Những ngày gần cuối
tháng 6 tây, tức tháng 5 âm lịch, biển Đông thường dậy sóng. Đặc biệt năm nay,
bão tố dậy sóng cả hai phương diện: địa dư và thời tiết. Đó là lúc đoàn 16 do
GHPGVN đến tận đảo thăm viếng, đặt chân lên chủ quyền biển đảo còn lại ở Trường
Sa, tiếp nhận gió biển, cảm nhận sự lẽ loi của cuộc sống giữa trời nước mênh
mông mà người dân trong đất liền, trong các thị tứ nhộn nhịp khó mà biết được.
Xôn xao về giàn khoan
HD 981 của Trung Cộng chưa dứt khoát, chúng lại tiếp tục cho trình làng thêm,
xem thế giới chả là gì, sự phản kháng của Việt Nam lại không có giá trị. Chúng bắn
giết ngư dân, đâm nát tàu hải giám, cảnh sát biển, cắt cáp tàu Bình Minh... xem
lãnh hải Việt Nam như chốn
không người. Ngư dân tiếp tục bám biển, Việt Nam
tiếp tục bắt loa kêu gọi một cách vô vọng, cuối cùng cứ khoanh tay cho chúng giết
mà không được phản ứng tự vệ.
Đã qua 15 đoàn trong và
ngoài nước thăm viếng biển đảo. Ngày 21/6, cảng Cát Lái đưa 154 vị trong Giáo Hội
Phật giáo cùng đoàn báo chí, đài truyền hình, nhóm khảo cổ ra khỏi sông Lòng Tảu
thuộc đặc khu rừng Sát để hướng ra đại dương. Từ Cát Lái ra Vũng Tàu chỉ trên
60km, phải mất 5 tiếng. Đất liền mờ nhạt, bóng xanh cây cối cũng nhòa trong
sương mỏng của chân trời mênh mang và biển cả. Hai ngày hai đêm tàu Hải quân
571 buông neo ngoài khơi đảo Sơn Ca, một ngọn đảo san hô không một bóng cây.
Khoảng cách khá xa, đảo ẩn hiện trắng toát giữa màu xanh của biển và trời. Bốn
chiếc ca nô chuyển tải hàng hóa và người bập bềnh trên ngọn sóng trắng xóa. Hơn
20 phút, chỉ còn thấy áo phao hồng nhạt và cano nhập nhồi đùa sóng để cố hướng
vào bờ. Hơn chục em binh sĩ rất trẻ ngâm mình dưới nước để giữ ca nô cho khách
bước lên chiếc ghế cắm xuống cát biển, bước lên bờ.
Ngôi chùa nằm ngay đầu
bờ đảo; tuy không lớn lắm so với các chùa trong đất liền, nhưng vẫn vượt trội
trên một diện tích của đảo Sơn Ca quá nhỏ bé. Kiến trúc theo lối cổ miền Bắc.
Chính điện chật hẹp, đủ tôn trí ba pho tượng đá đen, tượng Hộ Pháp và tượng
Thánh hiền. Với phương tiện thiếu thốn của đảo, những pho tượng trên một tấn được
an vị lên bệ thờ, toàn nhờ sức lao động cơ bắp của các em chiến sĩ biển đảo,
nói lên ý chí và sức người. Thảo nào, cha ông ta xa xưa, chưa có phương tiện
tàu bè hiện đại, hàng năm vẫn vượt trùng dương vào mùa nước lặng để tuần thám với
những biên đội đơn sơ để xác định chủ quyền Việt Nam mà chưa có một ai đặt chân
đến chốn hoang vu như thế. Bao di tích khảo cổ, bao chứng từ của cung triều,
bao văn kiện lịch sử thế giới cũng đã xác định sự có mặt của Việt Nam khá sớm tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Thế nhưng, sự thật luôn bị phủ nhận bởi bạo lực và tham tàn. Ông cha ta đổ
bao xương máu để mở mang và giữ vững bờ cõi, thế hệ cháu con đã để vuột mất
ngoài tầm tay một phần máu thịt đất tổ quê cha. Trước bạo tàn, chúng ta chỉ biết
la làng; sống cận kề kẻ vũ phu, chúng ta không dám liên kết với bạn bè xa xôi,
để rồi cứ bị đánh, rồi thoa, dỗ ngọt rồi rút tỉa bằng những luận điệu ngọt ngào
ru ngủ.
Trải qua bao thế hệ,
bao thể chế chính trị khác nhau, lòng yêu nước của con dân đều là một. Mỗi người
thể hiện sự yêu nước và hành động khác nhau, thậm chí đem thân mạng làm đuốc
đánh động lương tâm nhân loại nhưng vẫn không soi sáng được lòng dạ vô minh của
kẻ bạo tàn tham lam bành trướng. Như chị Lê thị Tuyết Mai, 67 tuổi, pháp danh Đồng
Xuân, huynh trưởng miền Quảng Đức thuộc giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
tự thiêu để phản đối Trung Quốc xâm lược Biển Đông mà phát ngôn vội vả của một
viên chức thành phố gọi là bị khủng hoảng cuộc sống. Rồi tới anh Hoàng Thu sinh
năm 1942 tại Huế, cựu chiến sĩ pháo binh thuộc quân lực VNCH, tự thiêu tại Mỹ.
Đã từng có những chiến
sĩ VNCH phơi thây nơi đảo vắng, từng chôn xác dưới đại dương cũng chỉ vì chủ
quyền của đất nước, cũng từng có những bộ đội hy sinh để chiếm giữ đảo vắng cho
quê hương mà thân xác chưa hề được truy điệu. Đại dương vùi dập bao sinh mạng
con dân đất Việt, nhưng không thể chôn vùi lòng yêu nước khi một phần lãnh hải
bị chia lìa.
Trước cảnh biển Đông dậy
sóng, anh em binh sĩ chế độ cũ trước đây đã từng được hậu phương quan tâm, hiện
nay cũng vậy, luôn được đồng bào đến tận nơi an ủi thăm viếng, tìm mọi cách để
gửi gấm tâm tình. Sáng ngày 23/6 đoàn đặt chân lên Sơn Ca với sự ngỡ ngàng, vừa
vui vừa buồn. Vui vì tận mắt nhìn một phần máu thịt quê hương âm thầm tồn tại
giữa biển khơi, buồn vì mọi tiện nghi của đất liền đều khó khăn, thiếu thốn. Nước
ngọt chỉ sử dụng thoải mái vào mùa mưa. Không một ngọn cây nào sống nổi giữa
cái mặn của nước, cái nắng của trời. Người từ đất liền trở thành thượng khách
quý hiếm mà những ai ở trên đảo đều dành trọn sự trân quý khi họ đến. Đoàn của
PGVN cũng được đón tiếp trọng thị để rồi khi trở lại tàu, ánh mắt các em binh
sĩ trẻ ngâm mình dưới nước đẩy ca nô ra đám san hô như muốn dán chặt theo đoàn
để về phố thị.
Sau khi an vị tôn tượng
Phật ngọc nhỏ do Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cúng dường ba chùa trên đảo, chư tôn
đức cùng đoàn tiếp tục cuộc hành trình còn lại, trả sự thầm lặng cho đảo giữa
biến động của đất trời vào mùa giông bão. Một cán bộ chiến sĩ Hải quân hỏi:
"Sao mấy thầy lựa mùa giông bão mà đi?". TT T.Giác Hiệp trưởng đoàn
đáp: "Chính vì giông bão của biển Đông do con người và thiên nhiên tạo ra
nên chúng tôi mới phải đến".
Đoàn 16 là đoàn thăm viếng
cuối trong năm khi bão tố đe dọa sự sống thầm lặng của các đảo biển xa xăm.
MINH
MẪN
30/6/2014
KHI NỔI PHONG BA TỪ THIÊN NHIÊN, TỪ LÒNG THAM MUỐN LÀM BÁ CHỦ THÌ HẢI ĐẢO KHÔNG CÒN THẦM LẶNG NỮA.
Trả lờiXóaNước mặn, gió biển, cỏ cây còn sống không nổi, huống chi con người. Thật tội nghiệp quá! Phải có gì để bù đấp cho sự hy sinh của những con người trẻ này.
Trả lờiXóa