* PHÓNG
SINH - BỐ THÍ - IN KINH…
Cũng như những
công tác từ thiện khác, Phóng sinh là một trong những động thái từ thiện khởi
phát bởi "tâm từ". Tại Việt Nam, trước 1975, việc phóng sinh vẫn có
nhưng chưa trở thành phong trào phổ biến, những năm về sau, khi cuộc sống tương
đối thoải mái, việc sinh hoạt tín ngưỡng trở thành lối thoát bức bách của nhu cầu
tâm linh, nhiều hình thái sinh hoạt tín ngưỡng và từ thiện bắt đầu rộ nở đa dạng,
trong đó phóng sinh được nhiều người thực hiện một cách máy móc.
Không những
trong Nam
mà ngoài Bắc cũng thường xuyên tổ chức phóng sanh, từ cá nhân cho đến tập thể.
Một phụ nữ sáng sớm đi chợ mang về một túi ốc len, đem xuống con kinh trước
chùa thuộc vùng Bắc Giang, thả xuống một cách thuần thục như đã từng làm thường
xuyên mỗi tháng. Hội Bông Sen có mặt từ Đà Nẵng trở vào thường xuyên phóng sinh
vào mồng một và rằm.
Được biết, hoạt động phóng sinh đã đi vào thường lệ trong sinh hoạt
của nhóm An Tựu ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM. Như thường lệ, cứ đến
ngày rằm, mồng 1 hàng tháng, nhóm sẽ cử người xuất quỹ mua các con vật dễ thích
nghi với môi trường nhất như cá, ốc, lươn,… Hoạt động này được duy trì suốt hơn
4 năm qua (kể từ đầu năm 2011) với số lượng người tham gia lên đến 150 người.
Con số này có thể tăng gấp nhiều lần vào những ngày lễ lớn như lễ Phật Đản.
Phước báu phóng
sinh như kinh đã dạy: Trong kinh Hoa
nghiêm, phẩm Phổ Hiền
hạnh nguyện dạy rằng: “Chúng
sinh thương yêu nhất là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất là chúng sinh. Cứu
được thân mạng chúng sinh thì thành tựu được tâm nguyện của chư Phật
Luận Đại Trí độ dạy rằng: “Trong tất cả các tội
ác, tội sát sinh là nặng nhất. Trong tất cả các công đức, không giết hại là
công đức lớn nhất.”
Kinh Chánh pháp niệm có dạy: “Tạo một ngôi chùa chẳng bằng
cứu một sinh mạng.” Công đức phóng sinh to lớn đến như thế!
Trong kinh Phạm võng, Bồ Tát Giới sám văn có dạy: “Phật tử không được tự mình
giết hại, dạy người giết hại, dùng phương tiện giết hại, tán thành việc giết
hại, hoặc thấy người khác giết hại mà vui mừng tán thành. Tất cả các loài có sự
sống, có sinh mạng, đều không được giết hại. Bồ Tát phải luôn phát khởi, gìn
giữ tâm từ bi, hiếu thuận, dùng phương tiện mà cứu mạng, bảo vệ cho tất cả
chúng sinh. Người thích sát sinh thì làm ngược với bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả. Như vậy là
phạm vào tội ba-la-di của hàng Bồ Tát.”
Trong kinh Phật
có dạy rằng, nếu không giết hại, làm việc phóng sinh thì được quả báo tuổi thọ
dài lâu; giữ giới không giết hại thì giải trừ được mọi oán thù, nuôi dưỡng được
tâm từ bi, làm nảy nở hạt giống Bồ-đề.
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: "Nếu ác nghiệp này có hình tướng
thì cho đến cùng tận hư không cũng không dung chứa hết."
Kinh Dược Sư Lưu Ly Bổn Nguyện Công Đức dạy rằng: "Cứu thả các
sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn." Người phóng
sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các
tai nạn.
Trong kinh Phật diệt độ hậu quan liệm táng
tống có dạy rằng: “Nên
giữ theo tâm từ, ban trải ân huệ đến muôn loài, xem thân mạng muôn loài chúng
sinh như thân mạng của chính mình. Mở rộng lòng từ bi, dùng thân mình mà giúp
an ổn cho muôn loài, tức là mở con đường hạnh phúc cho chúng sinh. Bảo hộ thân
mạng muôn loài, thấm nhuần đến cả cỏ cây, khiến cho muôn loài đều không phải
dứt tuyệt.”
Quả báu
phúc đức phóng sanh đem lại 10 điều mà chư Tổ đã đúc kết:
1. Không có
nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát.
2. Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.
3. Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.
4. Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.
5. Chỗ mong cầu được toại nguyện.
6. Công việc làm ăn phát triển, hưng thạnh, gặp nhiều thuận lợi.
7. Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.
8. Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.
9. Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.
10. Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
2. Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.
3. Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.
4. Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.
5. Chỗ mong cầu được toại nguyện.
6. Công việc làm ăn phát triển, hưng thạnh, gặp nhiều thuận lợi.
7. Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.
8. Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.
9. Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.
10. Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
Chư Tổ cũng
từng dạy:
Muôn loài chúng sinh cùng với ta trong luân hồi từ vô thủy đến nay đều đã từng là anh em, thân quyến. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng sinh cũng giống như cứu vớt người thân của mình.
Muôn loài chúng sinh cùng với ta trong luân hồi từ vô thủy đến nay đều đã từng là anh em, thân quyến. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng sinh cũng giống như cứu vớt người thân của mình.
Muôn loài chúng sinh cùng với ta trong luân hồi
quá khứ đều đã từng là oan gia cừu địch. Vì thế, ngày nay thực hiện việc phóng
sinh là cơ hội có thể hóa giải oán thù, chấm dứt sự oan oan tương báo.
Như thế,
phóng sinh là một trong nhiều phước báu quan trọng của Phật tử tại gia lẫn xuất
gia. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa phóng sinh là tha mạng sống của một sinh vật, đối
với người tu, việc phóng sinh còn mang một ý nguyện độ tận. Bồ Tát Địa Tạng từng
bảo: chừng nào chúng sanh trong địa ngục không còn, Ngài mới thành Phật; đó là
chúng sanh tánh, phóng chúng sanh tánh là từ bỏ cái tôi vọng niệm ô trược của
nghiệp thức để trở lại chơn như tánh, Phật tánh, một khi hành giả buông thả chủng
tánh chúng sanh ô trược là Pháp thân hiển lộ, đó là công đức phóng sanh của các
hành giả.
Trở lại
hành trạng phóng sanh hiện nay, từ chỗ tâm thiện biến thành việc làm bất thiện
mà nhiều ý kiến kết án việc phóng sanh. Thật vậy, chim thú đã trở thành đối tượng
và là nạn nhân cho những kẻ sống trên mạng sống. Cầu nhiều thì cung nhiều. Những
cuộc phóng sanh có định kỳ, có tổ chức tất phải có nơi cung cấp cố định, cái
vòng lẫn quẩn làm phước rước vào cái tạo tội hiện nay, tại Thành phố lớn đều có
hiện tượng giam cầm bắt nhốt một cách tàn tệ để có tiền mà cứ nghĩ cung cấp cho
việc làm từ thiện. Đành rằng xưa kia không có phóng sanh ồ ạt thì việc bắt nhốt
giam cầm cũng không tránh khỏi, nhưng việc giam cầm bắt nhốt được bảo dưỡng no
đủ để bán thịt. Số lượng giam cầm bắt nhốt cũng không nhiều, ngày nay cần số lượng
thật nhiều vào những ngày sóc vọng thì việc đói no đau khổ của sinh vật không cần
quan tâm, việc phóng sanh làm phước trở thành hành hạ chim lồng cá chậu một
cách bình thường. Kỹ thuật săn bắt ngày nay cũng tinh vi hơn, một cái máy phát
tầng số siêu âm tương thích mỗi loài, tự động chim muông bay đến đậu ngay trên
cây có gắn nhựa, cứ thế mà người bắt chim thoải mái bóc gỡ bỏ vào lồng. Kẻ mua
đi bán lại thì có thủ thuật khác, cắt cánh, bỏ đói, cho uống nước đường nước
thuốc để chim không bay xa được. Chim chết trong lồng hay ra khỏi lồng rồi chết
là chuyện người bán lẫn người mua không cần quan tâm. Không những chim mà ngay
cá cũng thế, người thả cứ thả, kẻ giăng lưới chích điện thì cứ chích điện giăng
lưới. Từ thiện trở thành cái vòng lẫn quẩn, thiện và ác cách nhau kẽ tóc đường
tơ. Có người bảo, thả là việc của mình, bắt lại là việc của họ, thiện và ác
luôn là cặp đôi trong cõi đời. Có người lại khuyên không nên phóng sanh tiếp
tay cho kẻ ác sinh sống thoải mái. Cũng có kẻ nói - thà ác với thú mà tạo cuộc
sống cho con người vẫn hơn...
Tất cả là ý
kiến không toàn vẹn, nếu bảo thả là việc của mình, bắt là việc của họ nghĩa là
mặc cho họ làm ác, gián tiếp tạo ác nghiệp cho họ? Nhưng chả lẽ vì cái ác của họ
mà mình từ bỏ hành thiện? Nếu nói thà ác với thú mà tạo cuộc sống cho con người
chẳng khác nào xúi dục họ sát sanh thì còn ý nghĩa gì việc phóng sanh làm phước?
Dĩ nhiên không vì việc làm ác của kẻ khác mà mình khước từ công hạnh hành thiện.
Chỉ dừng lại hai trạng thái phóng sanh và giam nhốt chúng sanh để trở thành chiếc
vòng lẩn quẩn bế tắt, lúng túng cho những tấm lòng từ thiện và khách quan bất
mãn trước hiện tượng mâu thuẫn đó. Ngoài người thả và kẻ bắt nhốt, còn có những
yếu tố khác tác động hoặc cởi mở hoặc cột trói sự bế tắt trên.
Thứ nhất là
ý thức đạo đức, nếu kẻ bắt nhốt có lương tri, hiểu nổi đau khổ của con vật thì
việc bắt nhốt cũng sẽ có cách giải quyết nhân đạo hơn. Ví dụ không nhốt quá nhiều,
không bỏ đói, không cắt cánh, không cho uống nước đường, điều nầy khó mà đòi hỏi
tính tự giác của người bán... Người thả không đặt hàng trước, gặp đâu thả đó,
không nhất thiết phải đủ số lượng theo chỉ tiêu, làm việc thiện mà có chỉ tiêu
trở thành bị ràng buộc mất ý nghĩa, đưa đến mất phước, không nhất thiết phải nhờ
chùa chú nguyện và không cần dùng hành động phóng sinh để trao đổi phước báu mong
cầu. Không mua chim trong lồng nhốt quá nhiều, không mua chim ốm đói, giao kèo
với người bán khi thả chim không bay và mất sức sẽ không trả tiền... Có những
điều kiện ràng buộc nghiêm khắc thì người bán chim sẽ không vì lợi nhuận mà tạo
sự đau khổ cho chim hoặc cá…
Đó là những
giải pháp tạm thời chứ không thể vì sự khổ đau chết chóc của cầm thú mà không
phóng sinh. Không thể bắt nhà chùa đuổi những người bán ra khỏi cổng chùa.
Ngoài phạm vi chùa thì tình trạng buôn bán như thế cũng vẫn xẩy ra, không giúp
gì được sự đau khổ cho loài cầm thú đang bị nhốt được tốt hơn. Nếu có thể, nhà
chùa nên giải thích và khuyên kẻ bán không nhốt quá nhiều, không dùng những thủ
đoạn làm đau khổ sinh thú. Ngoài ra mình không có quyền cấm đoán người bán hoặc
khuyên không được phóng sinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét