Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

CHƯỚNG NGẠI VÀ HÀNH PHÁP

 

Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.

 

Trạng thái tâm lý do tập khí lâu ngày là một chướng ngại khó đoạn, nhất là tạp niệm, loạn tưởng, phóng tâm làm chệch hướng con đường đang đi.

 

Nhà Thiền nêu lên chánh niệm, trong chánh niệm thiếu tỉnh giác cũng lạc sang vọng niệm. Bảo là chánh niệm là chánh niệm làm sao lạc sang vọng niệm?

 

Ví dụ một cụ bà tay lần tràng hạt nhất tâm trì niệm “A Di Đà Phật”, niệm theo thói quen lâu ngày không còn chú ý vào câu niệm, tay vẫn lần tràng hạt, miệng niệm, tâm bám vào âm ngữ, nhưng ý thức nhường cho vô thức lập lại đều đều theo âm thanh nào đó nhập vào nhĩ căn, tâm liền bám theo âm thanh đó lặp đi lặp lại thay cho trì niệm danh hiệu. Thật ra không nhất cứ phải trì hồng danh, bất cứ chủ đề nào chuyên trì một cách tỉnh thức không máy móc cũng đưa đến định.(đây ta nói đến việc chuyên niệm nghiêm túc,miễn bàn vấn đề cầm tràng hạt,vừa đi vừa nói chuyện hay làm việc khác).

 

Trạng thái cứ bám theo thói quen thiếu tỉnh giác dễ lạc sang vọng tưởng, tạp niệm. Vọng tưởng tạp niệm có hai trường hợp: một là tập khí do thói quen trong tàng thức xuất hiện, lúc ngủ gọi là chiêm bao mộng mị, lúc thức xuất hiện xen lẫn vào công việc đang thực hiện; thứ hai là trường hợp vọng tưởng suy nghĩ lang bang thiếu tập trung.

 

Trên đây là chướng duyên phổ cập, còn những trở ngại trong lúc hành trì là “hôn trầm”, gọi là ngủ gục, u trệ, ngủ không ngủ mà thức không thức. “Thụy miên” là ngủ mê man. “Trạo cử” là bồn chồn, xôn xao, tay chân không yên. “Hối quá” là tâm bất an những chuyện đã qua. “Nghi” không tin chính mình, không tin pháp giải thoát hay còn hồ nghi chưa dứt khoát một việc gì. Đây là năm món chướng ngại cho việc tu tập. Không đọan trừ được thì không thể bắt tay vào hành trì giải thoát.

 

Nghe thì gian nan, nhưng quyết tâm sẽ được.Quyết tâm không có nghĩa cố đè nén, càng đè nén càng vọng động.Cứ bình tĩnh ngồi xuống nhìn từng vấn đề một, lý do sanh khởi để gỡ rối.

 

Ví dụ: trước khi Thiền, ăn quá no dễ sanh “hôn trầm”. Không làm chuyện sai quấy thì tâm không phải bị”hối quá”.Cuộc sống đừng lăng xăng, tranh đấu hơn thua,ước muốn đủ thứ thì tâm bớt “trạo cử”. Thân không quá vất vả, mệt mỏi thì không bị “thụy miên”.Tính tình dứt khoát không lạc vào trạng thái “nghi”.

 

Một khi giải quyết nhẹ nhàng từng vấn đề thì tâm “hỷ lạc” sẽ xuất hiện.Đó là những “triền cái”. Vượt qua ngũ triền cái, còn phải đối diện với bảy “kiết sử”.

 

“tham kiết sử,sân kiết sử,kiến kiết sử, nghi kết sử,mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử” và thập kiết sử như “tham, sân, si,mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ”.

 

Tất cả đều là vi tế phiên não, phân tích cho thấy trạng thái tâm thức chúng ta trùng trùng điệp điệp cấu thành các tập khí nhiều đời đã cản trở con đường thanh tịnh tâm thức của hành giả.

 

Phân tích để thấy vây bủa các tập tính như thiên la địa võng, thực ra khi hành giả nhất tâm nhiếp niệm lâu ngày các tập khí sẽ tan loảng mà không cần phải gỡ rối từng mắt một. Tập khí không phải là một thực thể hữu hình, chỉ là trạng thái tâm lý đã được un đúc lâu ngày. Tâm tịnh an nhiên trước mọi vấn đề như cây lặng yên gió giữa trưa Hè, như trời trong vắt giữa đêm trăng.

 

Thiền phái Trúc Lâm của vua Trần Nhân Tông quan niệm: “đói ăn, khát uống, buồn ngủ cứ ngủ” đó là Thiền cần chi phải tầm cầu! Nói như vậy nhưng không phải hành trạng của người thường, hành giả luôn tỉnh giác để biết mọi việc mà không hành xử  theo phản ứng thường nhật.

 

Thiền sư Nhất Hạnh thiền hành từng bước chân an lạc gọi là “hiện pháp lạc trú”. Thiền trong cuộc sống, nghĩa là mọi sự việc, hiện tượng đều có thể tham thiền của một hành giả.

 

Cứ việc ngồi xuống, buông bỏ mọi tâm tưởng, luôn tỉnh giác, không để vô thức làm chủ. Đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể Thiền, đó chỉ là nhiếp tâm, nhưng khó định, chỉ có ngồi mới định được thâm sâu, mới phát sanh tuệ trí, gọi là Thiền định.

Dĩ nhiên hàng ngày phải tập buông mọi cảm thọ, mọi ham muốn, mọi tác động tâm lý,mọi ràng buộc vật chất tự dưng tâm nhẹ, lắng đọng dễ đi vào Thiền và định.

 

MINH MẪN

31/7/2024

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

TRÍ VÀ BI

 

Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.

Đạo Khổng thường đề cao “Tam cương, ngũ thường”, “chánh nhân quân tử”. Đạo Lão hướng đến chân nhân;Đạo gia quan niệm con người là tiểu vũ trụ, mang đủ tính chất của một vũ trụ.Ngũ hành là nguyên lý căn bản của mọi sự vật.Bà La Môn giáo xem con người là một tiểu ngã nằm trong Đại ngã, cần phải trở về với Đại ngã.Kito giáo lấy Bác ái làm nền tảng sống trong xã hội loài người khi chiêm niệm hướng tâm về Thượng đế; và Phật giáo, cho dù đời sống nhân sinh hay hướng đến thoát ly tam đồ đều lấy “Từ bi” làm cơ bản cho mọi hành hoạt.

                                                        ***

“Từ bi” là chữ quá quen thuộc trong nhà Phật, quen đến độ con người không còn nhận thấy tầm quan trọng để áp dụng vào đời sống. Từ ngũ giới đến thập thiện, từ lục phàm đến tứ Thánh,từ nhân sinh đến Bồ Tát…đều mang đậm tính chất của Từ bi.Từ bi không những thương người, thương vật mà cả đến thực vật, khoáng vật.Đối với con người và động vật hạ đẳng không được sát hại, ngay cả thực vật và khoáng vật cũng không triệt phá vô cớ.Theo khảo nghiệm của một nhà khoa học, thực vật vẫn có cảm tính nhạy bén.Những minh sư có tuệ nhãn cũng nhìn thấy khoáng vật có linh khí.

Những hành giả chân chính, đến ngụ tại gốc cây cũng xin phép, hái rau củ cũng ngỏ lời.Hành giả chân chính là một chân nhân thượng đẳng.Tuy nhiên, trong xã hội con người không thể áp dụng một cách tuyệt đối vì còn có mối tương quan dị biệt về tập quán, về giáo dục…

Một phật tử sống trong gia đình, không thể áp dụng từ bi theo lối tiêu cực; ví dụ thương con không có nghĩa chiều con thái quá đưa đến hư hỏng.Vì tương lai của đứa con hư hỏng,la rầy đánh đập không có nghĩa là thiếu lòng từ, như vậy “từ bi” cần phải có “trí tuệ”; phải hiểu cách áp dụng Từ bi đúng từng trường hợp.

Một quan niệm sai lầm khi thấy việc sai trái của ai đó mà không nỡ góp ý vì sợ họ buồn, hay sợ xen vào nhân quả người khác,đó không phải là Từ bi.Trong cuộc sống mỗi người nhìn một vấn đề khác nhau do tập quán, tập khí, lòng đố kỵ ghen tỵ…họ thấy là họ đúng, đương nhiên đó là quyền cá nhân; trong phạm vi Phật giáo không cho phép chúng ta nhìn một hiện tượng, một vấn đề bằng sự tỵ hiềm, đố kỵ, ghen ghét hoặc vô trách nhiệm. Để nhận định đúng vấn đề, cần đặt trên căn bản của lòng từ và trí tuệ. Cho dù một sự kiện khác biệt với cá nhân hay tập thể, dùng lòng từ và trí tuệ sẽ thấy vấn đề đúng sai của một hiện tượng; khi cá nhân đi quá đà về nhận định, hành sử sai lệch về nhân cách, chúng ta không thể vì lòng từ để mặc một cách vô trách nhiệm.Chúng ta bị ám ảnh về nhân quả, ai làm nấy chịu, không xen vào nhân quả của người khác, nói thế Bồ tát vào đời để làm gì? Xác định khi can thiệp một vấn đề vì lòng từ cho mọi người sáng tỏ tránh lầm lẫn hay vì lòng đố kỵ cá nhân.Như vậy cùng một hành động đúng hay sai do tâm niệm được xây dựng bằng trí tuệ và lòng từ bi hay do tâm đố kỵ.

Sợ đau không dám mạnh tay mổ xẻ ung nhọt, tất nhiên ung nhọt sẽ ăn luồng trong cơ thể. Mổ xẻ là liệu pháp tối cần để phục hồi sức khỏe. Trong một tập thể có những thành phần sai phạm, nếu nội bộ không đủ can đảm chỉnh huấn, phải cần đến ngoại lực. Không nên tự ái khi người ngoài phơi bày những ung nhọt, đó là thiện tri thức cần phải cảm ơn, để tránh cho nhiều người mê lầm tiếp tay.

Gần đây Phật giáo có quá nhiều vấn đề tai tiếng bởi một vài cá nhân, những người lợi dụng dẫm đạp Phật giáo cũng có, cũng không thiếu những tấm lòng muốn góp ý xây dựng bằng cách dơ cao đánh khẽ; chúng ta phải bình tâm nhìn nhận vấn đề cả hai, cảm ơn kẻ nặng lời cho ta tỉnh ngộ, không quên ơn những ai có tấm lòng bảo vệ Phật giáo, tất cả đều là ân nhân.

Ta cũng không cần chỉ trích, phê phán, nhục mạ một ai đó khi họ không dính đến ta, không xúc phạm ta,không làm hại uy tín của tập thể ta, làm như thế là tạo nghiệp ác.

                                                          ***

Lòng từ càng thâm sâu, trí tuệ càng thẩm thấu. Không một hành giả, thánh nhân nào đạt quả vị mà thiếu lòng từ. Từ bi là năng lượng bao trùm vạn hữu, Từ bi là tố chất của nguồn sáng phát sanh tuệ giác. Hai Tôn giáo tuy có hai ngôn từ khác nhau: “từ bi và Bác ái”, thông thường ta nghĩ “từ bi” là tình thương bao quát mọi loài, còn “bác ái” chỉ hạn chế trong cuộc sống giữa con người với con người, nhưng thực tế với tầm nhìn của những bậc chứng đắc, năng lượng của Từ bi và bác ái đã phủ trùm vũ trụ.Có những sinh thức nhẹ, vừa thoát xác đã nhập vào luồng sáng cảm thấy tràn đầy tình thương, những người chết lâm sàng đều cảm giác như nhau. Trong “tử thư Tây tạng” cũng đề cập đến Bardo, trạng thái trung ấm tùy luồng sáng mờ tỏ mà linh thức theo phước duyên nhập vào. Những linh thức nhẹ nghiệp, được hòa nhập vào ánh sáng cực tỏ với một tình thương ấm áp khó tả.

Từ bi ở thế gian chỉ là tình thương đồng loại,lòng tốt với mọi loài, nhưng với vũ trụ nó là một trường lực từ ái cuốn hút những linh thức siêu nhẹ. Như vậy, Từ bi là nền tảng căn bản trong cuộc sống của một Phật tử và gốc rễ cho mọi hành giả tiến nhập vào Phật thể.

Trí tuệ là nguồn sáng của tâm thức song hành với từ bi. Từ bi mà thiếu trí tuệ sanh ra ủy mỵ thậm chí vô trách nhiệm.Trí tuệ không có Từ bi dễ đưa đến hành động thiếu cân nhắc, thậm chí tác hại.Bi và trí là đôi chân vào đời vững chắc, là đôi cánh cho hành giả tiến vào tâm thức uyên sâu, không bị lạc dẫn bởi ngũ ấm ma.

Khi hành giả thành công nhập vào pháp giới thì Bi và Trí chỉ là một, như ánh sáng  và nhiệt lượng của một ngọn lửa.

Người con Phật trang bị đầy đủ Trí và Bi sẽ không bị lòng đố kỵ, ghen ghét trước mọi vấn đề trong cuộc sống. Bi giúp ta trầm lắng, Trí giúp ta suy xét thì tập khí không thể nào xen lẫn làm cho ta nhận định sai lệch.

 

MINH MẪN

 26/7/2024