Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023

NHỮNG SỢI TÓC

 

Thời gian gần đây, chùa Ba Vàng được cộng đồng mạng chiếu cố khá  chặt chẽ, từ vụ giải vong nhiều tai tiếng cho đến cung thỉnh xá lợi tóc của đức Phật từ Myanmar về.

Phật giáo Bắc tông, khi du nhập vào Trung Hoa, suốt thời gian xã hội hóa, ít nhiều hòa chung văn hóa bản địa, trong đó có tín ngưỡng và tập quán đương thời.

Du nhập vào Việt Nam, có Phật giáo tín ngưỡng dân gian và Phật giáo xuất thế gian, có nghĩa Phật giáo thuần túy không bị pha tạp, chuyên tu giải thoát bằng Thiền định, nặng về hành trì hơn mang tính Tôn giáo.

Giải vong không có trong Phật giáo nguyên thủy, nhưng để cho quần chúng quen với tập tục cổ xưa gần với Phật giáo, Phật giáo Bắc tông phương tiện áp dụng ma chay cúng kiến của Thần giáo, cúng Thai nhi và nhiều hình thức khác, trong đó có cúng “giải oan”. Tuy kinh điển nguyên thủy không đề cập đến oan gia trái chủ, nhưng luật nhân quả trong cuộc sống không tránh khỏi ân oán với nhau, mang theo nghiệp thức giữa thế giới vô hình với thế giới hữu hình.

Dưới nhãn quan thế gian pháp vẫn chịu tác động của luật nhân quả, nhưng xuất thế gian pháp, chư Phật Bồ Tát, La Hán xem chúng là mộng, không thực. Chừng nào chứng đắc toàn giác, nghiệp thức không còn, gọi là Bạch tịnh thức thì nhân quả là giấc mộng. Vì thế, việc giải oan trở thành nghi thức trong Phật giáo Bắc tông (cầu siêu là một hình thức đơn giản), nhưng việc giải oan bạt độ chỉ xuất hiện trong các đàn chẩn tế, thông thường các chùa ít thực hiện ngoài việc cầu siêu.Những năm trước, khi Làng Mai về Việt Nam, Thiền sư T.Nhất Hạnh đã tổ chức cầu siêu bạt độ cho ba miền; giải oan là một phần ý nghĩa trong cầu siêu bạt độ.

Sợi tóc Xá lợi, có nguồn gốc từ thời Phật còn tại thế. Khi chùa Ba Vàng cung thỉnh Xá lợi tóc từ Myanmar về, rộ lên nhiều phản bác mang tính tiêu cực.

“Theo lịch sử ngôi chùa, công trình kiến trúc tôn giáo này ban đầu được người dân tộc Mon xây dựng cách đây 2.500 năm. Truyền thuyết kể rằng, hai anh em Tapussa và Bhalika đã gặp Đức Phật Thích ca Mâu ni vừa mới giác ngộ và đã cúng dường Ngài.

Đáp lại, Đức Phật đã tặng cho hai anh em 8 sợi tóc của Ngài để họ dâng lên Vua Yangon Okkalapa. Nhà vua ra lệnh xây chùa để cất giữ một số sợi tóc trong khi những sợi tóc khác được cất giữ tại chùa Shwedagon. Do có nhiều thánh tích của Đức Phật nên cả hai ngôi chùa đều trở thành trung tâm hành hương của các Phật tử.” Theo nguồn   Description: VOV.VN trên Google News

Thế thì nguồn gốc sợi tóc của Phật là có thật.Nhiều dư luận không nắm rõ nguồn gốc nên suy luận không đúng: - Phật hỏa thiêu làm gì còn tóc,Phật cạo đầu ai ở đó nhặt tóc để dành…Khi Phật ra khỏi hoàng thành vượt qua dòng sông Anoma, dùng kiếm cắt tóc, đưa áo và kiếm cho Sa Nặc đem về hoàng cung, như vậy Phật chỉ cắt tóc chứ không cạo tóc.Do công năng nội lực của Phật, tóc xoắn ốc trên đỉnh nhục kế ( một trong 32 tướng tốt) là hình tượng tôn thờ ngày nay cả Bắc và Nam tông Phật giáo.

Miền Tây Nam bộ, thỉnh thoảng xuất hiện vài ông Đạo đầu tóc đanh cứng vấn cao như tổ tò vò không có gì lạ

Có một truyền thuyết  mang tính xuyên tạc là khi Phật thiền định giữa trời nắng, ốc bưu bò lên che đầu đức Phật, sau khi ốc chết rơi xuống đếm được 108 con, từ đó xâu chuổi có 108 hạt ( chuyện xâu chuổi sẽ nói vào dịp khác). Trong giáo sử, Phật ở dưới gốc cây hoặc trong hương thất, làm gì ở ngoài nắng mà có ốc bưu che đầu. Ngay khi chưa chứng quả, ngài ngồi vẫn có rắn bảy đầu che nắng che mưa gần sông Ni Liên Thuyền, thì quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác cần gì đến ốc bưu! Nguồn tâm tiêu cực thời nào cũng có do đố kỵ mà ra.

Trở lại vấn đề Xá lợi tóc, ai bảo đó là loại cỏ pilli, chả lẽ trên 2500 năm được xem là quốc bảo, Myanmar lừa dối các nhà khoa học được sao? Do trình độ hiểu biết hạn chế về khoa học và Phật giáo, nên suy luận, lạc dẫn quần chúng theo hướng tiêu cực. chẳng những thế chính quyền Quảng Ninh do cộng đồng mạng tác động muốn vào cuộc, để làm gì trước những tâm linh huyền bí? Trước đây chính quyền cũng vào cuộc khi những tai tiếng rộ nở tại Ba Vàng, rồi chẳng khai thác được gì, đâu lại vào đấy.Cũng đừng có những ngôn từ xúc phạm đức Phật như một vài comment trên cộng đồng mạng, các Thánh nhân không xúc phạm đến chúng ta.

Không phải dư luận báo chí tất cả đều đúng. Quần chúng luôn tin cộng đồng mạng,căn cứ một chiều sẽ bị lạc dẫn đưa đến hiểu sai, sanh tâm phẩn nộ, bài xích đúng với mưu đồ của những ai ganh ăn ghét ở. Kinh nghiệm cho ta thấy những gì mắt thấy tai nghe chưa chắc là đúng.

Mùa nông nghiệp thất thu xưa kia tại Trung Hoa, thầy trò đức Khổng Tử được dân cho ít gạo, đệ tử nấu cơm, Khổng Tử nằm trên võng từ xa nhìn thấy đệ tử mở nắp vung bốc cơm cho vào miệng, ngài than – đói quá mới thấy được tấm lòng của đệ tử như thế nào; lúc cơm lên mâm, người đệ tử không ăn, nhường cho thầy và các huynh đệ, nói: lúc nảy cơm sôi bị màng nhện rơi vào, con hớt phần trên, không dám bỏ sợ tội, nên con phải ăn.Khổng Tử tự trách – sao mình vội phán xét, thấy vậy mà không phải vậy!

Trong cuộc sống giác quan hay bị đánh lừa bởi vọng tưởng, nhìn bề ngoài vội đánh giá chưa chắc đã đúng nếu không tìm hiểu thực chất của vấn đề. Hiện tượng và bản chất là hai mặt của một sự kiện, nhìn hiện tượng để phán đoán, đánh giá khó mà chính xác. Tâm hồ nghi, tâm đố kỵ thường ít xít cho nhiều làm quan trọng hóa vấn đề đưa quần chúng vào đường  lầm tưởng.

Khởi đầu chùa Ba Vàng được quan tâm do nội bộ Phật giáo hiềm khích lẫn nhau, lấy việc giải oan chiêu mộ bá tánh quá đông, cách nhận tiền công khai giữa rừng tín đồ là hình ảnh thiếu tế nhị để có cớ đối thủ bài xích.Tiền bá tánh cúng là do hỷ tâm, quan trọng là đồng tiền được sử dụng như thế nào.Từ những đố kỵ vụn vặt đưa đến tàn hại lẫn nhau. Youtuber thường câu view, hoặc do ai đó khích động biến thành một cao trào mỗi khi Ba Vàng diễn ra sự kiện.

Chùa Ba Vàng luôn tạo ra những sự kiện bị tai tiếng, có lẽ thầy Thích Trúc Thái Minh  nghĩ rằng việc làm công khai trong sáng tại sao phải che dấu, đó là sơ suất cho những tầm nhìn soi móc. Thiết nghĩ, những sinh hoạt thuộc phạm vi Tôn giáo, muốn phán xét cần phải hiểu rõ giáo lý, giáo điều của Tôn giáo mới đánh giá, nhìn sự việc mới chính xác.

Cuộc sống cần bao dung, giúp nhau xây đựng tốt hơn, đó là tình người, là nhân cách sống, vì không ai là hoàn hảo. Thánh kinh Thiên Chúa từng dạy – “các ngươi đừng đoán xét ai,để mình khỏi bị đoán xét”( Ma thi ơ 7:1). Lục tổ Huệ Năng đã nói : “hãy nhìn lỗi mình, đừng thấy lỗi người”.

MINH MẪN

30/12/2023

 

 

 

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

NĂNG LỰỢNG VÀ NĂNG LỰC

 

Đạo gia bảo con người là tiểu vũ trụ, đúng vậy!

Những gì trong vũ trụ có, con người đều có. Phần vật chất thô được cấu thành từ ngũ hành (kim mộc thủy hỏa thổ) cho đến những năng lượng hạt,sóng và tia vẫn ẩn tàng trong cơ thể vật chất nếu được tâm linh khai phát.

Các pháp hành tuy khác nhau, nhưng triệu chứng nội tại vận hành luân lưu sinh lý, hỗ trợ tiến trình tâm linh không khác. Có pháp hành trì đưa đến hiển lộ mà hành giả có cảm ứng, có pháp hành tĩnh mặc ẩn tàng đưa đến chứng đắc.

Hai nền văn minh tâm linh uyên áo, sâu xa khởi nguồn từ Ấn độ và Trung Hoa giúp hành giả tiến đến giải thoát đa dạng; tuy mức độ giải thoát cao thấp khác nhau, thoát khỏi cõi ngũ trược ác thế, có thể là cảnh giới Thần Tiên,tản Thần, tản Tiên, chư Thiên, Bồ Tát, La Hán, Phật…

Quá trình hành thiền, do định lực sâu, nhiệt lượng phát ra, thay đổi hồng cầu; trong nhiệt lựợng, dưới lăng kính phân loại của khoa học vật lý, tổng họp các tia, được máy quang phổ phân tích chùm sáng thành những đơn sắc khác nhau. Những đơn sắc tổng hợp thành tia sáng quang hợp, kích hoạt năng lượng nội thể, nuôi dưỡng hồng cầu,mỗi đơn sắc có tác dụng đối với một cơ phận nội thể, tạo khí lực và khí sắc cho một hành giả khỏe mạnh, hồng hào dẫn Nhiệt lượng nội thể nâng lên tầm “lửa tam muội”  cao hơn áp suất vật lý,  đưa đến phát quang tuệ giác và phóng quang.

Khi một vùng nào đó áp suất không khí giữa sức nóng mặt trời và hơi nước chuẩn bị làm mưa, chân trời thường xuất hiện ráng nhiều màu do những đơn sắc tạo thành; thế thì nhiệt lượng nội thể được kích hoạt lúc thiền định, các đơn sắc cũng hỗ trợ cho các nội tạng tương thích để tịnh hóa và nâng tầm thanh khiết, đánh thông các đại huyệt.

Trong một vài pháp hành của Yoga và Đạo gia, năng lượng dẫn chuyển qua mạch nhâm đến mạch đốc và ngược lại làm tựu thành thánh thai (anh nhi) dưới đơn điền, rồi như một Kundalini tiến dần lên các đốt xương sống, đốt thông các trược khí nơi đại huyệt, bùng vỡ tiếng nổ như sấm sét mà chỉ có hành giả Yogi mới cảm nhận được, quá trình hình thành “Tam hoa tụ đỉnh” rất lâu, phải đốt sạch các trược khí trên các đại huyệt mới chứng đắc toàn triệt. Khai thông huyệt nào thì trí tuệ thông phần đó.Lúc này hành giả thay đổi tâm tánh, trí tuệ và nhân cách thấy rõ.

Trên lý thuyết là thế, nhưng không đơn giản, đòi hỏi hành giả kiên trì và thời gian miên mật. Ấn độ có nhiều trường phái đi đến pháp hành cũng khác nhau; ngay cả Yoga xuất phát từ Ấn giáo, khởi nguyên có 10 loại cơ bản, nhưng về sau, hậu bối sáng tạo thêm vô số chi nhánh, nhưng tựu chung vẫn là:

KARMA YOGA  là hướng dẫn hành thiện, hội nhập cuộc sống

BHAKTI YOGA là con đường nghi tắc đức tin Tôn giáo

JNANA YOGA   là con đường hành trì, quán niệm, thiền định hướng đến trí tuệ thăng hoa tâm linh. Từ con đường này lại phát sanh nhiều pháp hành khác nhau, thoát ly khỏi Yoga, mang một tên mới cho một trường phái mới,rồi đến đạo Sihk vào thế kỷ  15, sản sanh dòng Sant Mat; Vừa ảnh hưởng Thần giáo Kito,Hindu, vừa giao kết với các Thánh Hồi Giáo, chủ trương chiêm niệm Thiền định.

Còn lưu một số ít trường phái tư tưởng Yoga. Những hành giả Yogi có khuynh hướng giải thoát, thực hiện một số động tác thân kết hợp tâm, làm chủ thân tâm một cách đặc dị phát triển thần thông.

RẬ YOGA  là chuyên ngành về khoa học vật lý, khoa học tâm linh.

Yoga là kết quả từ Bà La Môn giáo, Bà La Môn xuất hiện trước Phật giáo. Bà La Môn là một hệ thống mang tính giai cấp tạo trật tự trong xã hội; chia làm năm giai cấp:

Giáo sĩ,triết gia,học giả, là giai cấp cao nhất được trọng vọng nhất

Sát đế Lợi là hàng vua chúa, quý tộc, võ tướng, quan lại nắm quyền thống trị

Vệ xá là hạng bình dân, thương gia, nông dân có trách nhiệm tạo kinh tế

Thủ Đà La là hàng tiện dân

Chiên đà La là giai cấp ngoài lề xã hội làm những nghề ti tiện như giết mổ, dọn vệ sinh….

Sinh ra từ giai cấp nào suốt đời thủ phận giai cấp đó, không được va chạm, lẫn lộn các giai cấp với nhau trong cuộc sống.

Tuy tồn tại nhiều thế kỷ, khi đạo Phật ra đời, đức Phật có quan niệm làm đảo lộn trật tự giai cấp bấy giờ. Đức Phật nói không phải cứ sinh ra từ giai cấp Bà La Môn sẽ trở thành Bà La Môn. Giai cấp tùy thuộc nhân phẩm, ý tưởng và hành động.Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn. Do vậy trong Tăng đoàn của Phật có cả mọi giai cấp và bình đẳng mọi giai cấp.Từ hoàng tộc đến tiện dân đều có thể gia nhập vào giáo đoàn của Phật. Giáo đoàn chú trọng vào sự thành tựu hành trì.Chính vì thế mà sau khi Phật nhập diệt Bà La Môn mới được hồi phục trở lại.

Từ sự khắc khe giữa những giai cấp trong xã hội, bắt đầu có sự cải biến tư tưởng từ giới học giả, hành giả, đạo đức Tôn giáo,  Yoga ra đời, buổi sơ khai chỉ là bộ môn thể dục, thể trí, về sau sản sanh ra những nhánh thuộc về Tôn giáo, học thuật, khoa học, nghệ thuật, thiền định…

Trong giới Yogi có vị đạt đến nội lực không tưởng, thần thông tự tại, làm chủ sanh tử.Chôn sống nhiều ngày vẫn không chết. ngồi trong nước ngập sâu nhiều giờ vẫn không cần thở, có thể bay bổng, ngồi trong tuyết không cần y áo; y phục nhúng nước ướt sủng đắp lên người liền bốc hơi, tàng hình…

Tại Ấn độ có hai trường phái rõ nét, Thần giáo tôn thờ khuynh hướng tín ngưỡng, một trường phái có khuynh hướng tâm linh và phụng sự tha nhân. Về tâm linh không có nghi lễ, không cầu nguyện, chuyên tâm thay đổi tánh tình và nâng cao trí giác , đưa đến nội lực thần bí.

                                                             ***

Trong khi đó. Mặc dù địa lý hai chủng tộc cách nhau dãy núi Hy mã, đều có khuynh hướng Tôn giáo và tâm linh khác nhau.

Trung Hoa cổ đại không phân biệt giai cấp khắc nghiệt như Ấn giáo, nhưng vẫn có lối giáo dục để xã hội được tôn ti trật tự của Nho gia như “Tam cang ngũ thường, Tam tùng tứ đức” Đạo đức vua tôi, đạo đức phu thê, phụ tử, nhân cách quân tử…

Song song giáo dục xã hội, còn có trường phái chuyên về tâm linh của Lão Trang, xem nhẹ sinh hoạt ngoại tại, chú hướng tu luyện âm dương ngũ hành.Luyện đan, luyện tiểu châu  thiên tương  ứng với đại châu thiên của vũ trụ, vì con người là một phần của vũ trụ, do đó có câu: “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, sống không những thuận với đạo trời  mà còn hành trì tương thích sự vận hành vũ trụ.

Quan niệm con người là tiểu vụ trụ, là một phần của vũ trụ, tu luyện để hòa cùng vũ trụ, giống như Ấn độ bảo con người là tiểu ngã phải hòa cùng đại ngã Brahman.

                                                     ***

Trong một đất nước rộng lớn, sơn thủy kỳ tú,địa linh luôn sanh nhân kiệt, cả về văn minh thuần vật cho đến văn minh tâm thể.

Văn minh Ấn giáo sanh ra bao tín giáo đa thần. Trong tu luyện Yoga có những nhà Yogi cực kỳ khổ tu hành xác, đứng một chân, phơi sương, ngâm mình trong tuyết giá, treo thân lộn ngược…chỉ vì mục đích tiêu nghiệp quá khứ, ngăn nghiệp mới phát sanh.Do biên kiến quá đáng, thời kỳ đầu học đạo, đức Phật cũng làm hạnh đầu đà, tiết chế ăn uống đến suy cùng lực kiệt, từ đó Phật ý thức được rằng khổ hạnh ép xã không đưa đến giải thoát, mà là con đường suy vong ngắn nhất.

Cũng có một nhánh JNANA YOGA   khám phá tâm thức bằng con đường tu luyện khai mở luân xa (chakra), có thần thông, tuệ giác phát triển.Dẫn khí, đưa năng lượng châu biến nội thể.

Tại Trung Hoa, Lão Trang đã phát huy tư tưởng ảnh hưởng nhiều đến xã hội thời bấy giờ. Trường phái Lão Trang quan niệm vũ trụ vận hành một cách hài hòa, đơn giản nên gọi là Đạo. Khuynh hướng Đạo của Lão Trang sau này ảnh hưởng cà Khổng giáo về lối sống dẫn Đạo cho cá nhân, cho nguyên tắc quản trị, cho người cầm quyền.

Lão Trang có khuynh hướng thuận tự nhiên, sống vô vi: “vô vi nhi vô bất vi” tu luyện nội thân.Người thuận đất, đất thuận trời, Trời thuận đạo,Đạo thuận tự nhiên

Đạo gia là một triết thuyết dẫn đạo cho cuộc sống thanh thản, không tranh chấp, không nặng về hình thái. Gần với tư tưởng Phật giáo nên Đạo gia chủ trương “Vô”, Phật giáo thuyết về “Không”

Đạo sinh nhất, nhất sanh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Có nghĩa “nhất bản tán vạn thù, tu dưỡng để vạn thù quy nhất bản” trở về với bản nhiên

Do quan niệm đó, Lão tử xa rời xã hội, tìm về bản nguyên bằng cách tu Tiên, luyện đạo.Một nhánh của Đạo gia luyện “Thủy hỏa ký tế”: đưa ánh sáng từ đỉnh Côn lôn chiếu rọi xuống khí hải, do ánh sáng từ khí hải phản quang lên lại Côn lôn lâu dần phát quang sanh tuệ giác. Thoát khỏi quy luật thường tình.Năng lực tu luyện biến năng lượng hòa hợp vũ trụ, không cần động thủ mà đạt thành mọi việc, gọi là “vô vi nhi vô bất vi”.

Từ ngàn xưa ngoài Tiên đạo, Thần đạo, còn một pháp hành đã thông huyệt đạo, tính mệnh song tu, tâm không vướng mắc, diệt trừ tập khí tham chấp… thuận theo vũ trụ,nương theo vận hành để thoát khỏi Tam giới, vận pháp vòng xoay theo định luật vũ trụ gọi “Pháp luân đại pháp”. Không dẫn khí, không vận trường năng lượng trong nội thể, không lệ thuộc phong thủy phương hướng thời gian.Ngoài không vướng, trong không chấp hợp với tinh thần Đại đạo và Phật đạo

Cũng từ một gốc âm dương ngũ hành đã sanh ra nhiều pháp hành, nguyên lý đó ảnh hưởng cả võ đạo, y học, nghệ thuật, Hiệp khí đạo … khí công võ đạo ra đời, lần lượt khí công nghệ thuật, khí công thư pháp, khí công trị liệu…

,

                                                        ***

Pháp hành trong nhà Phật, không dụng khí, không luyện công, chú trọng hoán chuyển các tập khí thông qua “thất tình lục dục” giữ tâm thanh lặng tự khắc nội thể được tịnh hóa, mạch lạc giai thông, định lực đầy đủ phát sanh trí giác, thiền gia gọi là chánh niệm, chánh định.

Hành giả luyện công, hành thiền đến mức độ thâm uyên, không những trẻ hóa cơ thể, tâm tính điềm đạm, trí tuệ phát huy, có một bản lãnh hơn bình thường. Tâm tịnh sanh hỷ lạc. Do định lực có thể làm an lành người kế cận; những thắc mắc ưu tư gần người có định lực tự nhiên được giải tỏa. Người có tiềm năng nào đó, gần bậc chân tu tự nhiên tiềm năng được phát tiết đột xuất hoặc được nâng cấp…Ngày xưa có một người luôn uẩn ức không rõ việc gì, tâm luôn nghĩ một vấn đề nào đó mà không nghĩ ra, muốn thực hiện việc gì đó cứ cảm nhận có một lực che chắn cản trở, muốn thực hiện một sở thích mà không rõ thích điều gì, tình cờ một hôm ngao du, lạc vào hang núi, xuất hiện một sơn Tăng đang tọa thiền, anh ta lẳng lặng ngồi gần, tâm trầm lắng, cảm nhận một nguồn an tĩnh vi diệu phủ khắp châu thân, bổng nhiên phát tiết vẽ trên vách đá một tuyệt tác mà bản thân không ngờ mình làm được. Tinh thần sản khoái,anh ta lưu lại một thời gian trong hang động, giữa hai người ít trao đổi nhau vấn đề gì, hàng ngày vẫn tĩnh lặng in bóng hai người trong không gian cô tịch, sau khi xuống núi, anh ta trở thành một họa sư nổi tiếng sống với tâm thái mãn nguyện.Từ đó mọi ưu tư trước kia không còn trĩu nặng hồn anh.Có nghĩa tiềm năng vốn có nhưng chưa được khai thông, gặp năng lượng và năng lực mạnh giúp phát tiết dễ dàng

Tóm lại, bất cứ pháp hành nào, chuyên tâm miên mật, định lực đầy đủ ắt sanh trí tuệ.Bởi tâm ở đâu thì ý ở đó,ý ở đâu thì khí ở đó, khí ở đâu thì huyết ở đó. Tâm sanh ý, ý sanh khí, khí sanh huyết, huyết nuôi dưỡng tế bào  sẽ chuyển hóa cơ thể.

Phân tâm hướng ngoại nhiều thì thần khí hao tổn, trí lực suy thì nội tạng bị ảnh hưởng.Tâm định thì trí sáng là lẽ tự nhiên. Chính vì thế , hành giả chuyên chính sức khỏe dồi dào, nội tạng tươi nhuận.

“Nội kinh” đã nhận định : kinh hỷ thương tâm;nộ thương can,tư thương tỳ, bi ưu thương phế,khủng thương thận.

Nghĩa là kinh hải và quá vui dễ tổn thương tạng Tâm,tức giận tổn thương tạng Can, tư lự suy nghĩ quá tổn thương tạng Tỳ,bi thương âu sầu quá ảnh hưởng tạng Phế,sợ hải tổn thương tạng Thận.

Hành giả các trường phái chuyên tu Thiền định không vướng bận vào nghi lễ Tôn giáo, không lo nghĩ, không nói nhiều dễ hao thần tổn khí

Người tu phải quân bình mọi cảm xúc, tâm thái bình lặng như sự bình lặng của vũ trụ đang vận hành, vì con người là tiểu vũ trụ, là tiểu ngã, là một phần tương ứng với định luật vô biên. Biết phục hồi năng lượng thì năng lực tự phát, không những nâng sức sống tự thân còn cảm ứng cho những người chung quanh.

MINH MẪN

13/12/2023

 

Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2023

HIỂU VỀ XÁ LỢI

 

Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về  xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín. Tuy nhiên vấn đề hiểu không đúng khi thấy một số rất ít người thường khi hỏa thiêu cũng có xá lợi, từ đó sanh hòai nghi và mất niềm tin.

Trước nhất nói về xá lợi của Phật và chư thánh Tăng, ta thường nói là ngọc xá lợi.Xá lợi phiên âm từ Hán ngữ là xá lị, nguồn gốc từ chữ sarira, có nghĩa là những hạt cứng sau khi hỏa thiêu.

Đặc tính của ngọc xá lợi, sau khi trà tỳ, đức Phật có 84 ngàn viên ngọc xá lợi nhiều màu sắc rực rỡ, chia làm 8 nước để thờ, ngoài ra dòng tộc hoàng đế Tịnh Phạn cũng có một phần, lưu giữ đến các thế hệ nhiều đời hiện nay.

Theo truyền thuyết, sau  Phật nhập diệt một ngàn năm đầu thời kỳ chánh pháp tồn tại, ngọc xá lợi lưu truyền khắp thế gian xem như Phật hiện tiền, hỗ trợ  năng lực cho các thánh Tăng thuận lợi hành đạo. Qua một ngàn năm thứ hai là thời kỳ tượng pháp, phật giáo giảm suy về đạo lực, ngọc xá lợi vẫn tồn tại nhưng ít được lưu bố.Thời kỳ thứ ba, một ngàn năm sau trở đi, gọi là mạt pháp, phật giáo chỉ còn về hình thức, những chân Tăng rất ít và thường ẩn tu, quần chúng chỉ còn niềm tin Tam bảo vào hình thức biểu tượng , từ đây về sau, ngọc Phật sẽ ẩn tàng dần dần.

Một số ngọc xá lợi lưu xuất là một hiện tượng để làm điểm tựa niềm tin khi Phật và thánh Tăng không còn trụ thế. Ngọc lưu xuất hiện nay không phải là ngọc xá lợi nguyên thủy, nhưng vẫn mầu nhiệm khi đức tin chuyên nhất.Ngọc xá lợi lưu xuất nhiều nhất tại Myanma, Thái, Srilanka, Singapore, Trung Quốc..mới đây năm 2023 đại sư Tinh Vân ở Trung Hoa sau khi trà tỳ để lại vô số xá lọi đủ màu sáng đẹp.Người tôn thờ phải tinh tấn, hành trì miên mật, tâm thanh tịnh, từ bi, thân khẩu không ra ngoài đạo đức…

Xá lợi không chỉ là những hạt cứng nhiều màu sắc mà còn những phần khác của thân thể sau khi trà tỳ vẫn không cháy được.Ví dụ quả tim của bồ tát Quảng Đức, lưỡi của một vị chuyên trì tụng Pháp Hoa, sọ của cố HT thượng Trí hạ Quang, và còn nhiều vị không tiện nêu tên. Trên thế giới, nhất là các sư Nam tông, sư Tây Tạng…sau khi hỏa táng luôn lưu xá lợi.Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có nhiều vị lưu lại xá lợi, gần đây nhất là HT Tuệ Sỹ.

Vậy xá lợi đó nguyên do đâu mà có? Khoa học chưa giải thích được, một số cho là bị bệnh chích thuốc hoặc do ăn uống:“ Những nhà sư hay nhà tu hành trong sinh hoạt hàng ngày sử dụng đồ chay, chứa nhiều chất xơ và chất khoáng. Điều này đã khiến quá trình tiêu hóa dễ dàng hấp thụ các muối phốt phát và cacbonat tích lũy dần trong cơ thể tạo thành xá lợi. Tuy nhiên, giả thuyết này vẫn không hoàn toàn thuyết phục vì có rất nhiều người trong đời sống là người ăn thuần chay, nhưng cơ thể họ vẫn không thể tạo thành xá lợi sau khi hỏa táng. Một giả thuyết khác được một số nhà khoa học đưa ra thì việc xá lợi hình thành là dấu hiệu của bệnh lý, sỏi thận sỏi mật… Tuy nhiên, giả thiết này lại hoàn toàn không thuyết phục khi có rất nhiều người mắc bệnh nhưng không một ai có xá lị, ngược lại những vị cao tăng tu hành có xá lị thì lại không hề mắc phải những bệnh lý trên”.

Cảm nhận bằng trực giác khi chiêm bái xá lợi:Trong lần đầu tiên tham quan xá lợi Phật giáo ở chùa Gyuto tại Minneapolis, Hoa Kỳ. Tiến sĩ y khoa Hoa Kỳ – bà Nisha J. Manek cho biết cảm nhận của mình về năng lượng của những viên xá lợi có ở đây. Mặc dù bà không phải là một tín đồ của Phật giáo.

Khi vào ngôi chùa, tôi lập tức cảm thấy một trạng thái nhận thức mãnh liệt; hay sự Hiện diện. Như thể chính Đức Phật đang có mặt. Trạng thái đó là không thể diễn tả bằng ngôn ngữ; [nó] rộng lớn và sâu sắc; nó yên bình một cách kỳ lạ, giống như một tảng đá. 

Có một sự tĩnh lặng và một trạng thái bình hòa dường như vô hạn. Với tôi [khi đó], bản chất của thời gian không còn tồn tại. Tâm trí tôi trở nên yên tĩnh hơn… Tôi cảm thấy một nguồn năng lượng tinh tế rất rõ ràng tỏa ra từ di vật này hướng đến trung tâm trái tim tôi… Không có thứ gì tương tự như vậy trong các trải nghiệm thông thường”.

Ngọc xá lợi Phật có một năng lượng đặc biệt tạo nên sóng từ đối với ai có duyên khi chiêm bái. Ngọc Phật có thể biến dạng, thay đổi sắc màu,phát quang,tồn tại hoặc biến mất đối với tâm người đến xem.

Riêng những vị chân Tăng, và một số  ít những  người bình thường xá lợi không có những đặc tính như vậy.Một số tín đồ vẫn có xá lợi. Bác Sỹ Trần Đoàn ở chùa Hoa Nghiêm Vỉrgina Washington D.C viên tịch đã lưu lại xá lợi.

Như vậy lưu lại xá lợi không biểu trưng cho sự chứng đắc tâm linh, nhưng các bậc tâm linh thanh tịnh luôn có xá lợi.Dù một cư sỹ với đức tin dũng mãnh, có đời sống thanh tịnh từ thân đến tâm, tánh tình thuần hậu, nhất là tinh tủy không để thất thoát, với nguồn nhiệt hàng ngàn độ khi hỏa táng, tinh tủy kết tinh thành xá lợi.Có những vị chỉ chôn, nhập tháp vẫn lưu xá lợi toàn thân, đó là HT Minh Đức , Nghĩa Hành, Quảng Ngãi sau 26 năm an táng thân vẫn còn nguyên. Nhiều thế kỷ trước, chùa Đậu ngoài Bắc vẫn còn lưu lại nhục thân của 2 vị thiền sư. Lục tổ Huệ Năng trên sáu thế kỷcũng tồn tại nhục thân. Thế giới có nhiều vị thiền sư sau khi viên tịch thân thể không tan rã, hôi thối, để vào lồng kính cho tín đồ chiêm bái.Tất cả đều gọi là xá lợi toàn thân.Lưu lại xá lợi toàn thân do công năng tu tập, dùng lửa tam muội đốt khô nội tạng, xử lý mọi vi khuẩn. Lửa tam muội cũng làm khô thân xác để không con trùng nào xâm hại.

Tóm lại, xá lợi là phần còn lại sau khi viên tịch hoặc hỏa táng hoặc địa táng hoặc thiền táng. Công năng đặc dị khổ luyện tạo một từ trường cảm ứng khi người chiêm bái có nhân duyên chiêm bái.Có niềm tin thì có linh ứng, nếu không thì chỉ là vật chất bình thường. Khi hiểu như vậy thì không có gì phải mất niềm tin đối với những người cư sỹ hỏa táng vẫn có xá lợi.

MINH MẪN

02/3/2023