NI
giới từ thời Phật
NI GIỚI LÀ MỘT GIÁO ĐOÀN XUẤT HIỆN KHÁ
SƠM TRÊN 25 THẾ KỶ TẠI MỘT ĐẤT NƯỚC NẶNG VỀ GIAI CẤP, PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ BẤT BÌNH
ĐẴNG GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI QUA BỐN GIAI CẤP, GIỮA NAM VÀ NỮ TRONG QUAN HỆ XÃ HỘI
VÀ GA ĐÌNH.PhẬT giáo đã can đảm san bằng mọi bất công đó, tạo một ảnh hưởng
không nhỏ trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ, dĩ nhiên đó là điều mà Bà La Môn giáo
không thể chấp nhận.
***
Như đã biết, qua kinh sử,
Giáo hội ni giới được thành lập rất sớm tại Ấn, vào thời Phật hiện tiền, trong
khi, các cộng đoàn tu sĩ của Bà La Môn và các hệ phái đương thời hạn chế sự hiện
diện của nữ giới, ngoại trừ Kỳ Na giáo; đôi khi, nữ giới còn bị kỳ thị gắt gao.
Việc Đức Phật chấp nhận
cho nữ giới xuất gia là một cuộc cách mạng phổ biến chấn động tập quán tôn
giáo, tín ngưỡng đương thời như đã từng có cuộc cách mạng san bằng giai cấp
trong cộng đồng tu sĩ và cận sự Nam cận sự nữ trong tứ chúng của đức Phật.(sở
dĩ nói là cuộc cách mạng phổ biến chấn động là vì nữ tu lúc bấy giờ khá hạn chế
trong cộng đồng Ấn giáo, duy chỉ số ít có mặt nữ tu trong hệ phái Kỳ Na .Ni
đoàn của Kỳ-na-giáo đã được Nigantha Nàtaputta (Mahàvìra) thành lập khá lâu trước
khi ni đoàn được đức Phật thành lập).
Qua ba lần từ chối lời cầu
thỉnh của Di Mẫu Kiều Đàm Di xin xuất gia, Đức Thế Tôn vẫn không chấp nhận. Sau
đó, Thế Tôn cùng Tăng chúng rời Ca Tỳ La vệ tiếp tục bộ hành đến Tỳ Xá Ly. Di Mẫu
quyết tâm rời bỏ cung vàng điện ngọc, cùng năm trăm Thích nữ hoàng tộc, tự xuống
tóc, theo chân Phật, Di mẫu đi suốt nhiều ngày một quảng đường xa,chân rớm máu,
thân mệt mỏi, trước tình cảnh đầy cảm động, đức Anan bạch Phật nói lên công lao
nuôi dưỡng Thái tử khi hoàng hậu Ma Gia viên tịch; Từ đó, đức Thế Tôn ra các điều
kiện, Di Mẫu hoan hỷ chấp nhận ngay.
“Ngay sau khi thọ nhận
Bát kỉnh pháp (theo truyền sử), Đức Thế Tôn cho phép Tôn giả Đại Ái Đạo cùng
500 nữ nhân dòng họ Thích thọ Đại giới, trở thành những vị Tỳ-kheo-ni đầu tiên
trong giáo đoàn của Đức Phật. Thế Tôn xác nhận Đại Ái Đạo là nữ Tôn giả kinh
nghiệm đệ nhất, chứng đắc quả vị
A-la-hán..Cũng từ đó, Ni đoàn được thành lập dưới sự lãnh đạo của Tôn giả Đại
Ái Đạo, tuân theo sự lãnh đạo của Thế Tôn cùng với sự trợ duyên của chư
Tăng.”
Giáo đoàn ni giới đầu
tiên được thành lập, cũng là giáo đoàn ni giới tạo một Thánh hạnh rực rỡ trong
thời kỳ Phật còn tại thế. Ngoài giáo đoàn của Thánh Ni Đại Ái Đạo, còn có nhiều
ngoại nhân thuộc giai cấp thấp trong xã hội như Liên Hoa Sắc…
. Chuyện kể một lần
tôn giả A Nan xin nước của một cô gái thuộc giai cấp cùng đinh đã khiến cô gái
hoảng hốt chạy xa, tôn giả đã gọi cô gái lại và ôn tồn bảo: "Hãy cho tôi
nước uống. Tôi xin nước, chứ không xin giai cấp". Cử chỉ và lời nói ôn tồn,
trân trọng của tôn giả đã khiến cô gái xúc động và thức tỉnh. Sau đó, cô gái đến
xin xuất gia với Tôn ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, và đắc Thánh quả.
***
Nguyên nhân suy thoái và vắng bóng giáo đoàn ni giới:
Thời kỳ
Phật giáo Ấn Độ suy thoái:
Suốt chiều dài lịch sử
truyền thừa, Phật giáo phát triển hướng Bắc, cộng hưởng tinh thần khai phóng của
Đại chúng bộ, giáo đoàn ni giới lan sang các nước Trung Hoa, Cao ly, Nhật Bản,
Việt Nam; đặc biệt Tích Lan là nước theo hệ Nam truyền, cũng sớm có giáo đoàn
ni giới. đại giới đàn Tỳ-kheo-ni đã
được phục hoạt ở Tích lan vào năm 1998 .
Giáo sử không nói đến
giáo đoàn ni giới vào thời kỳ Phật giáo tại Ấn Bố Sa Mật Đa
La (Pushyamitra), một tướng lãnh Bà La Môn dưới triều
Brihadratha, vua cuối cùng của vương triều Khổng Tước (Maurya),
là người đầu tiên ngược đãi Phật Giáo. . Một ông vua Ấn Độ
Giáo khác đàn áp Phật Giáo là Sasanka, vua nước Gauda
(Bengal), hành động phản bội đầu tiên của ông là giết Rajyavardhana vào năm 605
sau Tây lịch, anh của Harsha, vị hoàng đế Phật Giáo cuối cùng.
Sasanka là một người thuộc giai cấp Bà La Môn và tín ngưỡng thần
Shiva. Sasanka được cho biết là đã tiêu diệt tăng sĩ trong
khu vực Câu Thi La (Kushinagar). Một trong những người đàn
áp Phật Giáo lớn lao nhất là thủ lãnh Hung Nô, Mihirakula, đã
làm thiệt hại lớn lao cho những chùa Phật Giáo ở Gandhara,
Punjab, và Kashmir. Mihirakula là một người thờ Shiva và là một nhà bảo hộ lớn
cho Bà La Môn giáo. Trong cơn điên rồ của ông, ông đã san bằng 1,600 tu
viện, tháp, và chùa, và giết hại hằng trăm tín đồ Phật Giáo tại
gia. Toramana, một ông vua cũng của vương triều tàn bạo đó, được cho biết là
đã tiêu hủy chùa Ghostarama ở Kiều Thưởng
Di (Kausambi). Về việc đàn áp Phật Giáo ở Kashmir,
F.M. Hussnain viết:
“- Chính Nara, người đã
khởi sự tiến hành việc tiêu diệt Phật Giáo ở Kashmir. Ông
cho thiêu hủy những tu viện Phật Giáo ở Kashmir
và trừ diệt quần chúng Phật tử bằng cách tịch thu đất đai của
họ để ban cho những người Bà La Môn. Những gì xảy ra ở Kashmir
là một phần trong cùng tiến trình tiêu diệt Phật Giáo trong nước.
Trong cuộc đấu tranh giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo, Bà
La Môn giáo đã chiến thắng, trong những hoàn cảnh đó, sự tiêu
diệt của Phật Giáo ở Kashmir chỉ là vấn đề thời
gian. “
Theo tường thuật của Pháp
Hiển, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh, những người đến Ấn Độ vào
các thế kỷ V, VI, và VII thì lúc bấy giờ các Tăng sĩ Ấn Độ đã bộc
lộ sự suy thoái đạo đức. Họ sống xa hoa và không biết tiết
độ trong ăn uống. Họ có gia đình và đem cả vợ con vào chùa ở
mà không hề biết xấu hổ. Các chùa bắt đầu làm kinh tế, và chư
Tăng trở thành thương gia hay nhà công nghiệp. Họ cũng chăn
nuôi và nuôi tớ trai, tớ gái. Họ sở hữu những tài sản, cả động sản
lẫn bất động sản, với số lượng lớn. Nói chung thì họ chỉ thích làm
công việc thế gian, trong khi đó thì hoàn toàn lơ là với lời
Phật dạy, không học cũng không tu.
Khi Hồi
giáo xâm lăng Ấn Độ, họ sát hại tất cả các tôn
giáo bản địa khác như đạo Hindu, đạo Jain, và dĩ
nhiên là đạo Phật, tuy nhiên trong khi những tôn
giáo khác phục hồi lại được thì chỉ có Phật giáo là bị diệt
vong tại Ấn Độ. Vì sao như vậy? Vì các tín đồ Phật giáo,
như Jacobi đã chỉ ra, “như thể là người ngoài, người bạn, và người ủng hộ của Tăng
đoàn mà thôi”. Có Tăng đoàn thì họ còn cúng dường, ủng
hộ. Khi Tăng đoàn tan rã thì họ cũng tan rã theo. Không có ai đứng ra
kêu gọi bảo vệ Phật pháp.
Đến thế kỷ 13 Hồi Giáo
triệt hạ,10.000 tu sĩ và giáo thọ sư đại học Nalanda bị thảm sát, kinh sách tài
sản đại học bị thiêu cháy suốt nhiều tháng, cơ sở vật chất san phẳng. Trong cơn đại biến, chư
Tăng không còn thì chắc hẳn chư ni phía Bắc Ấn cũng phải lánh nạn sang bên kia
biên giới Himalaya và Giáo đoàn ni đi về đâu? Chắc chắn theo chân chư Tăng và
tín đồ trôi giạt lên Tây Tạng.Nhưng, trong những thế kỷ cận đại, giáo đoàn Ni
không được nhắc đến tại Tây Tạng, mãi đến
khi được cô Heng Ching, thành viên của Ủy ban chư Ni phương Tây và của Hội
Sakyadhita Quốc tế (Hội Những người con gái lành của Đức Phật trên),giúp đỡ, 6
sư cô Tây Tạng đã đến Đài Loan để lãnh thọ giới Thức-xoa-ma-na tại chùa Yi
Yuan, thành phố Đài Bắc.
Trãi qua trên dưới 8 thế
kỷ, Phật giáo tại Ấn vẫn chưa đủ sức gượng dậy, theo thống kê hiện nay, Phật
giáo chỉ chiếm 0,7% dân số, trong khi Ấn giáo là 79.8% . Chư Tăng đã thế
thì ni giới chắc chắn không đủ sức bảo tồn giáo đoàn.
Thomas Laird viết: “Bởi
vì Ấn Giáo tiêu diệt đạo Phật kể từ vào thế kỷ thứ 2 trước tây lịch
và Hồi Giáo tiêu diệt đạo Phật vào thế kỷ thứ 13 đến thế kỷ
16 sau Tây lịch. đạo quân xâm lăng của người Hồi giáo đã hủy diệt tu viện
Atisha ở miền Đông Ấn. Người Hồi giáo thời đó thường có những cuộc hành quân
trên dải đất nay là A-phú-hãn và Pakistan; họ gây chiến suốt dọc bình nguyên
sông Hằng từ Tây sang Đông. Trong gần hai trăm năm họ cướp phá và thiêu đốt
hàng trăm tu viện và những pho tượng Phật”…
“Phật giáo đã bị hủy diệt như thế
naò?” Tôi (TL) hỏi: “Phải chăng chỉ vì những cuộc tấn công của người
Hồi giáo?”.
“Không có gì xảy ra chỉ vì một nguyên do [duy nhất], Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời. Trước đây có một học giả , nay đã mất, đã gửi cho tôi một cuốn sách ông ta viết về quan điểm của ông với ba lý do khiến Phật giáo suy thoái tại Ấn”.
“Thứ nhất, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, các thí chủ của các tu viện đã ngày càng tỏ vẻ nghiêng về các truyền thống phi Phật giáo. Thứ nhì, có những thế lực bên ngoài như Hồi giáo và các thế lực khác -- họ cố tình tiêu diệt Phật giáo. Thứ ba, chính các tu viện và các nhà sư đã trở nên giàu có và gom góp được nhiều vàng bạc dưới danh nghĩa của Mật Điển, [nhưng họ đã] sa đọa trong rượu chè và sắc dục. Những chuyện như thế này đã xảy ra. Cho nên dân chúng mất niềm tin, có người đâm oán ghét các nhà sư và không còn tin tưởng các nhà sư nữa. Do đó, tôi thấy là không chỉ có một mà là có nhiều nguyên do”.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe ngài qui tội cho người theo Phật giáo trong những biến cố như vậy, trong khi tôi vẫn luôn cho rằng người Hồi giáo phải chịu trách nhiệm. Tôi gặng hỏi: “Thực vậy sao? Ngài không trách người Hồi giáo ư?”.
“Tôi (ĐLLM) nghĩ rằng trong trường hợp của người Tây Tạng cũng như trường hợp của người Ấn, [ta thấy] có khuynh hướng đi tìm những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng nhìn vào những thế lực bên ngoài đã ăn sâu vào tâm trí con người và rất khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm đuợc gì nhiều đối với những người khác, đối với những thế lực bên ngoài. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không hành trì, không giữ gìn giới luật cho nghiêm ngặt thì tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành đạo đức giả (hypocritical). Thật là như vậy. Do đó, đây chính là lịch sử đích thực của Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
***
“Không có gì xảy ra chỉ vì một nguyên do [duy nhất], Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời. Trước đây có một học giả , nay đã mất, đã gửi cho tôi một cuốn sách ông ta viết về quan điểm của ông với ba lý do khiến Phật giáo suy thoái tại Ấn”.
“Thứ nhất, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, các thí chủ của các tu viện đã ngày càng tỏ vẻ nghiêng về các truyền thống phi Phật giáo. Thứ nhì, có những thế lực bên ngoài như Hồi giáo và các thế lực khác -- họ cố tình tiêu diệt Phật giáo. Thứ ba, chính các tu viện và các nhà sư đã trở nên giàu có và gom góp được nhiều vàng bạc dưới danh nghĩa của Mật Điển, [nhưng họ đã] sa đọa trong rượu chè và sắc dục. Những chuyện như thế này đã xảy ra. Cho nên dân chúng mất niềm tin, có người đâm oán ghét các nhà sư và không còn tin tưởng các nhà sư nữa. Do đó, tôi thấy là không chỉ có một mà là có nhiều nguyên do”.
Tôi rất ngạc nhiên khi nghe ngài qui tội cho người theo Phật giáo trong những biến cố như vậy, trong khi tôi vẫn luôn cho rằng người Hồi giáo phải chịu trách nhiệm. Tôi gặng hỏi: “Thực vậy sao? Ngài không trách người Hồi giáo ư?”.
“Tôi (ĐLLM) nghĩ rằng trong trường hợp của người Tây Tạng cũng như trường hợp của người Ấn, [ta thấy] có khuynh hướng đi tìm những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng nhìn vào những thế lực bên ngoài đã ăn sâu vào tâm trí con người và rất khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm đuợc gì nhiều đối với những người khác, đối với những thế lực bên ngoài. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không hành trì, không giữ gìn giới luật cho nghiêm ngặt thì tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành đạo đức giả (hypocritical). Thật là như vậy. Do đó, đây chính là lịch sử đích thực của Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
***
Sinh
hoạt ni giới trên thế giới:
Bước mở đầu
và phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni ở Tích lan
Vào năm 250 trước Công nguyên, Hoàng tử Mahinda, con trai vua A-Dục
mở đầu việc thiết lập tăng đoàn ở Tích lan, và chỉ sáu tháng sau em gái Hoàng tử
Mahinda là công chúa Sanghamittarama đã đến Tích lan với một nhánh cây bồ đề để
khai trương ni đoàn ở đây. Ni đoàn đã phát triển cho đến năm 1017 sau Công
nguyên, rồi ni đoàn bị tan rã sau cuôc xâm lăng Chola. Tăng đoàn được phục hoạt
hai lần, nhưng ni đoàn thì không. Trong giai đoạn giáo đoàn ni Tích
Lan cực thịnh, đã từng sang các nước như Triều Tiên, Trung Hoa để khai đàn truyền
giới cho chư ni bản địa.( Hema
Goonatikake Việt
dịch : Trần Như Mai)
Việc phục hoạt giáo đoàn Tỳ-kheo-ni ở Tích lan đã là một đề tài tranh
luận hơn một trăm năm. Sư nữ Dharmapala, một nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng
ở Tích lan , đã cổ động việc phục hoạt Ni đoàn vào năm 1891.(PG Tích Lan).
Mặc dù vậy, chính quyền đã đáp ứng nhu cầu của các sư nữ bằng nhiều
cách. Vào năm 1983, Uỷ Ban Phật giáo thuộc Bộ Văn Hóa đã khởi đầu một
chương trình ở các cơ sở tăng chúng cấp quận nhằm cung cấp những phương tiện
giáo dục cho các sư-nữ-mười-giới để chuẩn bị cho họ dự những kỳ thi Phật
học, một phương tiện mà trước đây chỉ có tăng chúng được hưởng. Đến năm 1995,
có 15 tổ chức điều hành các lớp học dành cho sư nữ. Các sư nữ được cấp thẻ
căn cước như là bước đầu đi đến việc công nhận họ. Các tổ chức sư nữ được thành
lập ở cấp quận và một liên đoàn được tạo ra để liên kết các tổ chức ấy lại với
nhau. Ủy ban điều hành của liên đoàn này bắt đầu họp mặt hằng tháng ở
Colombo để thảo luận và quyết định về những sinh hoạt ở cấp quận. (Bước mở đầu và phục hoạt
Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni ở Tích lan)_
Ni giới Đài Loan:
Ni
trường Phật giáo Luminary được thành lập năm 1980 cũng đã đóng góp cho sự
phát triển của Ni giới Ðài Loan.
Năm 1990, trường đại học Phật giáo đầu tiên
được chính thức công nhận theo tiêu chuẩn quốc gia mang tên Trường Ðại Học
Nhân Văn và Kỹ Thuật Huafan được thành lập bởi một vị Ni là Tỳ-kheo Ni Hiu
Wan.
Nhiều tấm gương của những
vị Ni tiên phong này đã khuyến khích thế hệ Ni trẻ hiện nay theo học cao học ở
nước ngoài và nhiều người trong số họ đã được cấp bằng tiến sĩ.Ngoài
những ni sư như ni sư Chứng Nghiêm
Ni giới Ðài Loan đã và đang dấn thân trong các hoạt động học tập Phật
pháp, nghiên cứu, giáo dục, nghệ thuật và kiến trúc Phật giáo, các chương
trình từ thiện, cứu trợ thiên tai và nhiều hoạt động khác. Thành công của họ
trong những lãnh vực này được công nhận không chỉ ở lãnh thổ Ðài Loan mà trên
toàn thế giới. Vào năm 1953, đại giới đàn đầu tiên ở Ðài Loan được tổ chức tại
chùa Dazian do các vị sư đến từ Trung Hoa lục địa làm đàn chủ - giới Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo Ni chính thức được trao truyền tại Lãnh thổ Ðài Loan. Kể từ đó, số
lượng Tăng Ni tăng mỗi năm và giáo đoàn Phật giáo chính thức hình thành. Năm
1957, Ni sư Hsuan Shen, trụ trì Ni viện Yi-Tong thành lập một Ni trường, đặt
nền móng cho hệ thống giáo dục Phật giáo chính thức của Ni giới Ðài Loan. Những
bước phát triển hiện tại
Tỳ-kheo Ni Wu-Yin sáng
lập Ni trường Phật giáo Luminary năm 1980, Tỳ-kheo Ni Ruxue thành lập Viện Phật
Học Fa Kwang nãm 1989, Tỳ-kheo Ni Hiu Wan thành lập Trường Ðại Học Nhân Văn
và Kỹ Thuật Huafan nãm 1990, và Tỳ-kheo Ni Cheng Yen thành lập Trường Cao Ðẳng
Y Khoa Tzu Chi năm 1994. Trong vòng 20 năm qua, Ni giới Ðài Loan đã thành lập
rất nhiều học viện, đóng góp đáng kể cho công cuộc giáo dục và đào tạo cộng đồng
tu si và cư sĩ.”
Tóm lại, giáo đoàn ni
giới Đài Loan tạo một âm hưởng không nhỏ
không những tại quốc nội mà còn lan tỏa ra thế giới, để từ đó, ni giói
các nước lấy đó làm bệ phóng cho việc phát triển tài năng ni giói mà từ lâu
do điều kiện sinh hoạt xã hội đã bị mai một.
NI GIỚI HÀN QUỐC
Theo ni sư Giới Hương:
“Phật giáo được du nhập vào Hàn quốc đến nay hơn 1600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn quốc không có nhiều ghi nhận về hoạt động của ni giới.
Thật ra ở Hàn quốc, ni
giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những
giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37
trước Tây Lịch –668 sau Tây Lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi
Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson
1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy
trì và phát triển. Tuỳ địa phương khác nhau mà vị trí, vai
trò và sự biểu hiện của ni giới trong Phật giáo cũng
đa dạng tuỳ duyên. “
Sunim Sa Morye là vị tỳ-kheo-ni
đầu tiên, kế đến là hoàng hậu của vua Beopheung, sau đó xuất gia trở
thành sunim Myobop và là vị tỳ-kheo-ni đầu tiên của Giáo hội ni
ở Silla.Lần lượt các hoàng hậu tín nữ ái mộ Phật giáo xuất gia như: Hoàng hậu
của vua Jinheung xuất gia làm tỳ-kheo-ni Bopun, phu nhân Jiso
của tể tướng Kim Yu-si cũng xuất gia trở thành tỳ-kheo-ni
Vào năm thứ 12 triều
vua Jinheung, vua đã sắc ban tỳ-kheo-ni Ani làm ni trưởng của Giáo
hội ni. Tóm lại, lịch sử Hàn
quốc ghi nhận ni giới đạt vị trí cao nhất trong thời
đại Tam kinh. Trong thời này không chỉ thứ dân mà đến cả hoàng
hậu quý tộc cũng xuất gia thọ giới và đóng góp
trong sự nghiệp hoằng pháp. NI
giới tuy không có tầm ảnh hưởng
như Ni giới Đài Loan, nhưng lực lượng ni Hàn Quốc cũng đáng kể trong đời sống
xã hội. Sự thành lập Học
viện Phát triển Nữ giới là biểu tượng kiên cố của nữ
giới Hàn quốc và phản ảnh sự nổ lực của họ cống hiến cho Phật
giáo và xã hội
quý sư bà:
Geumryong, Hyeoak và Sueak đã đivào lịch sử Phật giáo hiện đại của
Hàn quốc. ( theo ni sư Giới Hương).
Ni giới Trung quốc và Tây Tạng:
“Giáo đoàn Tỳ kheo ni
Trung quốc thành lập vào đời Ðông tấn, vị Tỳ kheo ni đầu tiên là Tịnh Kiểm, y
chỉ với ngài Trí Sơn và cầu thọ Sa di giới, khoảng 40 năm sau, Ðàm Ma Kiệt Ða
kiến lập giới đàn Ni, ngoài ra còn có 23 vị khác cũng thọ cụ túc giới trong lần
này, ngài Tịnh Kiểm được xem là người lãnh đạo ni chúng Trung Quốc, năm đó
chư ni an cư nơi thành Lạc Dương, tại chùa Trúc Lâm, được đồ chúng cúng
dường, tiết hạnh thanh nhã, thuyết pháp giáo hoá người nghe đông như lễ
hội, được người đời kính trọng, làm cho Phật giáo đời Tấn ngày càng lan
rộng được luu truyền.
Kỳ thật lịch đại danh
Ni, từ Lưỡng Tấn đến đời Ðường-Tống-Nguyên-Minh-Thanh cho đến ngay nay, có
nhiều hậu phi, công chúa quý tộc hay trong tầng lớp con nhà thư gia xuất gia.
Do vậy phật giáo truyền đến Ðông thổ và là nguyên nhân được cung đình vương
gia chú trọng.
Khoảng Lưỡng Tấn (năm
thứ 70) Ni chúng giáo đoàn vừa mới thành lập, có những vị trứ danh như: Ðàm Bị,
Trí Hiền, Huệ Trạm, Chi Diệu Âm, được những vị vua đương thời ủng hộ, sùng
kính. Nam Bắc triều thứ 06, khoảng 150 năm Tỳ kheo Ni giáo đoàn phát triển rất
nhanh, có nhiều tịnh thất, giảng đường, tinh xá… số Ni chúng hàng trăm vị, có
khi lên đến cả nghìn, có nhiều đạo tràng được vua chúa, quan lại hộ trì, có
nhiều danh Ni xuất chúng. Cuối đời Thanh, do thời chiến loạn lạc, Phật
pháp truyền thừa gần như bị mai một, mai có một số cao tăng đại đức đến Ðài
Loan, Phật giáo Ðài Loan bắt đầu triển khai, cho đến thời cận đại Tỳ kheo ni
giáo đoàn của Ðài Loan được xem là đứng nhất nhì trong các giáo đoàn Ni,
chúng tỳ kheo Ni hoằng hoá khắp nơi trên thế giới, mở ra một thế kỷ mới, vượt
qua những triều đại trong lịch sử.”
Thật ra, sau khi chính sách mở cửa của CSTQ, Phật giáo mới có cơ hội
phục hồi các danh thắng còn sót lại mà trong cuộc “cách mạng văn hóa” hầu như
các tôn giáo đều bị xóa sổ. Tu sĩ xuất hiện mang tính hình thức, ngoại trừ
các bậc danh Tăng Thạc đức còn lại, tuổi cao sức yếu như Đại sư Thái Hư, Đại
sư Hư Vân..chỉ là bóng mát cội tùng biểu tượng uy danh một thời của Phật giáo
Trung Hoa, cố gắng cổ súy chấn hưng Phât giáo theo trào lưu chấn hưng của các
quốc gia như Ceylon (srilanka) đầu thế kỉ 20. Bắt đầu từ cư sĩ David
Hewavitarane, người Sri Lanka, sau này xuất gia thành đại đức Dharmapala. Tại Trung Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn đã đứng lên thiết lập Kỳ Hoàn Tịnh xá, triệu tập
nghiên cứu Phật học qua chữ Hán, Anh văn và Pali. Tiếp đó Thiền sư Thái Hư lập Phật học viện Vũ Xương năm 1912, ra Tạp chí Giác Xã năm 1918, sau đổi thành Hải Triều
Âm, làm tiền đề cho nhiều Phật học viện ra đời; các hiệp hội Tăng Giáo dục,
Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Tổng Hội, Phật giáo Liên Hiệp, Phật giáo Cư Sĩ
Lâm... liên tiếp ra đời. Tại Myanma, Sri Lanka, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan phong trào đổi mới Phật sự cũng được lan rộng.(Wikipedia).
Đến lúc CS Trung quốc tiếp thu chính quyền,
dù cho phép Phật giáo phục hoạt, chịu sự quản lý của nhà nước CS, Phật giáo
hiện nay chỉ là một “Hiệp hội” trong những hiệp hội thuộc “Mặt trận” do chính
quyền Trung Quốc chi phối mọi hoạt động.Nếu có giáo đoàn Ni thì cũng chỉ là
hình thức, không có toàn quyền quyết định mọi sinh hoạt tôn giáo hay đời sống
tu tập. Khi nhà nước giải tán các tu viện Tây Tạng,một số bị đưa vào trại cải
tạo, một số các sư ni phân tán khắp nơi để duy trì công hạnh tu tập theo truyền
thống chặt chẽ của hệ phái, dĩ nhiên gặp không ít khó khăn, mục đích duy trì
hình thức, chuyên tâm tu tập hơn là phát triển kiến thức hay đóng góp mọi
công ích như Ni giới Đài Loan. Ngày nay, một số ít Tăng ni Trung Quốc có
khuynh hương trang bị kiến thức thế học và Phật học, so với các quốc gia bạn
vẫn còn hạn chế. Tại Trung Quốc, mãi tới năm 429 mới có một Ni đoàn từ Tích
Lan tới Kiến Nghiệp học chữ Hán để hướng dẫn Ni chúng người Hoa.
Hội nghị Ni giới thế giới:
Được thành lập và tổ chức lần
đầu tiên tại Bồ đề Đạo tràng (Bodhimanda), Ấn Độ, vào tháng Hai năm
1987 Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ II được tổ chức vào tháng 10/1991 tại
Bangkok, Thái Lan.
Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ III được tổ chức vào tháng 10/1993
tại Colombo, Srilanka với chủ đề "Phụ nữ Phật giáo trong xã hội hiện đại".
Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ IV được tổ chức vào tháng 8/1995 tại
Ladakh, Ấn Độ với chủ đề "Phụ nữ, từ bi, sự sống của thế kỷ
21".
Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ V được tổ chức từ ngày 29/12/1997 đến
ngày 04/01/1998 tại Phnom Penh, Campuchia.
Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ VI được tổ chức từ ngày 01-
07/02/2000 tại Lumbini, Nepal với chủ đề "Phụ nữ, người mang lại hòa
bình cho chính mình, cho gia đình, cho xã hội và cho thế giới".
Hội nghị Ni giới thế giới
lần thứ VII được tổ chức năm 2002, tại Trường Đại học Hoa Phạn, Đài Loan
(Trung Quốc). Chủ đề Hội nghị là “Nhịp cầu thế giới”.
Hội nghị Ni giới thế giới
lần thứ VIII được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc từ ngày 27/6 đến
ngày 2/7/2004. Chủ đề Hội nghị là "Kỷ luật và thực hành của phụ nữ Phật
giáo, quá khứ và hiện tại".
Hội nghị Ni giới thế giới
lần thứ IX được tổ chức tại thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia năm
2006. Chủ đề Hội nghị là "Phụ nữ Phật giáo trong một cộng đồng toàn cầu
đa văn hóa".
Hội nghị Ni giới thế giới
lần thứ X được diễn ra từ ngày 01- 05/7/2008, tại thủ đô Ulan Batar, Mông Cổ.
Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã
đăng cai tổ chức Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ XI.
Sakyadhita
: “Hội Nghị Quốc Tế về Ni Giới Phật Giáo của tổ chức Sakyadhita
do Ni sư Karma Lekse Tsomo cùng với sự hổ trợ của Ni sư Ayya Khema và giáo sư
Chatsumarn Kabilsigh (hiện nay là Ni sư Dhammananda ) diễn ra lần đầu
tiên vào năm 1987 tại Bồ Đề Đạo Tràng, đã đặt vấn đề phục hoạt
giáo đoàn Tỳ-kheo-ni thành một vấn đề quốc tế. Đức Đạt Lai Lạt Ma, là vị diễn
giả chính yếu tại hội nghị đầu tiên của tổ chức Sakyadhita, đã hoàn
toàn chấp thuận ý kiến này.Một nhóm tăng sĩ Tích lan do Tỳ-kheo Mapalagama
Vipulasara lãnh đạo đã huấn luyện mười sư nữ Tích lan để chuẩn bị cho những
hoạt động truyền giáo ở Ấn độ. Sau ba tháng huấn luyện, một nhóm ni sư Hàn quốc
đã truyền đại giới cho các sư nữ Tích lan này vào năm 1996 ở Sanath, Ấn độ.
Người lãnh đạo của nhóm sư nữ tiền phong này là Tỳ-kheo-ni Kusuma ( trước đây
là Kusuma Devandra).
Một vị sư có uy tín ở Tích lan là Tỳ-kheo Inamaluwe Sumangala, vị sư
trụ trì một ngôi cổ tự có từ 2,200 năm trước ở vùng trung tâm Tích lan, đã
thành lập Học Viện Giáo dục Tỳ-Kheo-Ni cung cấp việc huấn luyện ni
chúng để chuẩn bị cho họ thọ giới cao hơn.. Sau một tuần lễ huấn luyện, tổng
cọng có 149 tăng ni Hai mươi bốn vị giới sư và các chứng minh sư gồm các vị
sư thuộc truyền thống Nguyên thủy từ Ấn độ, Tích lan, Thái lan, Cam Bốt và
Nepal, và các vị sư thuộc truyền thống Đại thừa từ Đài loan, Hàn quốc, Hong
Kong và Mã lai. Mười hai vị giới sư Tỳ-kheo-ni và các ni sư chứng minh đến từ
Đài loan, Hàn quốc, và Hoa kỳ (hai vị thuộc truyền thống Tây Tạng). Các vị Sư
Tích lan đã phục vụ như là giới sư của các Tỳ-kheo-ni Tích lan. (Theo
Sakyadhita).
NI GIỚI CAMPUCHIA.
Campuchia không có hệ thống giáo đoàn dành cho ni chúng. Họ là những
nữ tu do phát tâm xuất gia không qua trường lớp đào tạo căn bản hay thọ giới
chính thức như ni bộ Bắc tông Viêt
Nam.Nói đúng hơn, họ là những tín đồ phát tâm, thoát ly gia đình vào chùa
công quả, lo đời sống cho chư Tăng và phục vụ mọi sinh hoạt trong chùa.
“Mới đây, Hội Heinrich
Boll tổ chức một buổi thảo ở Phnom Phen để thống nhất vai trò của người phụ nữ
và Ni giới Campuchia. Tất cả nữ tu trên toàn quốc được mời về tham dự
buổi hội thảo này và nó đã gây sự chú ý của một số nữ tu người ngoại quốc.
Một vị trong số này là Sư cô người Pháp gốc Cambốt Sokchom Charuwana, đã trở
về thăm quê hương để giúp đỡ các bạn đồng tu của mình.
Sư cô Charuwana đã
thành lập "Hội phát triển Ni giới ở Campuchia" tại tỉnh Battambang
và hiện nay Sư cô đã vận động ngân quỹ để xây dựng Ni viện và học viện cho nữ
tu có nơi ăn ở và tu học. Sư cô nói về mục đích việc làm của mình:
"Tôi muốn tất cả các nữ tu ở đây, ai cũng được học hành, vì khi họ học
và hiểu được giáo lý của Đức Phật thì họ chỉ biết cách làm dịu đi những nổi
đau của mình".
Hiện nay, theo ước tính
có khoản 4.000 nữ tu ở Campuchi. Tuy nhiên con số này sẽ gia tăng nếu
các nhà lãnh đạo tôn giáo nhìn nhận đúng đắn và hơn 60% phụ nữ Cambốt, phần lớn
trong số này đều độc thân hoặc quả phụ, đã công khai ủng hộ mọi sự thay đổi
và giúp đỡ cho Ni giới Campuchia, vì họ đang chuẩn bị để trở thành "tân
bình" của Ni đoàn tại xứ sở này.”
(Theo
SEEDS OF PEACE 01-1996)
***
NI GIỚI VIỆT
NAM
… “ Ni giới Việt
Nam xuất hiện khá sớm hơn so với Ni giới Trung Quốc, như sự xuất hiện của Bát
Nàn Công Chúa xuất gia làm Ni, Trong đó có Bát Nàn Phu Nhân. Thiều Hoa, Ni sư Từ Quán, danh tiếng về đạo
hạnh của Ni sư đã được vua Trần Nghệ Tông ban hiệu là “Tuệ Thông
Đại sư.ni sư Vĩnh Huy, ni sư Phương Dung ”
Việt Nam có truyền thống
ni giới lâu dài. Tuy vậy, một thời gian dài lặng lẽ trong chốn Già Lam. Khi
ba dòng Thiền xuất hiện – Tỳ ni Đa Lưu Chi, năm 580, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường,
suốt 800 năm biến thành Trúc Lâm Thiền phái đã cho ra đời một hiện tượng danh
ni sở đắc Diệu Nhân.
Cận bán thế kỷ 19 -20,
nhiều danh Ni đã có công đóng góp cho sự hưng khởi phong
trào tu tập như sư bà Diệu Không, ni sư Diệu Ngọc
(1885-1952), ni sư Diệu Tịnh (1910-1942). Sư bà Bảo An Sa Đéc, ni
trưởng Như Thanh (1911-1999). ni trưởng Huỳnh Liên, ni trưởng Bạch
Liên ... Hay ni trưởng Giác Nhẫn (1919 – 2003), ni trưởng Trí
Hải (1938 - 2003), và ni sư Như Như ,Ni sư Như Đức Long
Thành, Ni trưởng Linh Phong, quý NT. ở Giác Thiên như NT. Tâm Nhàn, NT. Giác
Nhẫn ,Ni trưởng Huệ Giác là một trong những cây tùng của Ni bộ Việt Nam thời
hiện đại, Liên tông Tịnh độ Non Bồng
(LTTĐNB).
Thật
ra, giáo đoàn Ni giới còn rất nhiều cá nhân xuất sắc hiện nay. Ni bộ có mặt từ
khi Phật giáo đăng ký tổ chức lần thứ 11 của Sakyadhita tại chùa Phổ Quang
ngày 22/12/2009. Từ đó, Hiến chương có thêm Phân ban Ni giới mà những nhiệm kỳ
trước chưa chính thức được công nhận.
Sau
ngày đất nước mở cửa, Tăng ni xuất dương du học, trong đó chư Ni hầu như số
đông, đã gánh vác khá nhiều phật sự mà trước 1975 chỉ có ni sư Trí Hải duy nhất
là ngôi sao Ni giới có đủ kiến thức, học vị tại Viện đại học Vạn Hạnh lúc bấy
giờ.
Đối diện hiện thực của Ni giới.
Chư Ni trên thế giới,
như Đài Loan, đã thể hiện bản lãnh, khả năng và trí tuệ tạo uy danh cho Phật
giáo.Tại Trung Quốc, hiện đại Tỳ kheo ni có rất nhiều vị trứ danh, như pháp
sư Thông Nguyện sau khi tốt nghiệp trường đại học Bắc kinh liền xuất gia, trở
thành vị trì Luật danh tiếng, tại ÐàiLoan có Tỳ kheo ni Diệu Nhiên, Viên
Dung, trong giới đàn từng là Giáo thọ sư; Tỳ kheo ni Như Học xây dựng phật học
viện, pháp sư Từ Trang vì Trung Quốc Phật giáo khai mở con đường quốc tế xây
dựng nhiêu chùa chiền và Phật học viện, vai gánh nặng trách nhiệm giáo dục,
văn hoá; pháp sư Từ Huệ là người sáng lập Phật Quang Sơn,chùa Nam Hoa,
chùaTây Lai, chùa Nam Thiên, sáng lập 4 trường đại học, hoằng pháp khắp nơi ;
pháp sư Từ Dung nhiệt tâm trong công tác từ thiện xã hội, tổ chức công tác Phật
Quang quốc tế uỷ viên hội, trên thế giới hiện nay có hơn 100 Phật Quang hiệp
hội; Pháp sư Từ Di chủ biên Phật Quang Ðại Từ Ðiển; Pháp sư Hiểu Vân sáng lập
trường đại học Hoa Phạm; ngoài ra còn có một số vị Tiến sĩ trường đại học
Yale( Hoa kỳ); pháp sư Hằng Thanh giáo thọ trường đại học Ðài Loan, pháp sư Huệ
Nghiêm giáo thọ trương đại học Trung Hưng (Ðài Loan); Tiến sĩ Ðạt Hoà trường
đại học Câu Trạch (Nhật bản); tiến sĩ Y Không Trường đại học Sư phạm Ðài
Loan, tiến sĩ Y Dục trường đại học Ái Tri(Nhật bản); tiến sĩ Vĩnh Hữu trường
đại học Oxford( Anh), pháp sư Ngộ Nhân sáng lập Hương Quang Ni chúng ni
đoàn(Ðài Loan), Pháp sư Chứng Nghiêm sáng lập Bệnh viện Từ Tế và Từ Tế Công Ðức
Hội có văn phòng đại diện khắp thế giới; Pháp sư Chiếu Huệ hộ pháp vệ giáo
nhiệt tâm, những vị Tỳ kheo ni kể trên đều có học vị Thạc sĩ trở lên.
Ngoài ra, trên thế giới
còn có những vị Ni kiệt xuất như pháp sư Ða Kiết – Tây Tạng, địa vị
không thua kém ngài Ban Thiền Tây Tạng; tu nữ Bạch y Ðảm Khổng Na Ung
khai sáng chùa Pháp thân- Thái Lan, nhà giáo dục kiệt xuất Thang Mã Xai cũng tại
chùa Pháp Thân; Tô Ðạt Ma Ca Lợi được xem là ánh sáng của Nữ Tính tại Sri
Lanka, năm 1017 Phật giáo tại đây bị giáo nạn và bị tiêu diêt, do sự nổ lực của
cô mà sau đó Ni giới được khôi phục nhưng chỉ được thọ giới Sa di ni, nay thì
từ từ khôi phục, nguyên nhân chính là do có Tỳ kheo ni ngoại quốc đến tu học,
nên ảnh hưởng phần nào. Tại Singapore có Phật học Viện Quảng Bình. Ni chúng
Philippine xây dựng phòng khám miễn phí cho dân chúng. Ni chúng Hàn Quốc có
Quang Vũ là bộ trưởng giáo dục của Ni chúng. Hoa Kỳ có Ven. Karma Lekshe
Tsomo người sáng lập Hội Phụ nữ Phật giáo Quốc Tế. Ven.Thubten
Chodron hoằng pháp ở Mỹ và Canada . Tại Ðức có Ayakema dạy thiền ở Âu
Châu. Tại Nhật có Tỳ kheo ni Ðại Thạch Thuận Giáo;
Nói tóm lại, Từ khi có giáo đoàn Tỳ kheo Ni,
xuất hiện nhiều vị Tỳ kheo Ni trứ danh, mỗi người mang lại cho giáo đoàn một
khía cạnh khác nhau, Tất cả những việc làm đó làm cho ngôi nhà Ni giới ngày
được hoàn mỹ hơn, sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh ngày rực rỡ. (Pháp sư Từ
Dung phát biểu tại Hội Nghị Quốc Tế Phật Quang Sơn do Hoà Thượng Tinh Vân chỉ
đạo).
***
Ni giới trên thế giới
đã thể hiện khả năng linh hoạt và trí tuệ, vượt qua rào cản truyền thống Nam
tông, đóng góp cho xã hội không nhỏ. Riêng Ni giới Việt Nam, trong lãnh vực
giáo dục, từ thiện, hoằng pháp khá phổ biến, lãnh vực dịch thuật kinh tạng,
hành chánh, kỷ thuật tin học vẫn còn hạn
chế. Những bộ môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, báo chí, kiến trúc xây dựng
bị xem là không cần thiết cho tu sĩ, nhưng “thế gian pháp tức phật pháp” tu
sĩ vào đời bằng mọi hướng hẳn nhiên đạo Phật sẽ có mặt trong xã hội;, y học,
dược học, văn học, nhân chủng học…chư Ni đang cần phải chung tay khi nhu cầu
hiện nay của xã hội không còn hạn chế sau “lũy tre làng”.
Thách thức trong cuộc sống
đòi hỏi lượng số chư Ni đã được trang bị kiến thức và học vị, cần dang tay
đón nhận những lãnh vực được xem là mới đối với tu sĩ Phật giáo VN, những
lãnh vực mang tính khoa học ứng dụng hầu như tu sĩ tôn giáo bạn đã chung tay
từ lâu, có những Hồng y, giám mục từng là nhà khoa học Thiên văn, một số tu
sĩ Tây Tạng cũng từng là y sĩ, khoa học gia…Chư Ni Việt Nam đang có chiều hướng
vượt trội cả lượng lẫn chất trong cộng đồng tu sĩ hiện nay, hy vọng sẽ có những
bước đột phá khác với bước đột phá chư Ni Đài Loan, Trung Quốc, để làm nên
trang sử Ni giới trong thời hiện đại.Một thách thức đang chờ đón.
MINH MẪN
27/12/2019
|