Trong cuộc hành trình đi tìm pháp hành, cầu pháp do
tâm nhiệt thành tầm cầu giải thoát,Thiền sinh không tránh khỏi nhiều chướng
duyên, thậm chí bị lạc dẫn vào con đường tà giáo, bàng môn tả đạo, đến một lúc
hiểu ra đó không phải là pháp cần tu, lại buông bỏ, tiếp cuộc hành trình đánh đổi
thời gian khi tuổi đời chồng chất.(bài này chú trong đến các hành giả Bắc Tông,
vì Nam Tông ngoài Vipassana, Tứ niệm xứ, sổ tức quán…không có nhiều lối thiền
chỉ quán như Bắc truyền).
Do duyên phước sâu dày, hành giả gặp được minh sư, nếu
thiếu phước duyên, tà sư dễ tiếp cận.Ở
đây ta chỉ đề cập đến việc tu tập đúng chánh pháp.
Thuở xưa, khi Phật giáo Ấn truyền về phương Bắc,
trãi qua các quốc độ như Tây Tạng,Mông Cổ, Trung Quốc…nơi đó đã có những huyền
pháp của các chủng tộc, nặng về chú thuật.Bất cứ bộ lạc, chủng tộc nào cũng có
một phép thuật để đương đầu với muôn
thú, thiên tai và các bộ tộc xâm lăng. Trình độ chủng tộc càng sơ khai, pháp
thuật càng bí hiểm.
Khi Phật giáo truyền đến các nước, để dung thông với
văn hóa, tập quán bản địa, chư Tăng biết vận dụng tùy duyên hòa hợp văn hóa tập
quán bản địa để phát triển, mục đích dẫn
quần chúng vào đạo, phải đem giáo lý nhân thừa cho hợp với căn cơ xã hội hầu Phật
giáo hóa xã hội chứ không phải xã hội hóa Phật giáo.Từ đó, Phật giáo Bắc tông
có pha nhiễm một số pháp thuật mà nguyên sơ không có trong Phật giáo.
Đó là phương diện nhập thế trong một bộ phận Phật
giáo, ứng sanh có nghi lễ, ma chay, đám cúng, đàn chẩn và hình thức nghi lễ rườm
rà của một Tôn giáo.
Song song đó, thuộc tầng lớp thượng căn, chư Tổ có
cuộc sống biệt lập, tách hẳn những ràng buộc xã hội, chuyên tu nơi am thất, non
cao núi thẳm để đạt mục đích giải thoát. Những hành giả truy cầu chân đạo, thường
nương vào một bậc chứng đắc để cầu pháp.
Bắc tông sản sanh ra nhiều pháp hành tùy theo căn cơ
của hành giả, vì thế, Thiền sinh khi cầu pháp một vị nào, dù là cao Tăng hay
minh sư, hành trì lâu dài không thấy tiến bộ, phải xin thầy ra đi để cầu pháp một
vị khác do không thích hợp với pháp đó.
Pháp hành ví như thuốc trị bệnh, thuốc Tây uống một
tuần, thuốc Bắc uống một tháng mà không có triệu chứng thuyên giảm, phải đổi
thuốc. Đừng thấy người khác theo số đông, hoặc vị thầy có danh tiếng mà cứ bám
vào mất thời giờ uổng phí. Không phải thuốc dở nhưng do không hạp cơ địa, cũng
vậy, pháp hành không tương ứng căn cơ với hành giả, nên phải tha phương cầu
pháp.
Thế nào là đắc pháp? Đắc là được, được pháp không có
nghĩa được thầy truyền cho pháp hành dù có hạp với căn cơ hay không! Trong thời
gian hành trì một pháp, tâm tánh thay đổi, cơ địa nhẹ nhàng; càng ngày càng nếm
được “pháp vị” làm cho hành giả đam mê, rơi vào trạng thái tỉnh giác,lặng lẽ,
không mê mờ, không loạn tưởng. Ít ngủ, ít ăn, thậm chí không ăn không ngủ vẫn
thư thái nhẹ nhàng.Bấy giờ nuôi sống cơ thể không tùy thuộc về “năng lượng sinh
học”, tâm thức loại trừ mọi vọng tưởng, không còn tiêu hao năng lượng, thân an
định không mất nhiệt lượng; các huyệt đạo (luân xa –chakra) trong thân không
còn bị trược thức che ám, tiếp thu năng lượng vũ trụ nuôi cơ thể, tâm thức dần
dần nhẹ thanh, tạo một “năng lượng sinh thức” hỗ trợ cho hành giả tiến tu Đạo
nghiệp. Được như thế gọi là “Đắc pháp”.
Đắc pháp là nền tảng căn bản tiến đến giải thoát.
Trong quá trình đạt đích, trãi qua nhiều cấp độ tâm thức. Từ khi bắt đầu hành
trì đến giải thoát, còn vô số chướng ngại dễ lạc dẫn hành giả vào đường bế tắt,
lệch hướng do nội ma ngoại chướng dẫn dụ.Có lúc như bị “treo máy”, không tiến
không lùi, như chơi vơi không biết mình đang ở đâu, thậm chí không cảm nhận được
thân thể, hoặc đứng trước ngả ba đường…
Đến một mức độ nhất định của định lực, tâm thức có
triển hiện quyền năng, lúc này vi tế ngã trổi dậy, cảm nhận mình là chúa tể, là
bá chủ vạn vật, triển hiện thần thông…thế là lạc sang tà đạo. Nhưng, hành giả
có căn bản giáo lý nhà Phật, sẽ tránh được những tập khí như “tam độc”, “thập
kiết sử”…Nằm lòng 37 phẩm trợ đạo và hiểu rõ hiện tướng của vọng tưởng, sẽ
tránh những hầm hố để tiến thẳng đến giải thoát.
Gian nan nhất là từ tiềm thức khởi hiện các tập khí,
hoặc tán tâm loạn tưởng xen lẫn trong lúc Thiền định. Chỉ và Quán cũng là cách
giúp cho tâm không rơi vào thói quen nhàm chán
ĐẮC ĐẠO là gì? Khác nhau giữa Đắc pháp và Đắc Đạo chỉ
cách nhau đường tơ kẽ tóc do tập khí nhiều đời được hóa giải hay không.Người Đắc
pháp có thể phát sanh tuệ tri, có huệ nhãn, thậm chí có Thiên nhãn,có tha tâm
thông, nhưng vi tế ngã vẫn còn, cho dù đạt đại định.Vi tế ngã phát triển khi định
lực phát triển dễ biến thành Thiên ma ngoại đạo mà bản thân hành giả không biết;
cái biết của hành giả như cặp mắt con ngựa bị che chắn chỉ thấy một hướng nhất
định.
Đức Thích Ca Mâu Ni trước khi chứng quả toàn giác,
cũng từng bị ngũ ấm ma xuất hiện cám dỗ, đe dọa, nghĩa là tính chất thất tình lục
dục sâu dày ẩn tàng trong tâm thức, trỗi dậy như các loại bệnh trong cơ địa xuất
ra trước khi lành bệnh, cũng thế, từ sơ thiền đến tứ thiền, Đức Phật đã thẩm định
nhiều lần tới lui cho nghiệp thức tẩy sạch như tẩy sạch một tấm vải chiếu sáng
trước ánh quang minh. Đức Phật đã hoát nhiên đại ngộ trước ánh bình minh.
Những hành giả đạt được tuệ tri mà chưa dọn sạch tập
khí chỉ là Đắc pháp, nghĩa là có định và có huệ ở tầng thấp như hàng dự lưu
chưa sạch thập kiết sử, cần phải tiếp tục ngũ hạ phần kiết sử để tiến lên ngũ
thượng phần kiết sử mới thoát khỏi Tam giới gọi là bậc Đại giác, tức Đắc đạo
hoàn toàn.
MINH MẪN
11/10/2023
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét