Năm nay, Vu Lan khởi sắc
một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy
hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông. Những chùa lớn như
Vĩnh Nghiêm, Hoằng Pháp, khách thập phương dập dìu ngay cả về đêm. Không những
tại Sài Gòn, cả Hà Nội, các tỉnh miền Trung và Cao nguyên đều như thế.
Những nét đặc biệt nổi
trội trong mùa Vu Lan cho thấy như: -phóng sanh -cúng dường -bố thí - thí thực
- chẩn tế - báo hiếu - cầu an cầu siêu... Những năm gần đây, ngoài một số chùa
còn có các tư gia chẩn bần cho người nghèo, bố thí cho người khuyết tật. Một số
cá nhân tuy không phải Phật tử, họ vẫn biết phóng sanh, biết làm từ thiện, đến
thắp nhang cho mộ vô chủ, tài trợ học bổng, hỗ trợ gia cảnh nghèo và học sinh
xuất sắc, thăm viếng bệnh nhân… Nét đẹp văn hóa như thế sẽ được nhân rộng để trở
thành truyền thống văn hóa dân tộc chứ không riêng của Phật giáo.
Do
đâu, có truyền thống Vu Lan, báo hiếu để rồi phát sanh nhiều hình thái cao
thượng, nhân từ và tương thân như thế? Vu Lan không có trong kinh điển Nguyên
Thủy. Cũng có giả thuyết cho rằng, câu chuyện Mục
Kiền Liên là biến tấu từ kinh Uất
Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên, gọi tắt là kinh
Uất Đa La mẫu có viết trong
mục "Chuyện ngạ quỷ" của bộ Tiểu bộ kinh (đính kèm bên dưới) chỉ
thay tên nhân vật từ Uất Đa La (Uttara hay là Uttaramātu) thành Mục Kiền Liên
và thay tên người giảng là một tỳ kheo thành lời giảng của đức
Phật. Tuy nhiên, trong Tiểu Bộ kinh do Gs. Trần Phương Lan dịch thì Tất cả các chuyện này đã do Tôn giả Maha
Moggallana (Đại Mục-kiền-liên) tường trình lên Đức Phật sau khi Tôn giả nhập
định và nhờ thần lực đi lên cõi Thiên để gặp chư Thiên và hỏi chuyện. Về sau
Đức Phật dùng các đề tài này để thuyết pháp.
Vào cuối thế kỷ thứ ba đầu thế kỷ thứ tư, ngài Trúc Pháp Hộ dịch
từ chữ Phạn, nhưng các học giả, sử gia thì xác định bản kinh nầy xuất hiện vào
thế kỷ thứ 6. Văn bản gốc do Trúc Pháp Hộ dịch (hoặc được viết
trong thời đại của ông) còn lưu lại đều không đề cập đến nhân thân của Tôn giả
Mục Kiền Liên và câu chuyện của mẹ ông, mà chỉ trong các tác phẩm của người đời
sau tại Trung Quốc, như Mục Kiền
Liên minh gian cứu mẫu biến văn được
xác định viết vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến cuối thế kỷ thứ X, mới có kể về sự
tích trên. Giải đảo huyền là dịch ý theo mục đích của Kinh
Vu-lan-bồn. Thật ra, từ Giải đảo
huyền được các đại sư Trung
Quốc lấy ý từ câu: Dân chi duyệt chi do giải đảo huyền dã trong Mạnh Tử, chương 3 Công Tôn Sửu
Thượng, chỉ sự giải thoát cho những kẻ khổ sở tột cùng ở cảnh giới Địa ngục.
Do truyện tích mang
tính văn hóa và giáo dục, nên được phát triển sâu rộng trong các nước châu Á. Tại
Việt Nam ta, năm 1309, Pháp Loa đã đứng
ra tổ chức Đại lễ Vu Lan, thiết đàn chay Vu Lan cầu nguyện cho Trúc Lâm, và cầu
nguyện Quốc thái dân an, âm siêu dương thái. Cũng vào năm 1320, Pháp Loa còn tổ
chức một trai đàn chẩn tế nữa ở chùa Đại Ninh trong cung để cầu nguyện cho Thượng
hoàng Anh Tông sống lâu thêm, và trong dịp đó cũng làm lễ quán đỉnh cho Thượng
Hoàng.
Trong việc cứu tế âm dương lưỡng lợi, báo hiếu thiên trọng về khoa nghi
đã trở thành một truyền thống nghi lễ, vừa mang tính triết lý, văn chương, nghệ
thuật, tâm lý, tuy đi quá xa với truyền thống tâm linh nguyên thủy vào thời Phật
tại thế, nhưng cũng đã giúp cho hậu thế tin vào nhân quả, phước lành báo đáp
thâm ân dưỡng dục và tri ân bá tánh vạn dân trong mùa báo hiếu. Không những chẩn
thí cho người dương mà còn chẩn tế cho kẻ âm, âm dương lưỡng lợi mà theo nhà Phật:
- "phổ đồng cúng dường".
Theo các nhà
nghiên cứu văn sử, thì bản Thập giới Cô hồn Quốc văn của Lê Thánh Tông, Văn tế
Thập loại Cô hồn của Nguyễn Du sau này đều lấy cảm hứng ở đoạn văn thỉnh thập
loại cô hồn trong Khoa Nghi Du Già. Mới biết, đời sống hiện thực Vu Lan Báo báo
hiếu đã đi vào tâm thức người Việt thật sâu lắng, nó đã kết tinh thành văn
chương vừa mang tính nghệ thuật thẩm mỹ định hướng cho một quan điểm sống hướng
thiện để sống đẹp, hưởng quả tốt.
Theo sách Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí ghi lại: “Năm Nhâm Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ ba (1603), thượng tuần tháng bảy. Bấy giờ Đoan vương Nguyễn Hoàng ái mộ đạo Phật từ bi, khuyên việc thiện, trồng duyên lành, nhân gặp tiết Trung Nguyên ngày rằm tháng bảy ra chùa Thiên Mụ cúng Phật, niệm kinh giải oan cầu phúc; tế độ chúng sanh, giúp người cứu khổ công đức vẹn thành”.
Còn Đại Nam Thực
lục chính biên, đệ nhất kỷ ghi lại: “Năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802) vua lập
đàn ở Thiên Mụ để tế, tế khắp các chiến sĩ chết trận”.
“Năm Quý Hợi, Gia Long thứ hai (1803), lính các vệ
thần sách đi vận tải lương thực gặp bão, chết mất 500 người ở ngoài biển. Vua
xem họ là chiến sĩ trận vong, cấp cho tiền tuất và lại sai đặt đàn ở chùa Thiên
Mụ để tế”.
Thế thì khoa
nghi chẩn tế là một trong những phương cách cầu siêu bạt độ, báo ân tiền hiền
liệt vị khởi phát từ ý nghĩa Vu Lan. Qua một số triều đại, và gần nhất là triều
Nguyễn cũng đã chú trọng đến việc lập đàn chẩn tế hướng vọng Vu Lan.
Tùy tập quán của mỗi dân tộc mà mùa Vu Lan thể hiện một cách khác nhau,
riêng Việt Nam, càng ngày càng đa dạng mang tính nghệ thật, văn hóa và đa cảm.
Tại Nhật thì Vu Lan gọi là Obon, các lễ vật được hỏa thiêu vào đêm thứ ba trong
mùa lễ bắt đầu ngày rằm tháng 8 dương lịch. Các đội múa nhân gian cũng biểu diễn
kết hợp với phóng đăng trên sông, họ tin rằng ánh sáng những ngọn nến sẽ hướng
linh hồn đến nhân gian hưởng lộc hoặc tiển chư linh về lại cõi âm sau ba ngày hội
tụ. Ở Hàn Quốc, ngoài nghi lễ chính, cài hoa, còn có mục rửa chân cho cha mẹ.
Mã Lai cũng có ngày báo hiếu nhưng không đa dạng như Việt Nam .
Đặc biệt Vu Lan năm nay, chiều 28/8, Đại
sứ Mỹ Ted Osius đưa mẹ cùng những người thân khác đến chùa Quán Sứ dự lễ Vu Lan
cùng đọc kinh tiếng Việt với chư Tăng.
Truyện tích Vu Lan và chẩn tế khởi xuất
từ kinh Tiểu Bộ nói về Quỷ sự Uttaramaatu Petavatthuva.N.Nanaa. Thời bấy giờ chỉ
nói đến việc làm phước hồi hướng cho quỷ Uất Đa La, chưa có khoa nghi chẩn tế.
Về sau, kết hợp văn hóa Trung Quốc mới trở thành đàn chẩn, nhiều màu sắc nghệ
thuật, nhưng chú trọng nặng phần nghi tế quá,dễ rời xa tinh thần nguyên thủy tu
tập của Phật giáo để rồi phát sanh lắm hình thức rườm rà mê tín như đốt vàng
mã.
Vu Lan, mùa báo hiếu và cũng là mùa
công ích do Phật giáo Bắc truyền khởi xuất sẽ trở thành sinh hoạt văn hóa truyền
thống của dân tộc, một nét đẹp do các cao Tăng thạc đức tiếp biến từ nguồn gốc
kinh Nguyên thủy, hài hòa qua những cánh Hồng được Thiền sư Nhất Hạnh quy nạp,
được ban rãi phẩm vật đến chúng sanh từ các chùa và mạnh thường quân. Rồi
chương trình văn nghệ Vu Lan cũng được các anh chị nghệ sĩ, gia đình Phật tử thực
hiện để thêm sắc màu đa dạng cho một mùa hiếu vọng về vạn loại.
Một điều còn thiếu sót nhân mùa Vu
Lan, không những cần thiết mà còn quan trọng - đó là bảo vệ môi trường xanh,
sạch và đẹp. Vệ sinh thành phố, thôn ấp, trồng cây xanh; thể hiện đức hiếu
ngay trong gia đình đối với song đường còn tại thế và anh chị bà con thân thuộc,
bạn bè có mối liên quan thường hằng; Phật giáo cần khởi xướng để mùa báo ân được
trọn vẹn.
MINH MẪN
31/8/2015
Đính kèm phẩm Mẫu quỷ sự kinh Tiểu bộ để tham khảo
UẤT ÐA LA MẪU QUỈ SỰ
(UTTARAMAATU PETAVATTHUVA.N.NANAA)
(UTTARAMAATU PETAVATTHUVA.N.NANAA)
"Một vị Tỳ kheo mà đã đi để nghỉ
trưa". Ðây là Ngạ quỉ sự về mẹ của Uttara . Ðây là phần giải thích về ý
nghĩa của nó.
Khi Hội kiết tập tam tạng lần thứ nhất
đã được tổ chức tại chỗ nhập Niết bàn của Bậc Ðạo sư, Ðại Ðức Mahaa Kaccaayana
đang ngụ cùng với mười hai vị Tỳ kheo trong một khu rừng nọ không cách xa thành
Kosa.mbi . Lúc bấy giờ, một vị tư tế quan của vua Udena, là người trước kia đã
trông coi những công việc của vị ấy trong thành phố ấy, đã chết. Bởi vậy đức
vua cho gọi đứa con trai của ông ta đến, là một chàng thanh niên tên là Uttara,
và bổ nhiệm cậu ta vào chức vụ quản đốc khi nói rằng, "Bây giờ ngươi phải
trông coi những công việc mà trước kia cha của ngươi đã trông coi".
"Thưa vâng", Cậu ta đáp lại. Vào một hôm nọ, cậu ta đi đến khu rừng,
đem theo một số thợ mộc để kiếm một số gỗ về sửa sang thành phố. Trong khi ở tại
đó, vị ấy đi đến chỗ ngụ của vị Trưởng lão đáng kính Mahaakacchaayana và trông
thấy Trưởng lão đang ngồi một mình ở đó và đang mặc những chiếc y được làm bằng
vải vụn từ đống rác. Ðầy lòng tịnh tín khi trông thấy riêng oai nghi này của
Ngài, vị ấy đảnh lễ Trưởng lão, nói lời chào hỏi thân mật, và rồi ngồi xuống ở
một bên. Rồi Trưởng lão thuyết pháp cho vị ấy. Khi đã nghe qua pháp, vị ấy có đầy
lòng tịnh tín đối với Tam bảo và, khi đã được an trú trong tam qui, bèn mời Trưởng
lão, khi nói rằng, "Bạch Ðại Ðức, xin Ngài hãy bi mẫn mà nhận lời mời của
con đến Ngài và Chư Tăng để đến thọ thực trong ngày hôm sau".
Trưởng lão nhận lời bằng cách im lặng.
Rồi vị ấy rời khỏi chỗ ấy, đi đến thành phố và báo tin cho những thiện tín khác
biết, khi nói rằng, "Tôi đã mời Trưởng lão trong ngày hôm sau. Các bạn
cũng nên đến nhà của tôi nơi mà những vật thí sẽ được cho ra". Vào lúc
sáng sớm của ngày hôm sau, vị ấy sai sửa soạn vật thực loại cứng và loại mềm,
sai công bố rằng đã đến giờ và rồi đi ra để đón tiếp Trưởng lão khi ngài đang
đi đến với mười hai vị Tỳ kheo. Vị ấy đảnh lễ họ và mời họ vào nhà. Khi Trưởng
lão và các vị Tỳ kheo đã ngồi trên những chỗ ngồi đã được soạn sẵn với những đồ
trải đắc giá và thích hợp, vị ấy cúng dường đến các Ngài vật thơm, những bông
hoa, hương trầm và đèn nến; và làm thoả mãn các Ngài bằng đồ ăn và thức uống
thượng vị. Ðầy lòng tịnh tín và với hai tay chấp lại trong thái độ tôn kính, vị
ấy lắng nghe lời tuỳ hỷ của các Ngài.
Khi Trưởng lão đang đi, sau khi sự
phúc chúc cho bữa thọ thực đã được thực hiện, vị ấy cầm lấy bát Trưởng lão và,
khi đi theo các Ngài, rời khỏi thành phố. Sau khi đã thỉnh Trưởng lão quay lui,
vị ấy thỉnh cầu Trưởng lão rằng, "Bạch Ngài, Ngài nên viếng thăm nhà con
thường xuyên", và rồi trở về sau khi biết được Trưởng lão đã nhận lời mời.
Khi hầu hạ Trưởng lão như vậy, vị ấy được an trú trong giáo giới của Trưởng lão
và chứng đắc quả thánh Tu đà hườn. Vị ấy sai dựng lên một phước xá, khiến cho tất
cả quyến thuộc của vị ấy được tìm thấy đức tin trong giáo pháp. Tuy nhiên, mẹ của
vị ấy, có tâm bị che mờ bởi lòng bỏn xẻn và hay chửi mắng vị ấy như vầy,
"Cầu cho đồ ăn và thức uống này mà mày đã cho đến các vị Sa môn như vậy,
trái nghịch với ước muốn của tao, sẽ biến thành máu nhơ cho ngươi trong kiếp
sau!" Tuy nhiên bà ta, đã bỏ ra một cành thoa bằng lông đuôi của con chim
công để dâng cúng nó trong ngày đại nhựt của tịnh xá ấy. Khi bà ta chết và tái
sanh trong cõi Ngạ quỉ và do quả phước của vật thí bằng cái thoa từ lông đuôi của
con chim công nên tóc của bà ta đen, mướt, xoắn ở đuôi tóc, mịn và dài. Khi nữ
quỉ đi xuống dòng sông Hằng nghĩ rằng ta sẽ uống nước", thì dòng sông ấy
biến thành máu. Trong năm mươi lăm năm nàng đi lang thang, bị đói và khát.
Rồi một hôm nọ nàng trông thấy Trưởng
lão Ka.nkhaarevata đang ngồi trên bờ sông để nghỉ trưa. Nữ quỉ đi đến Trưởng
lão trong khi che mình bằng mái tóc dài và xin Ngài một ít nước. Liên quan đến
điều này, lời nói sau đây được nói đến, hai câu kệ cuối đã được lồng vào ở đây
bởi những vị kiết tập Tam tạng:
1. "Con Nữ Ngạ quỉ trông xấu xí và ghê sợ ấy
đi đến một vị Tỳ kheo mà đã đi nghĩ trưa và đang ngồi ở trên bờ sông hằng.
2. Tóc của nàng rất dài, xõa xuống đến đất. Ðược
che phủ bởi tóc của nàng, nàng nói với vị Sa môn như vầy.
3. Trong năm mươi lăm năm từ khi tôi chết, tôi
không biết là đã ăn hay đã uống nước như thế nào xin hãy cho tôi một ít nước,
thưa Ngài tôi bị khô khát vì thiếu nước.
4. "Nước mát của sông hằng chảy xuống từ
Hi mã lạp sơn - ngươi có thể lấy một ít ở đây mà uống. Tại sao lại xin nước ở
nơi ta?"
5. "Thưa Ngài, nếu chính tôi lấy nước từ
sông hằng thời nó sẽ biến thành máu dành cho tôi. Ðó là lý do khiến tôi xin nước".
6. "Ác nghiệp nào được làm bởi ngươi do
thân, khẩu hoặc ý? Do kết quả của ác nghiệp nào khiến nước biến thành máu dành
cho ngươi?"
7. "Thưa Ngài, con trai của tôi là Uttara,
có đức tin và là một Thiện nam đã chống lại ý muốn của tôi, nó ban cho những vị
Sa môn những y phục và những vật thực, những vật dụng và những chỗ ngụ.
8. Nhưng tôi, bị khuấy động bởi lòng bỏn sẻn,
đã nguyền rủa nó như vầy, "Cầu cho những chiếc y và vật thực bố thí, những
vật dụng và những chỗ ngụ mà mày ban đến cho những vị Sa môn, chống lại ý của
tao.
9. Cầu cho điều này hãy biến thành máu dành cho
ngươi trong kiếp sau, này Uttara!" chính do kết quả của nghiệp ấy khiến
cho sông hằng trở thành máu dành cho tôi".
Rồi Ðại Ðức Revata
đã cho một số nước đến Chư Tăng nhân danh nữ ngạ quỉ, đi khất thực và lấy vật
thực mà vị ấy đã gom được đem dâng đến chư Tăng. Vị ấy lượm những miếng vải từ
đống rác v.v... rửa sạch chúng rồi kết thành những tấm nệm và tấm thảm, và cho
đến các vị Tỳ kheo. Và bằng cách này, nữ Ngạ quỉ ấy đạt đến sự vinh quang của
chư Thiên. Nàng đi đến Trưởng lão và cho Trưởng lão thấy sự vinh quang của chư
Thiên mà nàng đã đạt được. Trưởng lão giải thích vấn đề ấy với tứ chúng mà đã đến
trước mặt Trưởng lão và rồi ban ra một thời pháp thoại. Dân chúng, đầy xúc động,
nhờ đó được thoát khởi bợn nhơ của lòng ích kỷ và lấy làm hoan hỷ trong những
thiện pháp như bố thí v.v...
Quỉ sự này nên được xem là đã được kết
thúc trong bản sưu tập này tại hội kiết tập lần thứ hai.