Kinh Mangala Sutta
là bản kinh số 5 trong Tiểu bộ thuộc phần Tiểu tụng, được phổ biến trong các quốc
gia Phật giáo Nam truyền. Tại Việt Nam được TT Bửu Chánh giảng tại chùa Xá Lọi,
HT Huyền Diệu và một vài giảng sư Bắc tông thuyết giảng chung chung.
Mangala có nghĩa la “hạnh
phúc” – “Phúc đức” - “
Điềm lành” – “Phước lành”. Hay nói một cách bao quát hơn, rộng nghĩa hơn Mangala là những nguyên tắc tạo cho con người
thực hành đưa đến một đời sống an lạc, hạnh phúc, lợi mình, lợi người; một nền
tảng xây dựng xã hội an lành, đạo đức. Một đạo đức nhân thân đưa đến thành công
trong đời sống. Vì thế, không phải là bản kinh chỉ để tụng đọc mà là để hành
trì.
Đây là bài kinh quan trọng đến độ, một chú tiểu vào
chùa tại Miến điện, đầu tiên được dạy bản kinh này; thậm chí một số sư thuộc
lòng, xem đó là bản kinh gối đầu giường và là bản đồ dẫn đạo suốt lộ trình tu tập.
***
1. Không
gần kẻ ngu si,
Thân cận người hiền trí,
Cúng dường bậc xứng đáng,
Là phước đức lớn nhất
Nơi đây, chỉ dẫn chứng giá trị của bản kinh qua 38
pháp hành được đức Thế Tôn giảng dạy cho chư Thiên lúc đêm về.
Chữ “ngu”, cũng có nghĩa là xấu ác,là phần đầu tiên
đức Thế tôn dạy cho chư Thiên, nó khác với cái “ngu” mà thế thường hay sử dụng.
Ngu không chỉ là sự dốt nát vấn đề nào đó, không hiểu điều người khác nói,
không phân biệt đúng sai... Chữ ngu như thế không đủ ngôn ngữ diễn đạt, người
ta chỉ nói là “ngu như bò”, thật ra bò không hẳn đã ngu, nó biết đường đi lối về
sau một ngày cày ruộng, nó biết phân biệt chủ và người lạ; biết giành tình cảm
cho con; biết lo sợ khóc lóc khi đưa vào lò mổ.
Chữ “ngu” trong Phật giáo có nghĩa si mê, tăm tối,
sa đọa, sống theo bản năng tham dục,luyến ái…Không biết mà tham đắm đã đành, biết
là sai quấy mà vẫn phạm cũng gọi là ngu.Hầu hết trong chúng ta, ít nhiều đều phạm
phải cái ngu của vô minh Tham-sân-si.Tại sao Phật dạy không nên thân cận, gần gủi,
giao du với kẻ ngu? Mà phải thân cận với người hiền trí?.Thế thường bảo – gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng – đó là cách nói ám chỉ người không đủ bản lãnh tự chủ.
Theo tinh thần Phật giáo Bắc truyền, hạnh Bồ tát, phải lăn xả vào đời để độ
chúng sanh tội lỗi; không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ tốt người xấu; nếu chọn
tốt thì ai sẽ chơi với kẻ xấu? kẻ xấu bị loại ra khỏi cuộc chơi thì muôn đời họ
vẫn là kẻ xấu, không có cơ hội học hỏi người tốt để trở thành người tốt?Tuy
nhiên, nếu người không đủ bản lãnh tự chủ mà thân cận, giao du với kể tăm tối
ngu si, không độ được người ta, ngược lại bị kẻ xấu lôi cuốn vào con đường tội
lỗi.Đó là lý do Phật dạy không gần kẻ ngu mà phải thân cận người hiền trí.Tập
khí kiết sử ai cũng có, hoặc hiển lộ hoặc tiềm ẩn; người biết tu tập thì các tập
khí xấu ác được chế ngự, nếu thân cận kẻ xấu ác thì lâu ngày các hạt giống xấu
ác sẽ sống dậy. Ngoại cảnh là vậy, nội tâm có hai bản chất – xấu và tốt, nếu
luôn thân cận hạt giống xấu thi biến thành kẻ xấu; “không gần kẻ ngu si” là không sống với bản chất bất thiện, luôn thể
hiện bản tánh hiền trí, có nghĩa luôn thân cận người thánh thiện có trí tuệ.Hạt
giống tốt huân tập lâu ngày, cuộc sống thánh thiện trở nên người hiền trí
Xa tránh kẻ ngu si xấu ác, thân cận người hiền trí để
học hỏi điều hay,cũng chưa đủ nếu không khởi tâm cúng dường, tôn kính; mà phải
cúng dường, tôn kính bậc xứng đáng;
nghĩa là khi hạt giống si mê ám chướng tham dục xa lìa, hiển lộ hạt giống thánh
thiện, thì việc cúng dường hạt giống tuệ giác ( bậc xứng đáng) đồng nghĩa với
“năng lễ, sở lễ tánh không tịch”, không còn chấp ngã vô ngã, đó là điềm lành tối
thượng thứ nhất Phật dạy.
2. Ở trú xứ thích hợp,
Trong luật Tỳ kheo quy định - nơi
chốn,chỗ ở, là nơi không có nguy hiểm, nơi không bị bít lối. Nếu tỳ
kheo, nơi ở có nguy hiểm, nơi bị bít lối , phạm tăng già bà thi sa.Với tu sĩ
đã như vậy thì cư sĩ cũng phải chọn cho mình chỗ ở thích hợp về an ninh, sức
khỏe, thuận tiện việc đi lại làm ăn; tiện nghi tối thiểu, không khí trong
lành tối thiểu, gần cơ sở giáo dục và thực phẩm không độc hại.Y tế, thực phẩm,
không khí, nước uống là những tiêu chuẩn ắt có và đủ tạo một cuộc sống thích
hợp cho việc tiến hóa tâm linh.. Chỗ ở loạn lạc, trộm cướp hay toàn thành phần
bất hảo thì làm sao an lạc được.Một chỗ ở thuận tiện, kế sinh nhai thuần thiện
cần phải có.…Hàng ngàn năm trước, tuy thoát khỏi sự chi phối những luật lệ
thông thường thế tục, Đức Phật vì chúng sanh cũng phải hướng dẫn đồ chúng sống
đúng nguyên tắc an sinh xã hội. Trung Hoa cũng có một nguyên lý địa chính, thổ
nhưỡng tương thích với gia chủ tọa lạc trên vùng đất tương sinh,vượng địa, gọi
là địa lý thuộc Dịch học.Thầy địa lý xem phương hướng tương thích với tuổi
tác, cung mệnh của gia chủ để đoán định cát hung theo hướng tương sinh, đắc địa
thu nạp sinh khí mới vượng phát, tránh tai nạn bệnh tật… Nguyên tắc là vậy, còn tùy thuộc phước báu cá
nhân của gia chủ mà kết quả gia giảm nặng nhẹ khác nhau. Địa lý còn bị chi phối
vùng đất, khu vực, chợ phố khó mà chọn đúng hướng hạp với tuổi tác. Như vậy,
theo lời dạy của đức Phật có thông thoáng hơn, không lệ thuộc tuổi tác, địa
lý, chỉ yêu cầu nơi ở thích hợp với tâm trạng đem lại an lành, vui vẻ, không
bị nhiều chướng ngại là tốt. Việc chọn được chỗ ở thích hợp, còn tùy thuộc vào
phước nghiệp quá khứ gieo tạo nhân lành Trong Kinh Pháp
Hoa có nói: Có những nhân thấy rất nhỏ, nhưng chính những nhân đó đưa chúng
ta tới kết quả rất lớn. Có một người đi vào trong tháp hay trong miếu tự
nhiên thốt ra: nam mô A Di Đà Phật, chỉ cần nói một câu nhưng chính nhờ hạt
giống nhỏ xíu ấy mà sau này người đó thành Phật (Nhất sinh nam mô Phật, da dĩ
thành Phật đạo). Mình đã từng phát khởi được tâm niệm lành, đã từng nói
được lời lành và đã từng làm được điều lành thì tất cả những điều lành trở
thành vốn liếng của mình. Sau này mình thành công được là nhờ vốn liếng đó.
Mình đã tạo tác những nhân lành trong quá khứ và trong giây phút hiện tại
mình có thể làm thêm. Đức Phật dạy rằng, đừng trì hoãn để làm một việc
tốt. Hãy làm ngay. Bởi vì chúng ta chẳng biết khi nào chúng ta sẽ chết. Đừng
nói rằng ngày mai tôi sẽ làm việc tốt. Hãy làm một việc gì đó tốt đẹp ngay
bây giờ. Chúng ta có quá nhiều điều tốt đẹp để làm. Những gì tốt đẹp nhất mà
ta có thể làm lại không cần một thời gian đặc biệt nào, và thậm chí không
tiêu tốn tiền bạc của chúng ta. Tăng thân Làng Mai từng tâm niệm: Các
Đức Thế Tôn thường trú trên đời, xin thương xót con. Quá khứ từng tạo nhân lành nên hiện tại gặp quả tốt
đi vào chánh đạo dễ dàng.Đó là điềm lành tối thượng.Nếu không tạo nhân lành
quá khứ, ngay cả hiện tại thì làm sao có quả tốt cho ta hưởng. Chư Tổ từng
nói – “dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị, dục tri lai thé quả, kim
sanh tác giả thị. muốn biết cái nhân kiếp trước, hãy xem cái thọ nhận hiện tại, muốn biết
quả kiếp sau, hãy xem việc làm hiện nay. 3. Học nhiều, nghề
nghiệp giỏi, Việc hướng dẫn cho mỗi thành phần, mỗi trình độ
khác nhau, Đức Thế Tôn tùy căn cơ, tùy thời điểm, đưa ra những pháp hành khác
nhau. Cũng thế, chư Thiên là dạng chúng sanh trọn đời hưởng phước; chúng sanh
cỏi Ta bà, phần lớn cũng thích hưởng phước, nhưng không biết cách tạo phước,
nếu có tạo phước thì đôi khi không tránh khỏi tạo tội.Do vậy những người giàu
sang phú quý, quyền lực khó mà thoát khỏi sự chi phối của nhân quả vô thường.vẫn
chịu tác động của khổ đau, không hưởng phước trọn vẹn suốt đời như chư
Thiên.Ai đủ duyên đến với Tôn giáo,nhất là đạo Phật, được hướng dẫn cách sống
tạo nhân để đến một cảnh giới có nhiều phước báu.Trong sáu cõi mà chúng sanh
mãi trôi lăn, gọi là lục đạo luân hồi, chỉ có chư Thiên hưởng phước dồi dào,
không biết khổ là gì, sướng quá khó tu, không nghĩ đến tu, đến khí phước mãn,
hiện ngũ tướng suy, lúc đó chư Thiên chuẩn bị trở lại cõi thấp hơn để rèn luyện
tu tập tạo phước,hoặc trả quả mà hạt giống nghiệp nhân ẩn sâu trong tiềm thức
chưa có cơ hội trổ phát.Cõi người do phước tội lẫn lộn nên sung sướng khổ đau
luôn thay nhau xuất hiện; người sướng nhiều khổ ít, kẻ sướng ít khổ nhiều. Sướng
quá cũng khó tu, khổ quá càng khó tu, ngoại trừ có sẵn hạt giống đạo đức, mới đến với Đạo để tiếp tục học hỏi,
tránh ác làm lành. Do căn cơ của chư Thiên cũng như một số người
trong cõi Nam Diêm phù Đề muốn hành thiện tạo phúc, đức Phật hướng dẫn cách sống
theo chánh mạn và chánh nghiệp. Nghề nghiệp là phương tiện sống; mỗi thời đại
phát sanh thêm những nghề mới. Năm mươi năm trước, thế hệ ông bà không biết
vi tính là gì. Nhiều kỷ nghệ khoa học càng ngày càng phát triển, chỉ cần
không quan tâm theo dõi đã trở thành lỗi thời lạc hậu. Ngày nay một vài vị
chưa biết cách sử dụng computer, máy điện thoại cảm ứng…Để thích ứng với đời
sống xã hội, Đức Phật khuyến khích học nhiều nghề và nghề nghiệp thật giỏi.
Ngày xưa ông cha quan niệm – nhất nghệ tinh, nhất thân vinh – với xã hội đa dạng
ngày nay, ngoài nghề chính, cần có thêm nghề tay trái, nguồn thu nhập mới đủ
nuôi sống gia đình. Một Bác sĩ chuyên khoa cũng phải tìm hiểu học hỏi thêm
các ngành khác trong y học. Gần ba ngàn năm trước, Đức Phật đã thấy giá trị
nhu cầu cần phải học nhiều và nghề nghiệp thật giỏi; “ Kiến thức đa văn dễ đưa đến cống cao ngã mạn, để
hỗ trợ cho việc tiến thân trong sự nghiệp, cần có đạo hạnh để nhân cách được
hoàn chỉnh.Đạo hạnh thông qua giới luật. Về phương diên kỷ luật, dĩ nhiên dù
sống cá nhân hay môi trường tập thể cũng cần có kỷ luật. Hãy nghe sư Nam Tông
nói về kỷ luật của một nhà sư: Chúng tôi có giới luật về cách sống, sinh
hoạt. Kể cả cách mặc y cũng là một giới luật. Đức Phật dạy chúng tôi cách đi
đứng. Cách bước đi. Không bước đi những bước ngắn. Điều đó trông không ổn,
không trang nghiêm. Cũng không bước những bước thật dài. Điều đó trông cũng
không ổn. Bạn mất sự cân bằng. Bước đi không quá ngắn, không quá dài. Không
bước đi trên những ngón chân. Không bước đi bằng gót chân. Liệu trông có ổn
không, khi một ai đó bước đi bằng gót chân? Trông sẽ rất vụng về. Bạn cần bước
đi với các bước chân đều đặn đặt lên nền nhà. Trong kinh điển Pali, có những
miêu tả về cách mà Đức Phật bước đi. Chúng tôi học về những điều đó, cố gắng
hiểu cũng như thực hành cách bước đi như vậy của Đức Phật. Phật giáo Bắc tông, trước khi thọ Sa Di, cũng phải
nằm lòng bốn cuốn luật – Tỳ ni –Sa Di – oai nghi – cảnh sách. Cơ bản huấn luyện
nhân cách cho một tu sĩ bước đầu làm thầy. Tùy khả năng thọ trì mà phát nguyện những giới điều
cần phải có. Giới của xuất gia dành cho những vị quyết tâm thoát ly sanh tử.
Giới của vị xuất gia nam khác với vị xuất gia nữ. Giới của mấy chú tập sự
khác với Sa Di, Sa Di khác với Tỳ Kheo, giới Thức Xoa cũng thế..Do đời sống
xuất gia không bận tâm với cuộc sống thế tục, không đòi hỏi nghề nghiệp, học
vị, nên giới luật càng nhiều càng thúc liễm thân tâm tránh điều giới phạm. Bản thân được trang bị đạo giới và kiến thức nghề
nghiệp, Đức Phật không quên nhắc nhở vê ngôn cách ứng xử đối với chung quanh.
Thế thường, ông bà đã dạy – lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau. Chính quyền nào cũng có bộ Ngoại giao, là bộ phận dùng khả năng ăn
nói truyền đạt chủ trương, đường lối của một chính sách, để đối tác chấp nhận
điều mình truyền đạt. Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt; mỗi chủng loại có một
ngôn ngữ riêng chứ không riêng loài người. Nếu không có ngôn ngữ của chủng loại
làm sao ong và kiến xây dựng được tổ, tha mồi tích lũy, điều khiển ong thợ mà
ong chúa, kiến chúa duy trì đời sống tập thể… Qua ngôn ngữ, thể hiện bản tánh của người truyền
đạt. dù là vị trí bình thường hay có chức quyền trong xã hội, trong Tôn giáo,
ngôn hành đóng vai trò thành bại trong công việc.Một quản lý hay một giám đốc
có lời lẽ ôn tồn khác với lời nói cộc cằn thô lỗ tỏ vẻ quyền uy đối với nhân
viên thuộc cấp. Một trụ trì khôn khéo từng lời nói dễ cảm hóa đồ chúng hơn là
nóng nảy thị uy của kẻ có chức quyền. “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh
công đức chi sơn”. Phật đã dạy thế nhưng mấy ai thể hiện khi việc bất bình xảy
đến. Sân thể hiện qua ngôn từ và hành động. Trong “tứ nhiếp pháp”, ái ngữ đứng hàng thứ hai
sau bố thí. Do tầm quan trọng của lời nói, phần thứ nhì trong 38 pháp hạnh
phúc kinh Điêm lành này, Phật dạy chư Thiên“Có những lời khéo
nói,Là điềm lành tối thượng” Lời nói khôn khéo vui lòng người nghe là truyền đạt
năng lượng yêu thương, thể hiện đức nhân, tăng trưởng phước nghiệp, vì thế Phật
bảo là Điềm lành tối thượng. Trong phần ba, theo Thiền sư Nhất Hạnh chuyển dịch
từ Hán tự: Bài kệ 3 Dịch nghĩa: 4.Hiếu dưỡng mẹ và cha. Biết nuôi nấng vợ con. Việc
làm không xungkhắc, Là điềm lành tối thượng Hiếu
dưỡng mẹ cha là đức tính quan trọng trong nền giáo dục học đường cũng như
trong gia đình, nhất là các nước thuộc châu Á. Việt Nam, Trung Hoa (ngày
xưa), Đại Hàn, Nhật Bản…Việt Nam ngày nay, tuy không đặt nặng việc hiếu dưỡng
trong chương trình giáo dục, nhưng
truyền thống đó vẫn luôn tồn tại; Tinh thần đạo Hiếu trong Phật giáo Bắc
tông, hàng năm, tháng bảy được xem là tháng báo hiếu, cộng thêm tính nghệ thuật
“Hoa hồng cài áo” được phổ biến trong các chùa, nhất là các đơn vị GĐPT, các em tổ chức rất bài
bản, thể hiện giáo dục tính thiết thực hiếu đạo đối với cha mẹ tại buổi lễ,quỳ
dưới chân thân mẫu, dâng lên tâm tư, tình cảm và lời hối lỗi trong năm qua đã
làm cho mẹ, cho cha buồn lòng. Hôn và dâng quà lên đấng sanh thành. Một
số gia đình phát nguyện trai tịnh suốt tháng bảy để cầu siêu thân bằng quyến
thuộc quá vãng.Nếu có điều kiện kinh tế, phát tâm cúng trai Tăng một ngày.
Thường xuyên tụng kinh Vu Lan và sám hối, làm phước, bố thí. Những năm gần
đây, Ơ miền Nam, nhà nhà đua nhau làm phước, không những trong mùa báo hiếu,
mà mùa dịch bệnh, nhiều nhà cung cấp lương thực, thực phẩm cho dân nghèo qua
nhiều hình thức; Vài nơi cung cấp nhà lầu cho cư dân tha hương có chỗ ở, lo
cho họ cơm nước từng bữa. Một cán bộ về hưu mua xe đưa đón bệnh nhân miễn
phí.Cơm miễn phí vào ngày sóc vọng. bình nước đặt vỉa hè, xe bánh mỳ cho người
vô gia cư hoặc ai cần, đến lấy.
. “5.)
Phó thác việc nhà. “Này Thiện
Sinh, chồng đối đãi vợ có năm điều, vợ cũng phải lấy năm việc cung
kính đối với chồng. Những gì là năm? “1.)
Dậy trước. “2.)
Ngồi sau. “3.)
Nói lời hòa nhã. “4.)
Kính nhường tùy thuận. “5.)
Đón trước ý chồng. Vợ
chồng lấy nghĩa và tình xây dựng tổ âm, thì cũng phải có trách nhiệm dạy dỗ con cái cho nên người, để biết cách hiếu dưỡng
cha mẹ mà còn có trách nhiệm với xã hội và có nhân cách trong cuộc sống. Mọi
sinh hoạt trong gia đình đến nghề nghiệp kiếm sống ngoài xã hội thuận với vợ
con và hợp với đạo lý. Đó là nhữngviệc làm đem đến tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Bài
kệ 4, Thiền sư Nhất Hạnh dịch: |
5.
Bố thí, hành đúng pháp,
Giúp quyến thuộc họ hàng,
Hành xử không tỳ vết,
Là điềm lành tối thượng
Bố thí là công hạnh đầu tiên của Tứ nhiếp pháp, cũng
là một trong sàu hạnh Ba La Mật. Ý nghĩa đầu tiên của bố thí là hạnh xả ly; tâm
không hẹp hòi,lòng vị tha…giúp đối trị lòng tham, tính vị kỷ.
Bố thí gồm – tài thí – pháp thí – vô úy thí. Tài thí
là dùng của cải vật chất giúp đỡ kẻ thiếu thốn; tài thí gồm có nội tài và ngoại
tài.Hiến tặng nội tạng, một phần thân thể là nội tài, ngoài ra dùng vật chất để
thí là ngoại tài. hành động hiến tặng vật chất, năng lực hoặc trí huệ cho người
khác là tài thí.
Sự cúng
dường của Ma Ha Ca Diếp
Ca
Diếp có nghĩa là Ẩm Quang, vì thân hình của ngài lúc nào
cũng tỏa ra ánh sáng rực rỡ và trang nghiêm. Trong một tiền
kiếp quá khứ xa xưa vào thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, lúc
đó tôn giả Ca Diếp tiền thân là một thợ bạc chuyên đúc tượng.
Một ngày nọ, có một thiếu nữ nghèo vào tiệm trên tay mang
theo một thoi vàng, nhờ ông đúc một pho tượng Phật. Người thợ bạc thấy
thế liền hỏi : " Vàng ở đâu mà cô có? " Thiếu nữ trả lời :"
Trên đường đi lễ Phật về đã nhặt được."
Người
thợ bạc lấy làm ngạc nhiên hỏi : " Tôi thấy cô nghèo khổ quá,
không đủ cơm ăn, áo mặc, sao cô không đem vàng này bán đi để chi dụng cho
cuộc sống mà lại đem đúc tượng Phật? "
Thiếu
nữ nói : "Vì tôi có phát lời nguyện tại chùa là nếu có đủ thuận
duyên thì tôi sẽ đúc một pho tượng Phật bằng vàng đẻ
cho chúng sinh chiêm ngưỡng lễ bái. Và hôm nay làm được như vậy
là tôi mãn nguyện lắm rồi, không còn mong cầu chi khác
hơn."
Cảm
động trước sự phát tâm bố thí cúng dường quá rộng lớn
của thiếu nữ, người thợ bạc cũng phát tâm : " Được, tôi sẽ
đúc cho cô pho tượng Phật này và tôi cũng xin nguyện cúng dường không
lấy tiền công."
Do
nơi công đức bố thí và cúng dường này mà chín mươi mốt kiếp
sau, hai người sinh ra lúc nào thân hình lúc nào cũng trong
sáng trang nghiêm và gặp được nhiều thiện hữu tri thức, cho
đến kiếp sau cùng sinh vào nước Ấn Độ gặp Phật Thích
Ca xuât gia học đạo đồng chứng quả A La Hán.
Pháp thí là dùng đạo lý hướng dẫn cho người chưa hiểu.
Dùng đạo lý giúp người giải thoát phiền não, gọi là chánh pháp, ngược lại, tà
pháp là đưa con người vào cỏi mê tín tăm tối gọi là pháp thí không chân chánh.
Vô úy thí là đem lại nguồn yên vui an ổn cho người
đang bị lo âu, khủng hoảng…Đáng ra, vô úy thí này nằm trong pháp thí, đem lời
nói chân thật giúp họ hiểu đúng sai đó là pháp thí để họ không còn sợ hải bởi vọng
chấp.
Bố thí bằng tâm hoan hỷ, không vụ lợi, không ý đồ,
không cầu danh, không hận thù, không tình cảm cá nhân, không mong phước
báu...tóm lại không vì bất cứ mục đích nào, gọi là bố thí Ba la mật.
Truyện tích xưa Sự Bố thí của vua A Dục (Asoka)
Có
hai trẻ nhỏ là Jaya và Vijaya đang vui đùa lấy đất sét nắn chơi. Khi
thấy đức Phật đến, chúng rất vui mừng hớn hở. Jaya lấy đất
sét nắn một cái bánh, thành kính cúi đầu cúng dâng cho đức Phật,
Jaya, trong lúc cúng dường cái bánh đất, phát nguyện rằng
sau này sẽ làm vua an trị cả một thế giới, rồi em đọc một bài kệ cúng
dường đức Phật. Đức Phật hoan hỷ đón nhận cái bánh đất
và mỉm cười. Phật mỉm cười, và nói cùng ngài A nan : 'Một
trăm năm, sau khi ta nhập Niết Bàn,đứa bé này sẽ là một vị Chuyển
luân thánh vương trông coi một trong bốn châu thiên hạ, và trong
thành phố Kusumapura ,nó sẽ làm một vị minh vương tên là A Dục
(Ásoka). Sau khi chia phát những xá lợi của ta xong, nó sẽ xây cất
84.000 bảo tháp để làm lợi ích cho muôn loài'.
Tóm lại, bố thí với tâm hoan hỷ, vật thí chính đáng
là nhân tốt cho quả sau này, gọi là hành đúng pháp. Hạnh thí như vậy không chỉ
với mọi người trong xã hội mà ngay cả bà con thân thich, họ hàng một cách chân
chính đều là việc lành tốt nhất.
MANGGALA SUTTA
6. Ghê sợ, tránh điều ác
Không nghiện ngập rượu chè,
Tinh tấn hành thiện pháp,
Là điềm lành tối thượng
Trong đời sống, không thiếu những người tự tay làm
điều ác, giết vật, hại người để mưu lợi một cách lạnh lùng, không sợ tội, không
sợ luật nhân quả. Việc ác có vô số qua mọi hành động, ý nghĩ, lời nói. Biết gạt
người để sinh sống, người bị gạt sẽ khổ vì số tiền bị gạt, họ nghèo, phải vay
mượn, thậm chí có người bị gạt phải kết liễu sự sống, thế mà vẫn cứ gạt, vẫn cướp
đoạt.Ngoài tiền bạc, còn nghề nghiệp, tài sản…cướp gạt để gia đình hưởng thụ
sung túc, không cần biết người bị cướp gạt sẽ khốn khổ ra sao. Mượn danh làm từ
thiện,hùn hạp, mượn danh đồng nghiệp, Phật
tử hay tín hữu của bất cứ tôn giáo nào để đoạt số tiền, ăn chơi hưởng thụ, nuôi
gia đình, nuôi cha mẹ vợ con, bản thân không cảm thấy ghê sợ, lương tâm không cắn
rứt, không tin hậu quả, người đó không khác kẻ “nhất xiển đề” trong nhà Phật.Một
người nhân danh Phật tử Việt kiều, gạt trong nước, ngoài nước, thâm chí một nhà
sư phải vay mượn số tiền lớn cho bà ta, đã bị bà ta gạt trắng tay, sư phải nợ trong khi chùa đang xây dựng.Dĩ nhiên bà ta lừa
gạt rất nhiều nên kinh nghiệm cho con mồi vào tròng dễ dàng. Đã không sợ hậu quả
thì không biết ghê sợ bất cứ việc ác nào mà không làm, thân nhân cũng chịu ảnh
hưởng khi tiêu thụ đồng tiền do người nhà cướp đoạt kẻ khác. Dùng đồng tiền của
con cái, người thân cướp đoạt kẻ khác đem làm từ thiện, chả được phước gì; có
thể qua mắt thế tục nhưng nhân bất thiện không thể được bù trừ bằng việc thiện
khác.Người có lòng nhân phải biết ghê sợ mọi cái ác. Cổ nhân dạy – dù việc thiện
nhỏ không bỏ qua, dù cái ác nhỏ không nên làm; đây là quan trọng bản chất chứ không
cần đến hiện tượng.Ví dụ ăn trộm một nhánh hoa hay ăn trộm một vật quý, bản chất
vẫn là ăn trộm. Ý tưởng ngoại tình, hay gian dâm với người ngoài hôn thê, hôn
phu, vẫn là ngoại tình.Nhìn người làm thiện, sanh tâm hoan hỷ, hay đích thân
làm thiện cảm thấy hoan hỷ cũng đều là hoan hỷ như nhau; quan trọng ở bản chất
hơn là hiện tượng.
***
Kinh Pháp cú phẩm ác, số 125.
Hại người
không ác tâm,
Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu,
Như ngược gió tung bụi.
Chuyện tích kể rằng – chàng thợ săn bất mãn vì suốt
ngày không săn bắt được khi gặp nhà sư lúc sáng đi săn; chiều về lại cũng gặp
nhà sư, ông ta tức giận ra lịnh bầy chó tấn công nhà sư, hoảng sợ, sư trèo lên
cây, thợ săn dùng cây chỉa đâm vào gót chân sư; quá đau sư buông tay rơi tấm y
phủ trùm lên người thợ săn, bầy chó tưởng nhà sư té xuống, xúm nhau cắn chủ đến
chết. Nhà sư bẻ nhánh cây vứt xuống, bầy cho biết cắn nhầm chủ, chúng hoảng sợ
bỏ chạy. Nhà sư áy náy, do mình mà thợ săn chết chăng? Phật giải thích, con
không liên hệ gì đến cái chết đó, ai gieo nhân ác phải gặt quả ác thôi.
Người làm ác do hạt giống ác có sẵn trong tâm, nếu gặp
thuận duyên hỗ trợ cho ác nảy sinh thì hành động ác sẽ không đủ lý trí ngăn cản.
Trong đó, cờ bạc, rượu chè, tham dục, sân hận, si mê… thường làm cho tâm trí mờ
ám, dọn đường cho việc ác sanh sôi nảy nở. Vì thế, nên tránh xa mọi cái có thể
dẫn đến việc ác. Chùa Kỳ Quang, thợ xây vô tình làm rơi bản tên của hủ cốt,
không có gì quan trọng, nhưng kẻ ác tâm lạm dụng kích động quần chúng tạo ác khẩu,gieo
nhân ác cho một bậc chân tu; quần chúng thiếu nhận định, tin vào truyền thông bẩn,
dấy lên cao trào mắng chưởi, đòi chôn sống nhà sư từ cửa miệng một cán bộ đảng
viên, từng là chủ tịch UBND bốn nhiệm kỳ tại quận 12 TP HCM. Phải chăng hạt giống
ác có sẵn trong tâm đã bùng phát khi có điều kiện. Do vậy, người rí nên tránh
xa mọi cám dỗ, kích động bên ngoài, luôn hướng thiện và làm thiện, sẽ giúp
chúng ta có nhân cách đáng kính trong xã hội. Người cực thiện và trầm tĩnh,luôn
là nhân tố an ổn, làm điểm tựa cho mọi người trước cuồng loạn si mê.
Tất cả mọi người hành thiện thì xã hội chắc chắn an
lành, đó là điềm tốt cao quý cho bản thân cũng như cho xã hội..
7. Sống lễ độ, khiêm cung,
Tri túc và tri ân,
Đúng thời, nghe giảng Pháp,
Là điềm lành tối thượng.
Đạo đức người xưa, thường đề cao đức hạnh khiêm tốn. Giáo dục học đường luôn nêu khẩu hiệu – “tiên
học lễ, hậu học văn”; Lễ nghĩa thể hiện tính văn hóa, có văn hóa mà thiếu lễ
nghĩa xem như chưa đủ nhân cách làm người. Nhật Bản, hai năm đầu trẻ con vào
trường chưa được học chữ mà được giáo dục về nhân cách ứng xử với người chung
quanh, học lễ độ đối với người lớn, tự chăm sóc bản thân, té ngã tự đứng lên,
giữ vệ sinh cá nhân, tạo con trẻ tính tự lập và có bản lãnh không ỷ lại.
Phẩm Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa cho thấy một
vị Bồ tát luôn khiêm cung với mọi người bởi vì theo Ngài ai rồi trước sau cũng
sẽ thành Phật nên không khinh người: “
"Lạy người, tôi không dám khinh suất các người.
Vì nhân duyên trước sau, các người sẽ thành Phật.".
Người có nhân cách dạo đức,
chọn vị trí sau cùng, thấp nhất trong hội chúng, sẽ được tôn kính mời lên hàng
đầu. Trong đời sống, chỗ trũng thấp nhất là chỗ tích lũy nhiều nước, kẻ thiếu
thốn nghèo khổ sẽ được nhiều người trong xã hội văn minh quan tâm giúp đỡ; được
học hỏi điều hay từ người khác. Ngược lại, người thể hiện tính cao ngạo, xem
thiên hạ không ra gì, đó là nhân cách vô
văn hóa, chẳng bao giờ được tiếp nhận cái hay cái tốt của người khác, mọi người
thường xa lánh; cây trái biết rũ xuống khi đơm hoa kết trái. Lúa trổ bông biết
lã ngọn cho thơm hạt gạo. Tóm lại, khiêm cung không làm mất nhân cách mà tăng
thêm nhân cách và lễ độ tùy lúc tùy nơi.Người càng hiểu biết đức khiêm cung
càng lớn, bản ngã mòn dần cho dù đứng trước kẻ thấp kém hơn mình.
Cố đại lão Hòa thượng Thiện Hoa có dạy: “Tu là từ mẫn
vật, khiêm tốn tự y, thiên ty tọa xứ, thuyết luật pháp ngữ, kiến quá mặc
nhiên”. Nghĩa là, người tu phải có lòng yêu thương loài vật, phải khiêm tốn
nhún nhường, phải biết bổn phận của mình, phải nên luận bàn đúng theo lời Phật
dạy và chỉ tự xét lỗi mình chớ nên tìm lỗi kẻ khác.
Cho nên Phật dạy: “Hãy thắng người hơn mình bằng đức
tánh khiêm cung.”
“Kinh Thư” nói: “Mãn
chiêu tổn, khiêm thụ ích” (kiêu căng chiêu cảm tổn hại, khiêm cung nhận được lợi
ích.Bất học lễ, vô dĩ lập (Không học lễ, lấy
gì lập thân)
“Liễu Phàm Tứ Huấn”là sách dạy nhân cách, triết lý nhân sinh rất quan trọng của người xưa.
Một khi Ngạo khí bất trưởng thì con ngừi
khó mà trưởng thành về nhân cách cũng như kiến thức. Đức độ chính là
phúc khí, Khiêm nhường biểu hiện hàm dưỡng, Trầm tĩnh là thể
hiện của trí huệ .Trong “Chu Dịch” viết rằng, khiêm tốn là cái gốc của đạo
đức, nhường nhịn đứng đầu mọi loại lễ nghi, phép tắc
Bậc đại trí
quân tử rất hiểu được đạo đức nội tại ẩn giấu của một con người, cho dù vẻ bề
ngoài của họ dường như rất ngờ nghệch, chậm chạp“. Đây chính là điều mà
người xưa vẫn gọi là “Đại trí nhược ngu“, nghĩa là: Người tài giỏi có vẻ
ngoài đần độn.
***
Thánh
nhân luôn có cuộc sống thật giản dị, tuy giản dị mà họ vẫn cảm thấy đầy đủ, vì
thế họ sống an lạc vô cùng –Thiểu dục tri túc - Tri túc thường lạc. Người sống
biết đủ thì lòng tham không làm chủ, không bị sai sử chạy theo cám dỗ; Người thấy
cái gì cũng ham muốn, cho dù thật sự không cần thiết, cũng bỏ tiền mua về chất
đầy nhà, thay vì đồng tiền đó có thể giúp cho người đói một bữa cơm. Người biết
hạn chế lòng ham muốn là người sống an lạc, ngược lại cứ chạy theo cám đỗ thí
suốt đời không bao giờ thỏa mãn. Phương tiện vật chất mỗi ngày một cải tiến, thấy
cái gì cũng mới lạ, cũng thích, đó là người không làm chủ được bản thân, không
khống chế được cảm thọ, dĩ nhiên lúc nào cũng cảm thấy thiếu thốn khổ đau,
không bao giờ thỏa mãn an vui với hiện tại.Vật chất đã không tiết chế được thì
sắc dục làm sao khỏi lún sâu. Người có tâm tham dục, cho dù vợ chồng xứng đôi,
vẫn thèm thuồng khi gặp người khác phái. Người tu không thể để lòng tham dục khống
chế. Tinh thần sống giản dị, tri túc giúp hành giả có đời sống an lạc hạnh phức
thực tại. Nguyễn Công Trứ trong bài “Chữ nhàn”:
Trí
túc tiện túc, đãi túc hà thời túc
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn
Nghĩa
là:
Biết
đủ là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ?
Biết nhàn là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn?
Trong
đời người, khi ra khỏi lòng mẹ, ai cũng phải bẫm thọ ơn nghĩa cuộc sống. từ giọt
sữa, muỗng cháo, manh tả, tấm áo, đến khi khôn lớn, mọi thứ từ cái ăn cái mặc đều
được cuộc đời cung ứng;sống trên đống vàng mà không có những tiện nghi vật chất
do người khác đem lại, liệu có sống được? cho dù trong rừng, trên núi dưới biển
cũng phải thọ dụng cây trái, sinh vật của
đất trời, tất cả là ân nghĩa mà nhà Phật dạy – “Tứ trọng ân”.Người sống biết
tri ân là công hạnh đức độ tăng trưởng,
kẻ vô ơn cuộc sống chả ra gì. Tri
ân và đền đáp-
Khi ta biết tri ân thì cũng sẽ tìm cách đền
đáp. Không chỉ đền đáp vật chất mà cần thể hiện tình cảm qua nhân cách. Không
làm thất vọng người đã ban ơn cho
mình-
Một người luôn biết tri ân
thì tâm hồn sẽ dần sáng, vơi đi những oán hận, hướng tới đời sống thiện lành.
Tri ân là chìa khóa thành công của mỗi con người. Người biết tri ân là người
luôn khiêm tốn, nhã nhặn.Muốn hiểu sâu những đức tính đó, không những học hỏi từ
những cao nhân cổ đức, Thánh hiền,mà cần học sâu giáo lý đức Phật để tăng trưởng lòng nhân, đức thiện tiến hóa
tâm thức, hợp thời , hợp căn cơ với từng chủng loại.
Đây là một trong những liệu pháp tối ưu cho một
đời người trong cuộc sống.
8.
Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất.
Kiên
trì là một đức tính cần phải có để vượt qua mọi chướng ngại nếu muốn đi đến
thành công. Trong cuộc sống, không ai mà không có chướng duyên khi bắt tay làm
một việc nào đó.Ví dụ, sức khỏe kém, bệnh nhiều, sau thời gian dùng thuốc không
khỏi, bạn bèn nhịn ăn để tiêu độc trong cơ thể. Ba ngày đầu, cái đói cồn cào
xúi dục bạn phải ăn, tại sao phải nhịn! tâm lý bịa ra đủ mọi lý do để bạn bỏ cuộc;
sau khi thắng được mọi cám dỗ, bạn bè, người thân lại cản ngăn việc nhịn ăn,
cho đó là phản khoa học, sẽ đưa đến tai hại cho bao tử, giảm sức khỏe, mất năng
lượng…Họ mời những thức ăn bạn thường khoái khẩu; trước cám dỗ khó xử, bạn kiên
trì vượt qua, đó là một thành công cho một chủ đích vạch ra.Cũng thế,để đi đến
thành công cho một việc, kiên trì là động
lực căn bản vượt mọi chướng ngại.Trong kiên trì còn có tính chất lạc quan, vì
chóng chán đã ươm mầm thất bại.Ông bà ta có câu- “có công mài sắt có ngày nên
kim”. Trước khi đi đến thành công, chắc chắn phải gặp thất bại; thất bại nung
chí kiên trì, sẽ gặt hái được những thành công theo chí nguyện;đây là một nghị
lực.Tuổi trẻ sống trong hoàn cảnh được
cung ứng mọi thuận lợi trong gia đình, ra xã hội, gặp trở ngại đầu tiên dễ nản
chí, thất vọng, bỏ cuộc.Nhiều học sinh nghèo, không đủ điều kiện ăn học, họ
kiên trì tự học, dù thi trượt nhiều lần vẫn không nản, cuối cùng thành công là
sự tưởng thưởng cho ý chí kiên trì.Bằng cấp không phải là điều kiện tối ưu để
đi đến thành công; năng lực, trình độ, khả năng và ý chí vượt khó, đó là tiêu
chuẩn để các công ty, doanh nghiệp xét đoán thu nạp nhân viên.
Xác
định mục tiêu để phấn đấu, mới không lạc hướng để kiên trì đi đến thành công. Cuộc sống thật ngắn ngủi,
mục tiêu đưa ra để phấn đấu cần hợp lý, không uổng phí thời gian và đời người.Thất
bại không phải là con đường chấm dứt tương lai. Thất bại và đau khổ là chất liệu
kiên trì đi đến thành công.Đừng mơ tưởng sự thành công của người khác mà chán nản
sự thất bại hôm nay của mình, hãy thể hiện nghị lực để kiên trì vượt khó.Hố
càng sâu thì đỉnh càng cao, càng cao danh vọng càng dày gian nan.Kiên trì thể
hiện nghị lực của mình.
Song song với sự kiên trì, biết nhận lỗi, biết phục
thiện giúp ta thăng tiến giữa sự ngưỡng mộ và trân quý của mọi người. Đức Phật
dạy – “ Trên đời có hai hạng người đáng quý nhất, một là người không mắc phải lỗi
lầm, hai là người có lỗi nhưng biết sai và phục thiện”; phục thiện là biết nghe
theo điều phải, làm theo lẽ phải sau khi sai phạm. Phục thiện ẩn chứa niềm ăn
năn hối lỗi. Các Tôn giáo đều tán thán tinh thần phục thiện của người biết sửa
sai.Tín hữu Kito giáo khi phạm phải sai lầm, thường vỗ ngực nhận – lỗi tại tôi,
lỗi tại tôi mọi đàng, đến tòa giải tội xưng với vị Linh mục, hứa phục thiện,
không tái phạm. Trong nhà Phật, khi phạm lỗi, tự đối diện bàn Phật, phát lồ sám
hối, nguyện không tái phạm. Mỗi tháng có hai kỳ sám hối tập thể.
Phục thiện là thái độ thành khẩn tự tâm để mình tiến
bộ, không sai phạm tiếp; giúp trở thành con người lương thiện, trong sáng hơn.
Tạo niềm tin yêu và kính trọng với mọi người; đây cũng là yếu tố giúp ta thăng
tiến dễ dàng trong cuộc sống.
Dĩ nhiên trong cuộc sống, điều xấu dễ gặp hơn cái tốt. Pháp cú phẩm Tâm dạy - 35. Khó nắm giữ,
khinh động
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm;
Tâm điều, an lạc đến.
36. Tâm khó thấy, tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ, an lạc đến.
Muốn có sự bảo hộ, nhắc nhở thường xuyên, ta nên gần
gủi, thân cận người tốt, các vị chân tu, bạn hiền, để trao dồi học hỏi giáo
pháp; Thường xuyên đàm đạo, không những tăng trưởng niềm tin, phát triển kiến
thức mà còn vun bồ đạo lực. Kinh Pháp cú phẩm Giáo học dạy:
Chánh kiến học Đạo tăng
Trí tuệ soi thế gian
Phước sanh trăm ngàn đời
Vĩnh không đọa đường ác.
Người Phật tử khi đã chọn
con đường tu tập, nên hạn chế mọi sinh hoạt giải trí không cần thiết; cuộc sống
ngắn ngủi, không nên phung phí thời gian vào những việc vô bổ, dành thời gian
cho việc học hỏi, nghiên cứu, tham vấn và hành trì.Dù sống thánh thiện,
luôn làm từ thiện, hộ đạo, làm phật sự
cũng chưa đủ cho sự tu tập. Chọn một pháp môn để chuyên tu quan trọng hơn việc
làm phúc bề ngoài. Phúc huệ phải song hành. Được như thế là điềm lành tối thượng
cho một kiếp sống tạm bợ hiện nay.
9.Sống
tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết-bàn
Là phước đức lớn nhất.
Tinh cần là luôn siêng
năng, cần mẫn. Phật dạy có bốn loại tinh cần:
“1- Tinh cần chế ngự
2-
Tinh cần đoạn tận
3-
Tinh cần tu tập
4-
Tinh cần hộ trì”.
Luôn cần mẫn chế ngự những
ham muốn, tâm bất thiện. Trong tâm thức dung chứa rất nhiều hạt giống bất thiện;
tham muốn mọi thứ, dễ nóng giận ganh ghét, đố kỵ, thich ăn ngon mặc đẹp, ham ngủ,
xem phim, nghe ngóng chuyện thị phi…tất cả là những điều bất thiện của người
tu; vì thế, chế ngự những bất thiện đó, giúp lục căn không bị tác động bởi lục
trần, tâm không bị chi phối ngoại cảnh, nhiếp tâm việc hành trì dễ dàng.
Tinh cần đoạn tận là
siêng năng chấm dứt mọi duyên phát khởi cho tâm. Dục ẩn dưới mọi hình thức gọi
là ham muốn; thập kiết sử cũng thế, tâm luôn theo dõi mọi sanh biến từ tưởng thức
đưa đến hành động; đi đứng, nằm ngồi, nói năn phải được kiểm soát bằng chánh niệm.
Nhiếp tâm để đoạn mọi tạp niệm gọi là đoạn tận từ cội gốc.
Đam mê truyền hình, đam
mê thời sự, đam mê điện thoại cảm ứng, đam mê tiện nghi vật chất…tóm lại mọi thứ
đam mê trở thành thói quen làm mất thời giờ của người tu tập. Hành xử như một
phương tiện, khác với đam mê, vì đam mê trở thành thói quen,thói quen biến
thành bản chất và nhân cách. Vì thế, cần đoạn tận mọi đam mê cám dỗ.Do đam mê,
năng lượng bị phân tán vào những việc không cần thiết, tinh thần suy nhược, ảnh
hưởng đến sức khỏe, hay mệt mỏi, luôn buồn ngủ, thiếu tập trung; thích hoạt động
bên ngoài hơn là chuyên tâm hướng nội cho pháp hành.Càng đam mê càng tạo nghiệp,
càng tích lũy càng nặng nghiệp.
Khi đoạn tận những cám dỗ thì việc tu tập sẽ tiến
triển, chuyên cần là việc đương nhiên như cái trớn bánh xe được lăn,từ đó, các
căn được hộ trì, không bị giao động khi tiếp xúc với pháp trần, tâm không tạp
niệm. thì tâm hành và thân hành được hiệp nhất.
Tâm chuyên hướng nội, theo dõi mọi tâm hành và thân
hành là tâm luôn luôn tỉnh thức trước ngoại cảnh. Pháp hành cũng từ đó được chuyên
nhất. Tùy căn cơ chọn một pháp hành
tương thích; Những pháp hành giúp người tu giải quyết mọi khổ đau hiện tại,
tâm giải thoát, lòng từ phát triển và trí tuệ phát sanh. Đó là giáo lý nhiệm mầu
đạt đến Niết Bàn.
Vậy Niết Bàn là gì? Niết-bàn là mục đích tu hành cứu
cánh của mọi trường phái Phật
giáo.
Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn triệt Luân
hồi Đó
là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện
là tham, sân và si. Trưởng lão tăng kệ ghi (Chân Nguyên
dịch Pāli-Việt): Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn
lửa tham
lam, sân hận, ngu si đã bị dập tắt.
[PHẬT NGÔN]
Các Tỳ Kheo, có hai thứ Niết bàn Những
gì là hai? Niết bàn có dư y và Niết bàn không dư y. Các Tỳ kheo, thế nào là Niết
bàn có dư y? Các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo là bậc A la hán, hết các lậu hoặc,
hoàn thành phạm hạnh, làm xong việc nên làm, đặt xuống gánh nặng, đạt đến mục
đích, hết sạch hữu kiết sử, giải thoát do chánh trí. Nơi vị ấy, 5 căn vẫn tồn tại;
Vì bản thân không bị tiêu hoại nên vị ấy lý giải điều vừa ý và điều không vừa
ý, và cảm giác vui khổ. Các Tỳ kheo, nơi vị ấy tham hết, sân hết, si hết, ấy gọi
là Niết bàn có dư y.
Các Tỳ kheo, thế nào gọi là Niết bàn
không dư y? Các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo là bậc A la hán, hết các lậu hoặc,
hoàn thành phạm hạnh, làm xong việc nên làm, đặt xuống gánh nặng, đạt đến mục
đích, hết sạch hữu kiết sử, giải thoát do chánh trí. Các Tỳ kheo, ở đây, nơi vị
ấy, tất cả cảm giác không hỷ lạc đều mát dịu; Các Tỳ kheo, ấy gọi là Niết bàn
không dư y.
Các Tỳ kheo, đây là hai thứ Niết bàn.
Theo HT T.Thanh Từ thì
trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết
Bàn không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng), Vô
sanh (không còn sanh diệt) và Giải thoát v.v... những nghĩa
này nhằm chỉ cho người đạt đạo sống trong trạng thái tâm thể hoàn
toàn vắng lặng, dứt hết vọng tưởng vô minh.
Do trình độ giác ngộ khác nhau nên trong kinh chia ra bốn thứ Niết
Bàn:
1. Niết Bàn Hữu Dư Y: Niết
Bàn đã dứt sạch phiền não vọng hoặc trong ba cõi, nhưng còn
thân của nghiệp báo dư thừa.
2. Niết Bàn Vô Dư Y: Niết
Bàn đã dứt sạch phiền não hữu lậu và không còn mang thân của nghiệp
báo (dứt hết uẩn thân).
3. Niết Bàn Tự Tánh: Niết
Bàn tự tánh sẵn có của chúng sanh, nó vốn sẵn có tánh Niết
Bàn không phải tu tập mới có. Như mặt gương tánh vốn sạch không
phải đợi lau chùi mới hiện.
4. Niết Bàn Vô Trụ Xứ: Niết
Bàn không chỗ nơi. Các vị Bồ Tát khi giác ngộ, lao mình
trong lục đạo giáo hóa chúng sanh, lấy sự sanh tử của chúng
sanh làm cảnh giới. Tuy ra vào sanh tử nhưng lúc nào
cũng tự tại vô ngại.
Hai thứ Niết
Bàn trên là của hàng Nhị thừa, hai thứ Niết Bàn dưới chỉ
riêng hàng Đại thừa mới có.
Như vậy, Niết Bàn theo
quan điểm Phật giáo phát triển, thân còn sống trong hiện tại hay trôi lăn trong
6 cõi luân hồn, các vị Bồ Tát nhập pháp giới để giáo hóa chúng sanh vẫn thể hiện
tự tánh Niết Bàn, lúc nào cũng tự tại vô ngại.
Hành giả sống tinh cần, luôn
tỉnh thức, luôn học hỏi thực hành giáo lý nhiệm mầu,cuộc sống thật đơn giản, ít
ham muốn, ít chú trọng hình tướng, dù là hình tướng tín ngưỡng Tôn giáo chắc chắn
sẽ thấu đạt Niết Bàn tại thế. Được như thế là phúc báu lớn nhất.
MANGALA SUUTA (tiếp theo)
10.Khi xúc chạm việc đời, |
Xúc cảnh sanh tình là muốn
nói lục căn giao tiếp lục trần sanh ra lục thức, từ thức mới sanh cảm thọ., đưa
đến yêu, ghét, mừng lo,thích, chán… Cái gì thích , hạp với tâm dục thì hạt giống
đó luôn ám ảnh, thỉnh thoảng đầu óc nghỉ tưởng về nó, lấy đó làm niềm vui thích
thú, sanh ra nhiều tưởng tượng.không đạt được như ý thì cảm thấy khổ; chán ghét
hay lo sợ cũng thế, tâm thức luôn ám ảnh điều mình lo sợ; gặp nhau là khổ (oán
tắng hội khổ). Thương yêu không gần nhau, bị chia ly
cũng khổ, đó là những điều
kiện đưa đến bát nạn tam đồ cu ly khổ . Như vậy, tam đồ là hỏa đồ (đường lửa), huyết
đồ (đường máu), và đao binh đồ (đường đao binh). Bát nạn gồm có: địa ngục- ngạ quỷ- súc sinh- sinh lên cõi trời Trường thọ - sinh ở Uất đan việt hay còn gọi là Bắc cu lô
châu hoặc Thắng xứ - đui điếc câm ngọng -
thế trí biện thông - sinh trước Phật và sau Phật. Cuộc sống không mấy ai
làm chủ được cảm xúc, do cảm xúc mới sanh tình cảm, tình ái, tình thương yêu
ghét…Nghệ sĩ thường dâng trào cảm xúc để có những tác phẩm nói lên nỗi lòng
như:
Có những cảm xúc đưa đến sa đọa, sầu thảm bi ai, như tằm nhả tơ để lại cho đời
những cung bậc trầm thống giá trị về nghệ
thuật, tự bản thân dày vò đau khổ. Có những cảm xúc mang tư tưởng chính
trị khích động quần chúng, cũng có những nghệ sĩ biết sử dụng khả năng hướng cảm
xúc cho ra những nhạc phẩm phục vụ đức tin Tôn giáo, giúp quần chúng thích nghệ
thuật, âm nhạc, thơ văn hướng về đạo. Đứng trước một tôn tượng ta có thể sanh cảm
xúc, tuy đó là cảm xúc thánh thiện nhưng theo tinh thần tu hướng giải thoát, nó
vẫn là hạt giống đam mê, ưa thích, đó gọi là xúc cảnh sanh tình, chướng ngại
trên đường tu.
Từ tiếp xúc với đời sống
đến cá nhân, luôn bị tác động cảm xúc, Phật khuyên không nên giao động, tránh
được sầu khổ thương đau, nhẹ thì tự kỷ, nặng thì tự tử, cuộc sống như thế uổng
phí kiếp người, không giải quyết được gì, biết bao giờ có được thân người tiếp
tục. Trường đời là bài học khảo thí, không hiểu đạo Phật để giữ thân tâm tiến
hóa trên chánh đạo thì dễ rơi vào đường ác, khổ đau. Quan trọng là giữ tâm bình
thản trước mọi giao tiếp, không vui mừng, không giận hờn lo âu, đó được gọi là
tâm bình thường.
Đến là nhân duyên, đi là
nhân duyên. Cho nên cần phải "Tùy duyên mà hằng bất biến, bất biến mà hằng
tùy duyên".Đối diện với hiện thực mà vượt qua mọi cám dỗ, cảm thọ mới là đấng
trượng phu, chí quân tử, đó là mẫu người chuyên tu giải thoát mọi nghiệp chướng.Không
ai có thể làm cho ta đau khổ nếu tâm ta không chiêu cảm sự khổ đau. Cứ dòm ngó
lỗi người như tự đem rác vào mình. Không ai có nghĩa vụ làm vừa lòng ta thì ta
cũng không thể bắt ai phải theo ý mình. Qua lục căn tiếp xúc với lục trần sanh
ra lục thức, phát sanh cảm thọ.
Lục nhập |
|
Sáu căn (sáu nội xứ) |
Sáu trần (sáu ngoại xứ) |
1. Mắt (nhãn xứ) |
Sắc (sắc xứ) |
2. Tai (nhĩ xứ) |
Âm thanh (thanh xứ) |
3. Mũi (tỷ xứ) |
Hương (hương xứ) |
4. Lưỡi (thiệt xứ) |
Vị (vị xứ) |
5. Thân (thân xứ) |
Xúc, chạm (xúc xứ) |
6. Ý (ý xứ) |
Pháp (pháp xứ) |
Đức Phật dạy: Trong
Kinh "Bài giảng về lửa" (Adittapariyaya Sutta, SN 35.28), được thuyết
một vài tháng sau khi Đức Phật giác ngộ, Đức Phật mô tả tất cả các xứ và các
quá trình tâm thức liên quan như sau:
"Này các tỷ-kheo, tất cả đang bốc
cháy. Tất cả đang bốc cháy là gì? Mắt là đang bốc cháy. Sắc là đang bốc cháy.
Thức tại mắt là đang bốc cháy. Xúc tại mắt là đang bốc cháy. Và bất kể cái gì
sinh ra theo duyên của Xúc tại mắt - được cảm thọ như là lạc, khổ hoặc bất khổ
bất lạc - cũng đang bốc cháy. Bốc cháy với điều gì? Bốc cháy với ngọn lửa tham,
ngọn lửa sân, ngọn lửa si. Bốc cháy, ta nói cho các ngài, với sanh, già và chết,
với sầu, bi, khổ, ưu và não"
Kinh Niệm xứ (Satipatthana Sutta) (MN
10) Đức Phật đã hướng dẫn các Tỷ-Kheo cách thiền trên các nội-ngoại xứ và phát
triển của kiết sử như sau:
"Này các Tỷ kheo, thế nào là Tỷ
kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Sáu Nội Ngoại xứ?
Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo tuệ tri
con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ
tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và
với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử
đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy... và
tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... và tuệ tri mũi và tuệ tri các hương... và
tuệ tri lưỡi và tuệ tri các vị... và tuệ tri thân và tuệ tri các xúc... và tuệ
tri ý và tuệ tri các pháp...
Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội
pháp... không chấp trước một vật gì trên đời."
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng:
“Khi thấy,nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô
minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt,
đó là Niết bàn”.
Trong các phiền não, chỉ có sân hận là thô bạo nhất,
bởi thế cổ nhân có nói:”Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng
môn khai”, là khi phát
sinh một niềm giận hờn tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Tệ hại hơn nữa,
một khi tham, sân, si phát khởi, thì dâm, sát, đạo, vọng sẽ nảy sinh. Đây
là bốn đại ác nghiệp mà người tu Phật phải
tránh xa.Xã hội ngày nay giết nhau dễ dàng do tâm sân không được kềm chế.
Tham dục lúc nào cũng rực lửa đưa đến hành động phạm tội do ái dục không được lạnh
nguội mà tu sĩ Tôn giáo thường phạm ấu dâm.
Cổ đức nói: “Ái bất trọng
bất sinh Ta-bà”. Nghĩa là tình ái không nặng nề thì không sinh vào thế giới
này. Tình ái là nguồn gốc của sinh mệnh. Theo “Mười hai nhân duyên”1 của
Phật giáo, con người do vì có tình ái, cho nên luân hồi sinh tử; con người do
vì có tình cảm, vì vậy gọi là “hữu tình chúng sinh”.
Phật dạy rằng:
“A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng
như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành
được”.
Phật dạy:”Thanh tịnh
pháp thân là chơn tánh thanh tịnh, không sanh không diệt,
không hoại không thành. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân
mà không thấy pháp thân. Tại chổ phàm phu gọi là tâm tánh,
tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong cõi trời đất gọi
là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh và tại chổ
chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân”.
Bản ngã càng lớn ác pháp càng dễ sanh do tam độc chủ động sai khiến, vì thế,
khi giao tiếp ngoại cảnh, sống an nhiên, không uế tạp phiền não; Bát phong suy
bất động là khen chê, được mất, vinh nhục, buồn vui. Ba điềm
lành khác: không còn sầu não sống an nhiên không còn uế
nhiễm . Đó là điềm lành tột bực đem lại hạnh phúc cho cuộc sống.
11. "Ai sống được như thế
Ði đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân."
11 bài kệ là bản hướng dẫn
tổng quát cách sống, vào đầu tiên Phật dạy không thân cận kẻ ác, ý tưởng, hành động, lời nói, đều ươm mầm đạo đức; lối hành sử trong
cuộc đời vừa lợi mình vừa lợi người; từ trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng con
cháu cho đến bạn bè, tín ngưỡng…đều là nên tảng, là căn bản đạo đức; ta thấy, tuy Phật giảng
cho chư Thiên nhưng không khác nhân
gian. Chư Thiên xuất hiện giữa đêm tối, ánh sáng chói lòa, được Phật khai thị,
thế thì giữa đêm trường vô minh tịch mịch cõi nhân gian, được Phật đem ánh sáng
Phật pháp khai thị làm sáng tỏ nhân cách sống; tuy đạo đức nhân cách và đạo đức
xử thế, vẫn không lìa xa pháp hành giải thoát. Vì thế được gọi là – Phật pháp tại
thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác.
Phật xác định, ai sống được như thế, đến đâu cũng an toàn, tới đâu cũng vững mạnh.Vì
một khi tâm an trụ, không chiêu cảm chướng duyên thì cuộc sống không chướng ngại,
nếu có chăng là do nhân quá khứ, cũng sẽ được hóa giải bằng lòng từ và vô niệm
mình đang hành trì.
Chư Tổ thường nói – Bồ
tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả; chỉ sợ tạo nhân xấu chứ không sợ quả xấu đến với
mình. Một nhà sư Tây Tạng sau mấy mươi năm bị cầm tù tra khảo hành hạ, trốn
sang được Ấn Độ, gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài hỏi – trong suốt thời gian đó,
con sợ gì nhất? – ngài đáp – con chỉ sợ đánh mất lòng từ bi thôi! Đúng là người
nuôi dưỡng tâm từ cực thiện trước ác ma mà vẫn không lay chuyển. Đó lá sự thử
thách công hạnh tu tập. Vô ma khảo bất thành đại đạo, không bị nghịch duyên làm
sao biết đạo lực và công năng tu tập đến đâu.
Các bậc Thánh hạnh, họ cảm
ơn đời, cảm ơn mọi nghịch cảnh đã giúp cho họ một bài học, thử thách để tiến
hóa. Hành giả khác với thế thường là can đảm đối diện với mọi chướng duyên nghịch
cảnh, không than vãn, sợ sệt, trốn chạy, cũng không khiên cưỡng chấp nhận, nhẫn
nhục chịu đựng, vì tâm các ngài không còn đối tượng thuận nghịch, lúc đó gọi là
thỏng tay vào chợ. Đã không cảm thấy chướng duyên trở ngại, thì đi đâu, sống
đâu cũng tự tại an nhiên.
Cho dù chưa giải thoát
hay đạt đến trạng thái Niết Bàn hữu dư y, ngay đó hành giả cũng đã cảm thấy tự
tại của Niết bàn tự tánh. Sống tự tại là nguồn hạnh phúc, phước báu vô biên của
người biết tu!
Hãy học thật kỷ , hàng
ngày quán xét thân tâm, áp dụng 38 pháp hành Phật dạy, chắc chắn cuộc sống thật
an toàn hạnh phúc giữa cõi tạm.
MINH MẪN
21/9/2020 (HẾT)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét