Khất sĩ là một hệ phái Phật giáo nội sinh; chắt lọc
và kết hợp hai trường phái Bắc tông và Nam tông.Hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát
triển, đã quyện nhập vào niềm tin xã hội, đã có vị trí vững vàng trong Tôn
giáo, và có một sắc thái đặc thù trong cộng
đồng Phật giáo Việt Nam.
Hình thái sáng tạo so với truyền thống hàng ngàn năm
mà Phật giáo đã cắm sâu vào mạch sống dân tộc, vì thế đã có nhiều biến thể từ
hình thức đến pháp hành cho thích hợp với căn tánh, tập quán bản địa; nhưng
không thể nói là sáng tạo khi hình thức và công hạnh trở về nguồn trên dưới ba
ngàn năm về trước mà đức Thích Ca đã khai sáng.
Nói là trở lại nguyên gốc, cũng phải thích hợp với
thời đại đương thời, do vậy, một số tiểu
tiết được thay đổi nhưng vẫn không làm mất bản chất cơ bản của đạo giải thoát.
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh đức Tôn sư Minh Đăng
Quang, đây là cuộc hội thảo lần thứ hai được bốn ban ngành kết hợp tổ chức: Hệ
phái Khất sĩ, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Viện nghiên cứu Tôn giáo, và
trường Đại học KHXH- NV.
-
Tuy xoay quanh những chủ đề:
-
Tổ sư Minh Đăng Quang
-
Sự hình thành và phát triển hệ phái Khất
sĩ
-
Kiến trúc Phật giáo Khất sĩ, Bản sắc và
thực trạng
-
Những đóng góp của Phật giáo Khất sĩ.
Những tiết mục yêu cầu không mới, nhưng sẽ có những cái
mới dưới tầm nhìn và đánh giá của những nhà nghiên cứu, các học giả, hành giả
và sử học.Chính vì những lý do đó, bản tham luận này xin được đóng góp những hiểu
biết hạn chế so với nhà chuyên môn và ngay chính trong nội bộ của hệ phái.
I.
Tôn sư MINH ĐĂNG QUANG:
a. Bối
cảnh lịch sử.
Đất
nước ta, vào những năm thuộc thế kỷ 19, thực dân Pháp, xã hội bước vào thời kỳ
giao thoa văn hóa Đông Tây,đã có nhiều bỡ ngỡ giữa hai thế hệ.Thế hệ trẻ ở
thành thị sớm ảnh hưởng và tiếp thu nền văn minh Pháp đem lại. Đa phần nông thôn, dân quê vẫn chưa
thoát khỏi “phèn chua nước lợ”, cố bám ruộng đồng theo mạch sống tiền nhân; con
em còn vật vờ với con chữ “vuông” nhiều
nét gọi là Hán tự.Dĩ nhiên lối chữ đó đã hạn chế học dụng đối với đa số trong
dân gian,họ quan niệm muốn làm quan cần có con chữ chính vì thế tầm nhìn chỉ
gói gọn trong “tứ thư, ngũ kinh (1).Đành rằng tiền nhân giúp cho con người có lễ
hiếu, có đạo đức; xã hội ổn định nhờ tôn ti lễ giáo (Tam cang ngũ thường).
Khi
xã hội được cởi mở,xem nhẹ đạo đức cổ nhân, luân thường đạo lý bắt đầu có vấn đề; kinh tế,
chính trị, văn hóa, giáo dục… theo đó phát sanh hai mặt tương phản đối nghịch lẫn
nhau.Riêng phạm vi Tôn giáo, Nho Thích Lão từng là cơ bản xây dựng xã hội, đã
phải rút lui vào thôn làng, cận lân với dân quê chơn chất. Có nguy cơ đứng bên
lề xã hội.Lễ hội truyền thống làng xã chỉ còn duy trì một số nơi ở đình làng,
miếu mạo, riêng Phật giáo, người dân biết đến khi có tang gia hiếu quyến. Một số
tín đồ Kito giáo hải ngoại ngày nay, chỉ có mặt tại nhà thờ khi sanh ra để rửa
tội và khi chết đi xin phép cầu hồn, nghĩa là ít ra, đời người có hai lần biết
đến tôn giáo của mình.Phật giáo là tôn giáo cổ truyền trên dưới hai ngàn năm,
thế mà người dân đương thời chỉ xem Phật giáo là tôn giáo để cầu siêu một lần
duy nhất
trong đời. Xã hội Việt Nam thời bấy giờ, Phật giáo nói riêng và Tam giáo
nói chung bị xếp vào loại mê tín, lỗi thời, quanh quẩn trong làng xã với đám
dân dã nghèo khó.
Tuổi
trẻ bon chen nếp sống mới,cửa chùa thiếu vắng người kế thừa, do vậy, để duy trì
thiền môn, các sư phải lập gia thất để có con nối dõi, biến thành thầy tụng ma
chay như một tôn giáo biến thái.(gọi là Lục hòa Tăng, hay còn gọi là Cổ sơn
môn).Phật giáo miền Nam, nhất là miền Tây Nam bộ lúc bấy giờ chưa thâm nhập sâu
vào quần chúng như miền Trung, do vậy đức tin cũng rời rạc, thưa thớt.
Không
riêng tại Việt Nam, tình hình Đạo Phật suy thoái khắp vùng Đông Nam Á châu trước
mãnh lực đồng tiền và đời sống thoáng đạt của nền văn hóa phương Tây đem đến.
Ngọn gió lạ đã xô đẩy nếp sống cổ truyền đến miệng hố hủy diệt. Một số chư Tăng
Miến, Thái,Campuchea.Tích Lan,Trung Quốc cũng đã ý thức được nguy cơ suy thoái
của Phật giáo, cố gắng xiển dương, canh tân Phật giáo. sau nhiều năm vận động,
đã cho ra đời một Hội Liên hữu Phật giáo thế giới vào năm 1950 tại Tích Lan, Phật
giáo Việt Nam là một thành viên do Hòa Thượng Tố Liên làm trưởng đoàn.
Tuy
nhiên, việc canh tân không thể một sớm một chiều đem lại kết quả như ý, Phật
giáo ba miền vẫn còn trì trệ theo cổ tục. Một số chư Tăng được bác sĩ Tâm Minh Lê đình Thám truyền đạt kiến
thức Phật giáo trên nền tảng Âu học. Riêng miền Nam, các vùng bưng biền, ánh
sáng Phật pháp chưa đủ chiếu sáng, phần lớn sư Tăng suy thoái đạo đức, thậm chí
không hiểu sâu giáo lý, nằm lòng hai thời bái sám công phu; chỉ khác thế tục
chiếc áo và cái đầu; sống thuần tục;để khôi phục đạo đức tiền nhân, đã sản sanh
ra một đức Phật thầy Tây An và các đệ tử kế thừa.Hệ phái này đem đạo Phật đi
vào xã hội nông thôn rất thành công, nhờ giáo dục bằng thi kệ bình dân dễ hiểu.Đến
đời Đức Huỳnh Phú Sổ, Phật giáo rất thực dụng, chủ trương “học Phật tu nhân”
ngay tại đời sống thường nhật, đến ngày nay, tinh thần tín đồ vẫn không lệch hướng.
sống vì mọi người, người người làm từ thiện, nhà nhà làm công ích tuy cuộc sống
họ không dư dả.Các vùng lục tỉnh đã xã hội hóa Phật giáo bình dân rất thành
công.
Khi
mà đạo đức suy thoái được cổ nhân Thánh hiền phục dựng trong tầng lớp thôn quê
nơi ruộng nương, Thiền môn vẫn lặng lẽ an phận sớm kinh chiều kệ, xa rời lòng dân, đức tin Tam bảo là thẻ
nhang, vàng mã, bái lạy, ma chay…lệch hướng sang Thần quyền tả đạo; quy luật
“cùng tất biến”, tiền bán thế kỷ XX, một Thánh nhân xuất hiện, một Phật Việt thổi
luồng sinh khí vào nền tảng Phật giáo với sắc thái nguyên sinh của Đức Cồ Đàm
thuở xưa, chủ trương – Thượng cầu, hạ hóa – nghĩa là trên cầu xin giáo pháp Thế
tôn, dưới hóa độ chúng sanh.
b. Mầm móng phục hưng Phật giáo nguyên sơ.
Trước tệ nạn suy thoái
đạo đức Tam giáo, các Nho gia đành thúc thủ; cơ bản học lý Lão-Nho nặng tính cổ
tục, phong kiến. đạo Lão mang tính triết học tâm linh, thoát li thực tế, nặng
tính siêu nhiên khi mà xã hội có xu hướng
công nghiệp và thực dụng.Nho nặng về từ chương, lễ giáo khuôn phép, tạo một căn
bản trật tự cho gia đình và an dân trong xã hội. Ràng buộc con người theo khuôn
phép gia trưởng và quân quyền.Nó có giá trị khi xã hội loài người trong giai đoạn
đang tiến hóa, không thích hợp với trào lưu mới.
Phật giáo là một học
thuyết vừa siêu nhiên, vừa thực dụng.Tùy duyên ứng biến, bởi “thế gian pháp tức
Phật pháp”. Học thuyết Đại thừa (còn gọi là Phật giáo phát triển) đã giúp cho
Phật giáo thích nghi với mọi thời đại, tránh được tính cứng ngắc của Nho-Lão.
Tôn sư Minh Đăng Quang, để cứu vãng tình hình Phật giáo suy thoái trầm trọng, với
chủng tử nhiều đời, đã thôi thúc Ngài thoát “thế tục gia”, tầm cầu giải thoát,
mở ra con đường hưng phục chánh Pháp Như Lai.
Sau bốn năm trên xứ
chùa tháp tu tập, nghiên cứu giáo lý Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát
triển, Ngài đã quyết định trở về quê hương hành đạo và lập Giáo.
Xét thấy Phật giáo Phát
triển linh hoạt nhưng do tính tùy duyên mà đi khá xa tính cơ bản luật học, Tăng
phong đạo cách không còn đúng chuẩn theo giáo điều,đôi khi vài nơi làm cho khó
phân biệt Phật giáo và Thần đạo.Sau thời gian nghiền ngẫm và thiền định, Người
đã chứng ngộ tại Mũi Nai – Hà Tiên, bắt đầu thành lập giáo đoàn,ra truyền giáo
với tên gọi Đạo Phật Giáo Khất Sĩ Việt Nam, nối truyền Thích Ca chánh pháp.(
đây là tôn giáo nội sinh của Việt Nam ).
Với tôn chỉ tuyệt đối,
lấy giới luật làm thầy, kinh điển làm đuốc soi, tạo một giáo đoàn nghiêm trang
hạnh giới, một hình thái đặc thù ở miền Tây Nam bộ. Về hình thức cũng không
khác Phật giáo k’hmer, nơi mà Phật giáo Nam truyền (nguyên thủy) đã có mặt và tồn
tại khá lâu; hệ phái Khất sĩ là một giáo đoàn chiết lọc tổng hợp hai hệ phái
Nguyên thủy và Đại thừa, về hình thức cũng như nội dung.Hình thức y cứ vào giáo
lý nguyên thủy, tam y nhất bát, không nghi lễ rườm rà, nội dung hành trì theo
luật tạng Bắc truyền và trường trai.
Nguyên tắc sống: làm
thân người đều phải vay mượn nương nhờ lẫn nhau,do đó, “không tự lấy để trừ
tham,không tự làm để tránh ác”. “uống hỏi xin nước,nằm hỏi xin đất,ăn hỏi xin
lá, trái, ở hỏi xin cốc,hang.Không ngắt lá cây,phải lượm xin.Ăn quả chừa hột, đừng
bứng gốc (không xin thái quá), không dùng đồ vật về sinh mạng của thú, người.Dứt
tham ác thì sân si vọng động chẳng phát sanh.Chỉ ăn đồ xin mà thôi” (2).Nghĩa
là không pha chế nấu nướng, ăn ngày một bữa, không ngủ 2 đêm tại một gốc cây.
Không giữ tiền bạc vật báu, quý kim… với
hình thức mang tên Khất sĩ, nghĩa là người xin giáo pháp tu hành, xin thực phẩm nuôi thân, rất mang
tính khiêm hạ và luôn biết ơn.
Đây là thời kỳ chuyên
nhất vào Tứ y pháp:
“Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Dục cùng sanh tử lộ
Khất hóa độ xuân thu”.
Một bài âm hán:
Nhất
bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Thanh mục đồ nhân
thiểu
Vấn lộ bạch vân đầu
II.
CƠ CẤU tổ chức và sự đóng góp cho Phật
giáo Việt Nam.
c. tổ chức giáo đoàn và luật học
Chư Tăng sống hòa hợp,
4 vị làm một Tăng, 20 vị lập thành tiểu giáo hội, 100 vị gọi là trung Giáo hội,
500 vị trở lên là đại Giáo hội. Sống chung theo tinh thần lục hòa
Sơ khai giáo đoàn 1 do
Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập vào năm 1944. Tổ vắng bóng, phát triển giáo
đoàn do nhị Tổ Giác Chánh điều hành.
Giáo đoàn 1 có 21 ngôi tịnh xá.
Giáo đoàn 2 do Trưởng lão Giác Tánh và Giác Tịnh
thành lập.Có 15 ngôi tịnh xá ở Hàm Tân, Phan Thiết, Khánh Hòa, Quy Nhơn.
Giáo đoàn 3 do trưởng
lão Giác An thành lập hành đạo tại Tây Nguyên như DakLak, Gia Lai, Kontum…
Giáo đoàn 4 do Pháp sư
Giác Nhiên làm trưởng giáo đoàn. Tịnh xá phần nhiều ở các tỉnh miền Đông và miền
Tây Nam bộ như: Bà rịa Vũng Tàu,Đồng Nai, Bình Dương,Tây Ninh,Cần thơ, Sóc
Trăng, An Giang, Kiên Giang…
Giáo đoàn 5 do Trưởng
lão Giác Lý thành lập năm 1960. Giáo đoàn 5 có 20 tịnh xá, tịnh thất ở Hội An
(quảng Nam), Cam ranh,tháp Chàm,Bình Long, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tp Hồ chí Minh, Bến
Tre, Vĩnh Long, Gò Công…
Giáo đoàn 6 do Hòa Thượng
Giác Huệ thành lập năm 1962, trụ sở tại giảng đường Lộc Uyển, quận 6 Tp Hồ Chí
Minh. Giáo đoàn có 18 ngôi tịnh xá, tự viện và tịnh thất.
Giáo đoàn ni do Ni trưởng
Thích nữ Huỳnh Liên thành lập Giáo hội ni giới Khất sĩ Việt Nam, trụ sở tại Tịnh
xá Ngọc Phương, quận Gò Vấp, Tp Hồ Chí Minh. (3)
Trong một tập thể, để
duy trì giáo đoàn có nhân cách,quan trọng về giới luật, giới luật còn là Phật
pháp còn, giới luật ví như đôi chân, thiếu không đi được. Chư tăng được tôn trọng
là nhờ có giới luật…và cũng từ Giới luật mới có Định để sanh Huệ.Vấn đề này hệ
phái Khất sĩ cũng như Phật giáo Nguyên thủy bám sát luật nghi mà hành trì đúng
với thời Phật sanh tiền.
Luật giới, theo Phật
giáo Phát triền gồm có 5 bộ luật do năm bộ phái khác nhau,tuy nhiên những điều
cơ bản không khác; ngày nay thông dụng nhất vẫn là bộ luật Tứ phần.Tổ sư Minh Đăng Quang chiết lọc những điều cơ bản
cho ra 114 điều căn bản thích hợp.
Tỳ ni, Sa di, Oai nghi,Cảnh
sách là bốn bộ luật; Cảnh sách do Tổ Quy Sơn, Tổ Châu Hoằng giúp cho người xuất
gia nghiêm trì thân tâm đúng khuôn phép nhà đạo.Thiền môn xa xưa rất nghiêm túc
khi phát tâm xuất gia. Đức Tôn sư Minh Đăng Quang chẳng những giải trình chân
lý qua văn chương giản dị mà còn thi kệ hóa đầy đủ một trăm mười bốn điều răn rất
chi tiết,bao quát bốn bộ luật Trường hàng Thiền môn thở xưa; nghiêm túc để một
vị Khất sĩ toát lên khuôn mẫu đáng kính.
Tuy mang hình thức Phật
giáo nguyên thủy, chỉ thờ duy nhất đức Bổn sư,kinh kệ sáng tạo đơn giản, nhưng
hành trì có khuynh hướng Bắc tông; vẫn trường trai.Nghi lễ Việt hóa bằng văn vần.Ngài
dạy tỉ mỉ sát với luật học. Từ đi đứng, ăn nói, giao tiếp, hầu thầy, nhập
chúng, ngủ nghỉ, đi vệ sinh, trì bình khất thực…phần nhiều trích từ Pháp tạng.
Thiền định, ngoài
Vipassana, còn hướng dẫn nhiều đề mục quán tưởng từ vật thể đến ánh sáng…quán tử
thi, quán thân thể (tứ niệm xứ),tứ vô lượng tâm,quán hơi thở (sổ tức)…Nhưng
hình như ngày nay, chư Tăng Khất sĩ tự chọn cho mình một pháp hành nào đó ngoài
các đề mục trên, dựa vào các pháp của chư tổ tiền nhân có kinh nghiệm và sở đắc,thích
hợp với căn cơ của mỗi hành giả. Dù pháp hành nào, mục đích cũng đưa đến định lực
để phát sanh trí huệ.
Tổ sư rất quan trọng
trong việc tu tập Thiền định:”Không định không có thần thông quả linh,thì con
người sẽ té sa vào nơi vật chất giả dối, nắm níu lấy ác tà loạn vong, chôn nhốt
giết hại tâm mình. Cho nên tâm định thì trí mới huệ, huệ nhiều ít thì do định.
Định nhiều thì huệ nhiều, định ít thì huệ ít, không định thì không có huệ”.
Trong luật nghi Khất sĩ, pháp vi tế về Định, Tổ liệt kê 40 đề mục Thiền định
theo bộ Thanh Tịnh Đạo luận. Không những thế, trong mỗi mục còn chi tiết hóa
như :30 đề mục đem đến nhập định, 11 đề mục có thắng lực đem tâm từ sơ định đến
ngũ định. Từ trang 132 đến 158 liệt kê các chi pháp của thiền định, qua đó, cho
thấy Tổ đã thể nghiệm và nghiên cứu kỹ thiền định như thế nào.(4)
Hệ phái Khất sĩ ngày nay đã mở rộng từ trong nước đến
ngoài nước;hiện nay trong nước có 1395 Tăng, 1863 Ni, 550 tịnh xá; nước ngoài
như Mỹ, Úc, Canada…có 50 tịnh xá, 100 Tăng ni,(5).Nội bộ đã khai hóa cho tu sĩ
giao lưu văn hóa, hoằng pháp, học thuật, tin học, hành chánh, ngoại ngữ. Tăng
ni thuộc hệ phái Khất sĩ đã có học vị tiến sĩ 43 vị, 30 thạc sĩ, 231 cử nhân,
hàng trăm tăng ni tốt nghiệp Cao đẳng, Trung cấp phật học. Nhiều tịnh xá là cơ
sở của trường Phật học.(6). Thỉnh giảng các giảng sư ngoài hệ phái trong mùa an
cư về Pháp Viện, Trung Tâm.Giao lưu với
các thức giả, học giả để tô bồi kiến thức chuyên môn.Hàng năm,có cuộc hội tụ dự
lễ tưởng niệm ngày Tôn sư vắng bóng, để
lắng nghe các giáo đoàn phản hồi ý kiến ưu khuyết của nội bộ.
Chính mở rộng vòng tay
để hệ phái hội nhập và phát triển giữa lòng Giáo hội PGVN, cập nhận thường
xuyên để xác nhận vị thế của hệ phái trong thời đại phát triển từng ngày, có
như thế hệ phái không lỗi thời với thời đại.
d. Kiến
trúc
Kiến trúc là một đặc
thù chưa từng có suốt thời gian đạo Phật du nhập vào Việt Nam. Chùa miền Bắc và
Trung, xây dựng theo chữ Đinh hoặc chữ Khẩu, tuy khác nhau về chi tiết, nhưng
diện mạo tổng thể tương đồng; riêng hệ
phái Khất sĩ,tính nhất quán trên 500 ngôi tịnh xá từ bắc chí Nam, từ trong ra đến
nước ngoài: chính điện hình bát giác,cổ lầu hình tứ giác, tượng trung cho Bát
chánh đạo và Tứ Diệu đế; trong chính điện bốn cột biểu trưng cho tứ chúng –
Tăng, ni, thiện nam, tín nữ; tam cấp tượng trưng cho Tam bảo – Phật, pháp,
Tăng. Nơi thờ Phật và Tổ là xây dựng trên nền tảng bát giác.Bảo tháp bằng gỗ gồm
13 tầng tượng trưng cho 13 nấc thang tiến hóa của chúng sanh hữu tình từ Địa ngục
đến quả vị Niết bàn giải thoát hoàn toàn,(Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Thiên,
nhơn, A tu la,Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bich chi,Bồ tát, Như
Lai).
Tuy nhiên, một vài nơi
do địa thế, do tập quán địa phương hoặc do ảnh hưởng nặng về Bắc tông, lối kiến
trúc có khác, bên trong vẫn thờ phượng trước Phật sau Tổ.Danh xưng bảng hiệu
luôn đứng đầu bằng chữ Ngọc, cũng có những trường hợp đặc biệt không dùng chữ
Ngọc như Pháp viện, tịnh xá Trung tâm... Cơ sở vật chất tương đối sung túc.Buổi
sơ khai khi Tổ còn sanh tiền, tịnh xá thật đơn giản, chỉ xử dụng tre lá, để
thích nghi với cuộc sống xã hội, ngày nay tịnh xá đã xây dựng bằng cement cốt sắt. Thích nghi tập quán và nhu cầu
tín ngưỡng của quần chúng, sau nhà thờ Tổ, còn thiết kế bàn vong, cửu huyền, tượng
Địa Tạng. Ngoài sân có cây Bồ đề và tượng Quan Âm.Còn xây dựng nhà nghỉ khách
Tăng, cư sĩ. Có nhà trù mà xưa kia chư Tăng chỉ sống bằng việc đi trì bình.
Với lối xây dựng bát
giác được xem là nghệ thuật đặc thù trong kiến trúc Tôn giáo, nhưng bên trong đại
điện nơi thờ Phật và Tổ đã chiếm vị thế rộng lớn, không đủ chỗ cho tín đồ hoặc
chư Tăng làm lễ, nhất là tự tứ hay tịnh xá có sự kiện lớn.
Nền tảng Bát giác, tịnh
xá có 8 cửa, trong Bát chánh đạo ta khởi sự vào mắc xích nào cũng đưa đến một
điểm, ta bước vào cửa nào của tịnh xá cũng đều nhìn thấy Phật, đó là một thâm ý
của Tổ khi đề xuất lối kiến trúc đặc thù này.
Hiện nay, vài nơi chú
trọng việc kiến trúc, chư Tăng khất sĩ bị chi phối, lo toan…không còn giữ được
quy tắc “tam y nhất bác” hoặc sự thọ dụng
“tứ y pháp” như xưa, chiếm thời gian khá nhiều của công phu thiền định.Thậm
chí, có những tịnh xá ít có khả năng phát triển, hoặc do tín thí nghèo, hoặc do
sư trụ trì thiếu hoạt bác, không vận dụng để bộ mặt tịnh xá phát triển đồng bộ
theo xu thế hiện tại, một vài nơi do điều kiện kinh tế địa phương, Tịnh xá chưa
được tái thiết như ý nên không được lòng đồng tu..
Phần lớn các tịnh xá
thiết lập thêm bảo đài Quán thế Âm, tụng kinh trì chú theo Bắc truyền, thuyết
giảng được đưa lên trang mạng. Ngoài cúng hội
2 lần trong tháng, một số nơi tổ chức Vu Lan báo hiếu, mừng Phật đản
sinh, đi từ thiện,phát quà người nghèo, khám bệnh miễn phí….Sinh hoạt hệ phái
ít nhiều đã thay đổi, và dần dần hòa nhập vào cộng đồng Phật giáo toàn quốc,
tuy vậy, vẫn giữ được nét riêng của tông
phái cho dù nội hàm có phần chuyển biến.
e. Những
đóng góp.
Trong
thời buổi đất nước phân hóa, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng đạo Phật Khất
sĩ từ năm 1944, lập đạo năm 1947 tại miền Tây nam bộ.Xã hội nhiễu nhương, nhân
tâm li tán, được hệ phái của Phật thầy Tây An và đức Huỳnh Phú Sổ xây dựng nền
tảng đạo đức cơ bản trong tầng lớp nông dân, Khất sĩ ra đời có lợi thế ổn định
tín ngưỡng, đã hội nhập dễ dàng vào cộng đồng xã hội thời bấy giờ. Một sắc thái
mới của Phật giáo Việt Nam, quần chúng không còn nhìn nhà sư như những tầng lớp
làm thuê cho ma chay đám cúng. Không cúng kiến rườm rà, không áo mão xiêm y lòe
loẹt, không cúng sao giải hạn đốt vàng mã, không xem bói toán. Đi đứng tướng mạo
trang nghiêm, chuyên lo tu tập thuyết pháp
độ sanh; cũng không tham gia vào mọi hoạt động chính trị đương thời.
Thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, Phật giáo lâm vào khủng hoảng, giáo đoàn Khất sĩ Tăng vẫn chuyên lo tu tập
mãi đến 1975.
1981,
9 hệ phái tham gia lập thành Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, trong đó có hệ phái
Khất sĩ. Quá trình sinh hoạt xây dựng và phát triển Giáo hội mới, Hệ phái Khất
sĩ do Hòa Thượng Giác Toàn lãnh đạo, nhiệt tình năng động đã làm cầu nối giữa
các Tôn túc trong buổi giao thời, tạo sự gắn kết cảm thông để đem đến một tổ chức
bền vững. Cũng từ đây, hệ phái Khất sĩ không còn là bóng mờ trong lòng Phật giáo nhiều hoạt dụng.
Kể
từ sau khi GHPGVN ra đời, nhiều nhiệm kỳ hoàn chỉnh, hệ phái Khất sĩ đã đào tạo Tăng Ni đa số có căn bản Phật học qua
các trường lớp, một số du học có bằng thạc sĩ, Tiến sĩ về tiếp tục đóng góp cho
hệ phái và cho các cơ sở giáo dục Phật học.
Về
hệ thống dọc hành chánh, các Tỉnh thành, quận huyện, hệ phái cũng được Giáo hội
công cử vào các ban ngành thích hợp, hợp tác nhịp nhàng, năng động. Tuy nhiên,
một vài nơi, Tăng sĩ thuộc hệ phái vẫn chưa được bổ cử vào vị trí tương xứng,(
ví dụ tại Giáo hội huyện –Hốc Môn. Tịnh xá Ngọc Hạnh, sư Minh Phước không được
tham gia vào tổ chức hành chánh, chỉ là một thành viên bình thường như các tu
sĩ bình thường, trong khi Hốc Môn chỉ có một sư
thuộc hệ phái Khất sĩ duy nhất.
Phía
Nam và miền Trung, hệ phái Khất sĩ sinh hoạt nội bộ và hợp tác với Giáo hội
đương nhiệm khá chặt chẻ. So với hệ phái Nam Tông kinh, lượng Tăng Khất sĩ tham
gia Giáo hội vẫn khá nhiều. Miền Tây Nam bộ, Phật giáo Nam Tông K’hmer đương
nhiên có mặt từ thượng tầng đến hạ tầng cơ sở hành chánh. Tất cả đó là hiện tượng
đáng hoan hỷ mà các nước có mặt các hệ phái Phật giáo chưa làm được.Riêng phía Bắc, Phật giáo Khất
sĩ có mặt từ tháng 12 năm 2008 do HT Thích Giác Ngộ, phó BTS PG Lâm Đồng ra Hà
Nội truyền pháp tại chùa Tảo Sách, chùa Quán Tinh, chùa Định Quán, chùa Kim
Liên…thành lập đạo tràng Như Lai Thanh Tịnh Thiền được nhiều giới từ bình dân đến
trí thức, từ sinh viên đến công nhân viên chức tham gia rất hoan hỷ.(3)
Góp
mặt trong một tổ chức là hiện tượng đoàn kết ắt phải có, cái nghịch lý là càng
năng nỗ, càng bị chi phối thời gian, hội họp, đóng góp.. . đã tiêu tốn thời
gian tu tập mà xưa kia Tăng đoàn chỉ đi trì bình, về độ ngọ,thiền định, giảng
giải cho tín đồ.
Ngày
nay, Tăng khất sĩ ngoài những việc đóng góp công sức và tài vật cho giáo hội
chung, còn phải lo phát triển cơ sở, sinh hoạt giáo đoàn, nghiên cứu sách vở,
tài liệu để đáp ứng kịp thời trình độ tín đồ.Thời gian tu tập đã bị hạn chế.
Bệnh
hoạn cũng là vấn nạn. Có những chư Tăng “tiên thiên bất túc, hậu thiên thất
nghi”, nghiệp bệnh đeo đuổi suốt cuộc hành trình xuất gia,tài chánh có hạn, việc
hành trì không được như ý. Nên chăng, Giáo hội Khất sĩ lập nơi điều dưỡng đặc
biệt giúp chư Tăng khỏi phải nương vào bệnh viện xã hội bên ngoài!
f. Tăng
phong đạo cách.
Một
giáo đoàn mà vị giáo chủ vắng bóng trên nửa thế kỷ, vẫn giữ được hình thức,
Tăng cách, luật nghi, kiến trúc, giới hạnh nghiêm túc quả là hiếm.
Một
vài nghi cách thay đổi do xã hội, cuộc sống bắt buộc.Ví dụ thời Phật sanh tiền,
chư Tăng đi bát, không giữ tiền bạc vật quý, nhưng truyền qua Trung quốc,chư Tăng phải canh tác tự sống,
thay đổi xiêm y cho thích hợp tập quán bản địa; cũng từ đó,ảnh hưởng nghi tắc
Nho gia phải bày ra cúng kiến, thờ phượng rườm rà, áo mão kiểu vua quan cung
triều. PGVN cũng ảnh hưởng lấy đó làm phương tiện hòa nhập dần dà đi xa khởi điểm.
Qua
nhiều thập kỷ, để đem Phật giáo trở lại nguyên sơ,đức Tôn sư Minh Đăng Quang
dung nạp hai hệ phái Bắc truyền và Nam Tông cho ra một Phật giáo Việt Nam chính
thống.Đem nghi thức đơn giản vào đời sống theo nguyên thủy nhưng vẫn không
không đánh mất tinh thần Phật giáo phát triển.Vẫn độ Ngọ như Nam truyền, ăn chay
như Bắc tông.
Từ
1981,luật nghi Khất sĩ cũng phải thay đổi ít nhiều, khi đã tham gia vào một tổ
chức mệnh danh là GHPGVN.Truyền thống khất thực đã hạn chế, chư Tăng cư trú không
luân chuyển như trước 1975. Những vị có chức phận ngoài tu tập phải đóng góp
công sức tài vật cho tổ chức và xã hội theo yêu cầu. Một số ít cố gắng không giữ
tiền và vật quý. Một vài vị cũng bị xao lãng Tăng cách ít nhiều, thậm chí nói
năng tuy không quá đáng nhưng cũng không còn khép mình, khiêm hạ như một vị khất
sĩ ngày xưa.
Tóm
lại
Khất sĩ vẫn là một hệ
phái đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Hình thức vẫn giữ được “ca sa” thời Phật.
Dung hợp cả Bắc và Nam truyền trong giáo luật qua cuộc sống thường nhật.Tăng
phong đạo cách của một tu sĩ gương mẫu còn duy trì được luật giới. Tứ nhiếp
pháp đã vận dụng cho việc hoằng hóa thành công.
Tuy có những đoàn khất
sĩ đương thời như:Khất sĩ của Đại sư Huệ Nhật (1945),Liên tông Tịnh độ Non bồng
của ngài Thiện Phước còn gọi là Mẫu trầu(1957), Khất sĩ Sơn lâm (1960), giáo
đoàn Khất sĩ Ca Diếp (1972).Nhóm Khất sĩ
thuộc Tịnh Độ tông Việt Nam (1955) khất sĩ tu tịnh của ngài Từ Huệ(1952).;
nhưng không duy trì được bao lâu vì thiếu những tiêu chuẩn cơ bản về tôn chỉ,tổ
chức, luật học, sống chung…
Tâm
linh và duy vật, công nghiệp và nông gia đã nhạt nhòa ranh giới khi các hệ phái
Phật giáo nói chung và Khất sĩ nói riêng, chung tay vạch một lối đi giữa lòng
dân tộc.Cơ sở Tôn giáo phát triển, hệ phái phát triển, chỉ cần nội chất tâm
linh đồng bộ song hành là đóng góp to lớn cho dân tộc.
Cần
chú trọng sức khỏe của chư Tăng. Ngày nay, y dược có cả Tây y, Đông y, thuốc
Nam Thuốc Bắc..không nhất thiết phải theo luật định dùng cây, cỏ, vỏ, lá như
xưa.
Một
khi hòa nhập, tuy không hòa tan, ít nhiều nội chất cũng có thay đổi; đó là định
luật không gì là bất biến, nhờ biến mới phát triển. Hy vọng, Đạo Phật Khất sĩ
Việt Nam sẽ là cốt lõi để duy trì niềm tin cho quần chúng, đúng nghĩa :NỐI TRUYỀN
THÍCH CA CHÁNH PHÁP đã tuyên xưng.
MINH
MẪN
24/7/2023
Bí chú:
(1) (Đại
học,Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh tử).
(kinh
Thi, kinh thư, kinh lễ, kinh dịch, kinh Xuân Thu)
(2) (tứ
y pháp trong Luật nghi Khất sĩ)
(3) Wikipedia
(4) Website
phattuvietnam: Đạo tràng theo hệ phái Khất sĩ đầu tiên ở miền Bắc
(5) Chơn
lý tập 1, trang 357,
(6) Tạp
chí văn hóa Phật giáo
(7) Biên
niên sử hệ phái Khất sĩ
****************************
Bản tóm lược tham luận.
Đạo Phật Khất sĩ Việt
Nam xuất hiện trong một giai đoạn đặc biệt của đất nước khi bị bảo hộ của Pháp.
Xã hội tồn tại hai sắc thái rõ rệt.Nông gia và thành thị.Do tính tương phản của
văn hóa và nếp sống đó, một thời gian dài xã hội bất an, xáo trộn về mặt chính
trị lẫn tín ngưỡng.
Cùng tất biến là định
luật sinh tồn. Những học thuyết Khổng Nho hay Đạo gia không thể vận dụng nội
hàm để thoát khỏi cơ chế thực dụng và khoa học, đành thúc thủ duy trì mạng mạch như hạt giống ẩn sâu vào lòng đất
chờ thời tiết thích hợp nảy mầm. Riêng Phật giáo Việt Nam, một thời gian khá
dài bị bình dân hóa để thích nghi xã hội Khổng Nho, Thiền môn mang màu sắc đa
thần để tùy duyên tồn tại, đôi khi cũng tùy tiện lạc dẫn quần chúng vào cơn mê
lộ.May thay, các tôn giáo nội sinh miền Tây Nam bộ đã xuất hiện kịp thời tạo điểm
tựa và niềm tin cho quần chúng, chung tay phục dựng nền tảng đạo đức và tâm
linh dân tộc.
Cũng từ ý lực tự tồn,
Phật giáo Việt Nam nẩy mầm một nhánh mới từ gốc cổ thụ mà hai ngàn năm qua cũng
từng đâm chồi các nhánh mới.Phải chăng, địa linh sanh nhân kiệt, tiếp tục phát
sanh một đức Phật thầy Tây An, một đức Huỳnh giáo chủ, một đức Tôn sư Minh Đăng
Quang đủ để xã hội trăm hoa đua nở sắc màu tâm linh, ổn định đức tin trong buổi
giao thoa ý hệ khoa học thực dụng và sinh hoạt truyền thống; từ nền tảng đó, hệ
phái Khất sĩ đã kịp thời mang luồng gió mới trong nếp sống thiền môn, không hòa
nhập xã hội, không lìa xa thế nhân.Bản chất trung đạo của bậc xuất trần đã vực
dậy nét mờ nhạt của Phật giáo Việt Nam. Khoác lên mình lớp áo mới để :” Một bát
cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dậm xa
Chỉ
vì việc sanh tử
Giáo hóa độ người qua”.
Tứ y pháp triệt để áp dụng
để trang nghiêm giáo đoàn, lục hòa cộng trụ để phát triển Tăng đoàn , Giới-định-tuệ
để thăng tiến tâm linh.
1981 GHPGVN thành lập,
hệ phái Khất sĩ là một trong 9 hệ phái chung tay xây dựng ngôi nhà chung. Hòa
thượng Giác Toàn thay mặt hệ phái rất năng động liên kết chư Tôn túc các hệ
phái, tạo cảm thông trong buổi giao thời.Từ đó Hệ phái Khất sĩ nghiễm nhiên
không còn là hệ phái nhạt nhòa trong sinh hoạt thiền môn như trước 1975.
Hệ thống Khát sĩ có 6
giáo đoàn Tăng và một giáo đoàn Ni phân tán kháp ba miền, gồm 550 cơ sở tịnh
xá. 1395 Tăng, 1863 Ni. Nước ngoài có 50 tịnh xá, 100 Tăng ni.
Việc xây dựng ngôi nhà
chung là nhiệm vụ tất yếu, phát triển nội bộ hệ phái cũng là vấn đề quan thiết
không kém. Cơ sở hạ tầng nhiều nơi đã và đang tái thiết.Một số tịnh xá đã mở
khóa tu cho tín đồ. Nghi lễ phát triển sang đọc tụng các kinh Bắc truyền. Chư
Tăng ni trẻ tranh thủ tiếp thu kiến thức Phật học tại các quốc gia có trường chuyên
Phật giáo.
Ngày nay không còn phân
biệt hệ phái để cùng trao đổi hiểu biết lẫn nhau, vì bất cứ hệ phái tông môn
nào cũng đều mang hương vị giải thoát của đức Thế tôn.
Hiện tượng hệ phái Khát
sĩ ngày nay không còn là hệ phái cá biệt trong ngôi nhà chung Phật giáo Việt
Nam. Cá biệt chăng là một tập thể cộng trụ lục hòa tuyệt đối trung thành với
tôn chỉ “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp” của đức Tôn sư Minh Đăng Quang.
MINH MẪN
24/7/2023