, động tu sắp tới mang
nhiều ý nghĩa ẩn dụ hơn là hiện thực, cũng có thể là một túp lều tranh ở một
nơi yên tĩnh, không hẳn là ở thật xa. Nơi đó có thể là bất cứ đâu, có thể là
phương Đông nơi bà có cảm nghĩ là sẽ viên tịch ở đó. Tất cả đều không quan
trọng bởi đối với Tenzin bất cứ nơi đâu bà cũng đều coi là nhà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét