Ngày mồng 2 tháng
11-2013, chùa Hoằng Pháp mời một số nhân vật trong và ngoài đoàn làm phim
về tham dự buổi trình chiếu bộ phim: "Con
Đường Giác Ngộ" mà tên gọi khi khởi quay là "Phật và Thánh Chúng".
Sau khi cứu trợ
từ Tây Nguyên về, Minh Mẫn được thầy Chân Tính mời riêng đến xem bộ phim bốn
tập dài 6 tiếng tại phòng thính thị của chùa Hoằng Pháp. Suốt 6 tiếng để theo
dõi bộ phim cũng khá mệt mỏi. Không chỉ xem mà còn thẩm định nội dung cũng như
kỹ thuật, nghệ thuật, đòi hỏi sự chú tâm cao độ. (vì có một phần trách nhiệm
giám định nội dung và biên tập kịch bản, chứ không phải biên tập diễn xuất, nên
phải đến xem để đánh giá, góp ý, rút kinh nghiệm mà không thể chỉnh sửa gì thêm
được).
Đây là bộ phim
không đòi hỏi mang tầm vóc quốc tế như phim "Cuộc đời đức Phật" do
diễn viên gạo cội Ấn Độ là Gagan Malik thủ diễn; cũng chẳng là tầm vóc quốc gia
như các phim tham dự liên hoan truyền hình. Phim "Con đường Giác Ngộ"
chỉ đòi hỏi sự thành công tương đối trong phạm vi mà khả năng chùa Hoằng Pháp
chung chi với kinh phí hạn chế. Tuy nhiên, hai tỷ không thể nói là không làm
được bộ phim ra hồn, nếu đạo diễn, đoàn làm phim, các diễn viên là những người
sống bằng nội tâm và đức tin tôn giáo mà mình đang diễn. Liệu cơm gắp mắm, thay
vì 6 tập cắt xuống còn 4 tập, và để cô đọng ý nghĩa hơn, đạt yêu cầu nghệ thuật
hơn, chỉ cần hai tập cũng đủ nói lên cái hồn của phim, cái chất của các diễn
viên và cái đẹp của cuộc đời đức Phật.
Trước nhất, dưới
cặp mắt chuyên nghiệp, người ta sẽ thấy đạo diễn không thể hiện hết nét tinh
túy mà một số diễn viên chưa lột tả:
- Đức Phật quá
nghiêm túc nên không toát hiện được ánh mắt từ bi và hoan hỷ. Đáng ra đức Phật
không nên phát biểu qua ngôn ngữ và tự sự quá nhiều mà nên thể hiện qua phong
cách, ánh mắt với sự điềm đạm giải thoát. Cách hóa trang búi tóc mang tính sân
khấu cải lương hơn là điện ảnh nghệ thuật. Đôi tai Phật tuy dài nhưng dái tai
như là cục thịt chảy xuống, thiếu tự nhiên. Bộ phận hóa trang lúc nào cũng cho
hình ảnh đức Phật trẻ trung dù là đã 80 tuổi.
- 10 vị đại đệ tử
cũng không toát hiện được gương mặt thanh thoát của một Thánh Tăng. Duy nhất,
vai Đề Bà Đạt Đa biểu cảm tương đối, nếu tốt hơn, sẽ lột tả được nét sâu độc,
tương phản với ánh từ của Đức Phật. Đoạn kết khi Đề Bà hối cải, sám hối về với
Đức Thế Tôn khá đạt.
- Số đồ chúng cư
sĩ vây quanh nghe Phật thuyết giảng, nếu có đàn ông thì tốt hơn toàn là phụ nữ.
- Trang phục đức
Phật và tu sĩ lúc đầu còn nghiêm túc, nhưng về sau quấn y lượm thượm, để hở cả
cổ, thậm chí có đoạn xệch xoạc. Ngay cả phía sau gót chân đức Phật cho người ta
thấy không phải quấn xà rông mà xẻ hở khá cẩu thả, như các loại váy xẻ của các
cô thời trang. Trong một đoạn ngắn, chư Tăng để vai trần ngược với truyền
thống. Một số tịnh nhân cũng trang phục không hợp với thời đại Phật tại thế. Kể
cả phụ nữ Ấn ngày nay cũng không ăn vận nửa cổ nửa kim như thế (có lẽ họ nhầm cách ăn vận của phụ nữ Chàm Châu
Giang miền Tây Nam Bộ). Nam
nhân quý tộc và quần thần trong vương triều, lai một phần áo dài theo trang
phục thường dân Tàu, cũng có nét đàn ông Chàm Châu Giang; chỉ khác cổ xẻ mà Ấn
Độ cũng không có vào thời ấy.
Tóm lại, bộ phận
hóa trang chưa nắm bắt được cổ trang của Ấn gần ba ngàn năm trước, cũng như
chưa biết cách trang phục của chư Tăng Nam tông. Ngay cả bình bát cứ y như
cái cối đâm tiêu. Một sơ suất không thể bỏ qua, đức Phật và Thánh chúng ngày cũng như
đêm, luôn cầm bình bát như đi khất thực.
- Về câu thoại đã
lột tả được tinh thần giáo lý đạo Phật, mặc dù từ kịch bản, nhưng diễn viên thể
hiện khá điềm đạm, rõ ràng.
- Nhạc nền nhiều
đoạn không thích hợp với cảnh quan tôn giáo. Suốt 6 tiếng, phim luôn hoạt náo,
không giành một không gian yên tĩnh cần có của nhà Phật để người xem được
lắng sâu vào nội tâm, hội nhập với cuộc đời Phật và Thánh chúng.
- Có đoạn không
cần thiết, như La Hầu La bị ngoại đạo đánh chảy máu, chêm vào vì nó không ăn
khớp với đoạn trước và sau. Ma Đăng Già sau khi được đức Thế Tôn giao cho Ma Ha
Ba Xà Ba Đề hướng dẫn tu tập, đến đó đủ rồi, không cần bước qua tập ba. Ma Đăng
Già lại bộc bạch với thế Tôn là đã ngộ ra "ái nhiễm" rồi nguyện xuất
gia, có vẻ thừa.
- Cảnh đánh nhau
như kiếm hiệp, chỉ cần thoáng qua một lần là đủ, nếu muốn sinh động; nhưng
thiết nghĩ, cuộc đời đức Phật hay con đường giác ngộ không thể hiện bằng gươm đao
mà bằng Từ Bi và Trí tuệ. Đây là bộ phim lịch sử thể hiện linh hồn tôn giáo
không cần đưa cảnh bạo lực vào. Phim "Cuộc đời Đức Phật" của Ấn Độ
không hề có nét bạo lực nhưng vẫn thể hiện được tầm cao nghệ thuật làm xôn xao
khán giả.
- Lịch sử Phật
giáo và cuộc đời giác ngộ của Phật mang tính thực tế, sử dụng kỹ xảo thể hiện
huyền thuật đôi khi làm thấp giá trị thực của nội dung giáo lý nhà Phật. Tạo
cho người xem cảm tưởng đây không là phim lịch sử của một tôn giáo lớn, chứ chưa nói là bộ phim lột tả linh hồn của một trường phái tâm linh
- Phim lịch sử
tôn giáo có hai phần: một là lịch sử thật, hai là tinh thần giáo lý và tâm
linh. Đòi hỏi diễn viên, kể cả đạo diễn phải nhập vai thật. Muốn nhập vai thật
phải có thời gian sống thật với linh hồn của một tôn giáo. Bộ phim với một nền
giáo lý vĩ đại, những nhân vật vĩ đại như Phật giáo mà dự trù ban đầu thực hiện
4 tháng quả là liều, mà các báo từng bảo là mì ăn liền. Sau đó, không thể là 4
tháng mà kéo dài gần một năm.
- Về cảnh quan,
là một tôn giáo mang tính triết lý tâm linh, cái hồn thể hiện từ nhân vật,
ngoại cảnh hỗ trợ cho nhân vật diễn xuất chứ không không là trang trí cho cảnh
diễn xuất. Phật và chư Tăng là những ẩn ngữ sống với tâm hồn trong sáng, đơn
giản và thanh thoát, không cần ngoại cảnh rườm rà hoa lá cành như phim thế tục.
Một bộ phim "sạch sẽ" về tôn tôn giáo như đạo Phật, là bộ phim từ
nhân vật đến ngữ cảnh thật nhẹ nhàng, đơn giản nhưng giàu ẩn nghĩa, không ồn ào
như phim thế tục.
Tóm lại, các diễn
viên mặc dù cố gắng biểu đạt, nhưng quá trình thâm nhiễm tinh thần nhà Phật quá
mỏng, chưa đủ để toát hiện đúng tâm linh và trí tuệ của những Thánh Tăng, trong
đó có vai đức Phật. Đạo diễn chưa thể hiện hết chức năng và chưa thâm nhập được
tinh thần giải thoát của nhà Phật. Hóa trang chưa kinh nghiệm, kể cả kinh
nghiệm hóa trang y phục chư Tăng hiện có. Kỹ thuật dàn dựng cảnh còn ảnh hưởng
phim ảnh thế tục.
Tất cả dù cố gắng
cũng chỉ thành công trên hình thức và kỹ thuật mà linh hồn của phim đòi hỏi
chưa thể hiện được; chính vì thế đáp ứng nhu cầu giải trí hơn là làm rung động
người xem về tâm thức của một tôn giáo giải thoát.
Mục đích của chùa
Hoằng Pháp không phải tạo bộ phim mang tính sử liệu mà là một việc hoằng
pháp như những bộ phận hoằng pháp đã từng làm như: Phật Pháp nhiệm Mầu - Ánh sáng
Phật Pháp - khóa tu cho sinh viên, cho quần chúng, bố thí băng đĩa kinh sách...
Với cái tâm của thầy Trụ Trì, khả năng của chư Tăng và ước nguyện của Phật tử
bị dừng lại ngưỡng cửa kỷ nghệ điện ảnh hơn là tiếp cận với cái hồn của của
giáo lý qua màn ảnh.
Dẫu sao, với kinh
phí như thế, đạo diễn và diễn viên như thế, không thể đòi hỏi hơn được, mặc dù
không thể hơn được nhưng vẫn thể hiện cái tâm hoằng pháp của thầy trụ trì. Và
nếu, chùa có kinh nghiệm hơn, sẽ nhờ nhiều cố vấn phim trường và chắt lọc kịch
bản cô đọng để lấy cái hồn không bị dàn trải quá rộng, người xem sẽ cảm xúc được
linh hồn thoát tục của một bộ phim thể hiện giáo lý giải thoát của "Phật
và chư Thánh chúng". Khi xem xong, người xem sẽ có cảm giác nhẹ nhàng tươi
mát hơn. Thể hiện cái hồn của Phật giáo không cần phải kỹ thuật rườm rà,
"kỹ nghệ nặng". Một chung trà của "Trà Đạo", một cánh
hoa của "ikebana" một cách dương cung của nghệ thuật bắn tên cũng
toát hiện phong cách Thiền của nhà Phật mà Phật giáo Nhật Bản đã chuyển hóa vào
đời sống thường nhật.
Đây là một kinh
nghiệm cho những bộ phim sau nầy. Nếu chỉ xem đây là bộ phim giải trí thuần túy
thì đáp ứng 80% cho quần chúng Phật tử đang chờ đón.
MINH MẪN
09/11/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét