Thứ Ba, 9 tháng 11, 2021

Ý THỨC – VÔ THỨC – TIỀM THỨC

 Ý THỨC LÀ GÌ?

Đây là một vấn nạn, tùy mỗi góc độ có một định nghĩa khác nhau.

Ý thức theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan.

                                                       ***

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người, có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.

– Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.

Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó (Karl Marx)

Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến chừng nào con người còn tồn tại— Karl Marx và Engels.(Wikipedia)

Ý thức là trạng thái hay đặc tính của sự nhận thức, hoặc của việc nhận thức vật thể bên ngoài hay điều gì đó bên trong nội tại. (bách khoa toàn thư mở)

 

 

                                                          ***

Qua nhận định của học thuyết Duy vật và khoa học thực dụng, tiếp theo, thử tìm hiểu quan điểm của phân tâm học Freud:

Tâm trí ba cấp độ của Freud: 

Tiền ý thức bao gồm tất cả những thứ tiềm ẩn có thể được đưa đến vùng ý thức.

Ý thức bao gồm tất cả những suy nghĩ, ký ức, cảm giác và mong muốn mà ta nhận thức được một cách rõ ràng vào bất kỳ thời điểm nào. Ta có thể nghĩ đến và trò chuyện về những thứ kể trên theo lý trí. Ý thức còn bao gồm cả ký ức, không phải lúc nào ký ức cũng nằm ngay trong vùng ý thức nhưng nó có thể được triệu hồi dễ dàng vào bất kỳ thời điểm nào và giúp ta nhận thức nó rõ ràng.

Vô thức là một ‘kho tàng” các cảm xúc, suy nghĩ, ham muốn và ký ức nằm bên ngoài vùng kiểm soát của ý thức.

Freud liên hệ ba cấp độ của tâm trí như một tảng băng. Phần chóp băng bạn thấy ở trên mặt nước thể hiện cho vùng ý thức. Phần băng ở ngay dưới mặt nước nhưng vẫn có thể nhìn thấy chính là tiền ý thức. Và phần băng lớn, nằm ẩn sâu dưới nước mà mắt không thấy được chính là vô thức (Nguồn: Verywell Mind)

Vô thức: Cái nằm dưới bề mặt nhận thức

Trừ khi bạn ý thức được cái tồn tại vô thức trong con người bạn, còn không chúng sẽ dẫn dắt cuộc đời bạn và bạn gọi đó là định mệnh. (Nguồn: EmilysQuotes)

                                                                ***

Hiện nay,vẫn chưa nhất quán việc thẩm định về :”ý thức -  vô thức – tiềm thức”Theo Duy thức học,ý thức chỉ thức thứ sáu, phân biệt thức có tác dụng nhận thức phân biệt đối cảnh. Triết Tây, ý thức được xem như “tâm cơ năng, có khả năng nắm bắt đối tượng khách quan.

Tiềm thức, ý thức, vô thức đều là thể và dụng của tâm.Nếu bảo –“ Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó (Karl Marx) thì Duy thức nói rằng:

“Do giả thuyết ngã pháp
Hữu chủng chủng tướng chuyển
Bỉ y thức sở biến
Thử năng biến duy tam”

 

Khi nói đến ngã và pháp thì trong tâm thức liền hiện những tướng pháp, ví dụ nói đến cảnh giới “không tướng”, pháp tánh thì làm gì có vấn đề đem chuyển vật chất vào đầu để cải biến? do “tưởng thức” xuất hiện mới có : hữu chủng chủng tướng chuyển”.Ngoài “Bỉ y thức sở biến”. thì không có đối tượng vật chất nào làm căn bản liên tưởng. Tạng thức là kho chứa các chủng tử để ý thức (thứ sáu) khởi phân biệt  gồm có ba tên: A lại Da, Dị Thục và Nhất Thiết Chủng.  

Theo Freud – Tiền ý thức của Freud thuộc dạng tiềm thức. Còn bảo vô thức dẫn dắt cuộc đời gọi là định mệnh, chưa hẳn là thế.Nếu vô thức không hình thành hạt giống rõ ràng nằm trong tiềm thức thì không thể  là định mệnh.Thí dụ công phu tu tập, thiếu ý thức tự chủ, tâm mơ màng lang bang, tĩnh tĩnh mê mê, vọng tưởng, thất niệm, ngủ gật…thiếu ý thức nhận rõ thực tại. Hoặc trong cơn mê bất tĩnh, ngủ say…thiếu ý thức, không làm chủ bản thân như mộng du, mộng tinh…đều là vô thức, gần như vô ký của Tạng thức, nó không hình thành một hạt giống tư lương đưa đến kết quả tu tập. Một A La Hán làm chủ sanh tử, ngủ và thức là một, không thể rơi vào trạng thái mộng tinh như một Tiến sĩ nhận định về Đại Thiên

 

                                                           ***     

Tóm lại, ý thức là sản phảm của vật chất theo Duy vật, đó chỉ là nhìn theo hiện tượng;tiền ý thức của Freud chỉ là tạng thức của Duy thức học,vô thức là trạng thái bất định tính không tượng hình hạt giống. Có một nhầm lẫn vô thức là trạng thái không câu chấp vướng mắc, không phải thế, đã là vô thức là không có ý thức tồn tại, không tự chủ rõ ràng.Những người nhập đồng đều nằm trong trạng thái vô thức, tuy không ngủ nhưng không tự chủ, buông thả ý thức  cho tầng song ngoại biên dẫn dắt mà Freud gọi là định mệnh.

Chuyên đề này cần đi sâu hơn, không thể diễn đạt qua vài ngàn tử trên trang mạng.

 

MINH MẪN                                                                                                            09/11/2021

Thứ Hai, 1 tháng 11, 2021

ĐẠI TƯỜNG CỐ HT. THƯỢNG TRÍ HẠ QUANG

 

Thời gian luôn là lưỡi dao sắc bén cắt đứt dòng luân lưu cuộc sống.

Cái gì dù xấu hay tốt, dù giỏi hay dở, dù đẹp hay không,tất cả đều trở về quá khứ, trở thành một không gian huyền hoặc, một ảo ảnh của tâm thức; hồi tưởng cũng chỉ là vọng tưởng.

Lịch sử nhân loại có bao nhiêu danh nhân anh kiệt chỉ còn trên trang giấy mờ của tháng năm..Phật giáo cũng thế, chư Tổ đức, Thánh Tăng được lưu truyền bằng tưởng nhớ, bằng sự nhắc nhở như một ảo ảnh cho hậu thế noi theo.

Phật giáo Việt Nam trãi qua chiều dài lịch sử, thịnh suy với dân tộc như con thuyền bập bềnh theo cơn sóng;lúc tỏ rạng như trăng rằm, khi lu mờ như mây ám. Những kỷ nguyên đương đại, bao lần dân tộc nguy biến, luôn có những Tăng tài xuất đầu lộ diện để hộ quốc an dân. Những lúc mà cuộc thế trắng đen phân minh, nhân tài dễ nhận diện như ngọn đuốc sáng giữa đêm tối, nhưng khi xã hội thật giả xáo trộn khó phân, lòng người điên đảo, đôi khi danh Tăng trở thành tâm điểm đa diện cho cuộc đánh giá như cá cược rủi may, nay đúng mai sai.

Hòa Thượng Trí Quang thuở còn là Thượng Tọa, một nhân vật kỳ bí, xuất thân từ vùng đất sỏi đá làng Diêm Điền, Quảng Bình, (cũng nơi đây, làng An Xá quê Võ Nguyên Giáp, làng Đại Phong quê Ngô Đình Diệm) vào Huế tu học, trong thời gian chế độ nhà Ngô lãnh đạo, Thượng Tọa Trí Quang trở thành ngôi sao lãnh đạo phong trào tranh đấu, không những đối với quần chúng Phật tử,sinh viên trí thức, có cả giáo chức, quân nhân, tiểu thương…đòi bình đẳng Tôn giáo khi lá cờ Phật giáo bị triệt hạ. Tiếp sau Hội đồng quân nhân cách mạng là những cuộc chỉnh lý xáo trộn chính trường Miền Nam, Phật giáo lại tiếp tục dấn thân đấu tranh để hoàn thiện yêu cầu đề ra.Trong giai đoạn này, tuy các thế lực ngầm lợi dụng cuộc tranh đấu nhưng không ai tin đó là thành phần trung lập trong xã hội đương thời.

Con người trầm lặng, sâu sắc như sự sâu sắc của ánh mắt lõm vào làm đôi gò má nhô ra biểu thị tính cương trực bản lãnh.là một đối tượng của bao thế lực lưu tâm.Hòa Thượng trở thành một biểu tượng lãnh đạo phong trào, nhưng lãnh đạo một Tôn giáo thiếu tổ chức dấn thân vào đấu tranh giữa thời chiến loạn lạc không thể tránh những bàn tay chính trị lạm dụng, làm lũng đoạn, phân hóa.Thời nhà Ngô sản sanh ra “Lục Hòa Tăng” thì thời ông Thiệu xuất hiện “Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang”, bị chính trị bôi đen nên gà nhà bôi mặt đá nhau, nhưng chư Tăng lãnh đạo hai khối đều là những bậc chân tu khả kính.

Riêng Hòa Thượng Trí Quang bấy giờ còn là tu sĩ trẻ, tuy được báo chỉ nước ngoài thổi phồng ánh hào quang:”người làm chao đảo nước Mỹ”, Người vẫn trầm lắng khó hiểu, từ đó thuyết âm mưu xem là người của “mặt trận giải phóng Miền Nam”. Đến khi đất nước thống nhất, một vài nhân vật trong chính quyền vẫn nghĩ ngài là C.I.A. Mãi đến lúc còn là nắm tro tàn, không một đa nghi nào giải mã được vấn đề.

Tiến sĩ nghiên cứu Triết học và Phật giáo, Thái Kim Lan trả lời phỏng vấn của đài BBC:

“Hơn hết và trước hết tất cả, Thích Trí Quang là một người "dấn thân cho đạo pháp", một người "cứu độ Phật giáo" và "một nhà tu hành chuẩn mực", "Từ khi ước nguyện chấn hưng Phật giáo, cho đến khi nhắm mắt, thì cái ý nguyện duy nhất của Hòa thượng Thích Trí Quang là làm thế nào để thực hành được những lời của Phật dậy

"Và ông là một vị tì kheo nghiêm túc nhất mực khi hành đạo, khi tụng kinh, cũng như là khi đi theo Phật. Chưa có ai có thể vượt qua ông về cái tu chứng và hành trì.(Thái Kim Lan).”

Sau 1975, ngài ẩn mình chuyên tâm hành trì để chú giải king tạng, sự im lặng khó hiểu đối với nhãn quan chính trị nhưng lại là cái im lặng sấm sét của nhà Phật một  khi biết áp dụng lúc nào nói năng như chính pháp, im lặng như chính pháp. Hành xử của bậc trí Thượng nhơn làm sao người thế gian có thể hiểu đúng và hiểu hết.Quá trình đóng góp  cho văn hóa Phật giáo, ngài là một trong những nhân tài của giáo dục, phiên dịch kinh sớ. chú giải luận thư xây dựng lại tinh thần Phật giáo trong thời kỳ chấn hưng, làm nền tảng cho Phật học và giáo dục Tăng ni trẻ ứng xử theo Chánh pháp.

Cuộc đời thanh bạch, đơn giản, lúc sanh tiền cũng như khi viên tịch, hầu hết các thạch trụ Phật giáo xưa nay đều như thế. 96 năm trụ thế là 96 năm lưu lại nhân gian bao giá trị về nhân cách, trí tuệ, tài năng và công hạnh.

Từ thế kỷ 19 đến  21 có biết bao danh Tăng Phật giáo Việt Nam gánh vác sứ mạng Đạo Đời song toàn, cho dù lúc Bắc Nam còn đang phân cách,bởi – Thế gian pháp tức Phật pháp.

Thoáng mà ba mùa lá rụng, hình ảnh bậc kỳ nhân vẫn chưa phai mờ trên trang sử,tuy là một thạch trụ Phật pháp đương đại, mãi đến bây giờ nhân thế vẫn còn đặt câu hỏi:

“Thích Trí Quang là ai?”

 

MINH MẪN                                                                                                     

  16/11/2021  (12/10 Tân sửu)