Trong cuộc sống, cảm nhận buồn vui luôn vây quanh
chúng ta; Buồn vui, tốt xấu, hên xui…đều là những hạt giống tiềm ẩn trong tạng
thức, gặp thuận duyên chúng phát khởi.Cảm thọ đứng vị trí thứ bảy trong thuyết
Mười hai nhân duyên, nó ở vị trí thứ hai trong năm uẩn tạo thành con người.
Những hiện tượng thuận ý hay nghịch lòng luôn xảy
ra, thường đem đến vui thích hoặc đau khổ, đó là những cảm thọ trực khởi.Chúng
ta không xét sâu vào nguyên nhân gốc rễ của chúng; cứ chạy theo hiện tượng khởi
sanh cảm thọ, từ cảm thọ tạo tiếp hạt giống vui buồn, sướng khổ…gieo vào tạng
thức, tiếp tục làm nhân cho quả khi đủ duyên xuất hiện. Trong kinh Chánh
kiến (Kaccayanagotta
- Ca Chiên Diên thị, thuộc Tương ưng bộ), Phật dạy chánh
kiến là cái thấy trung đạo, duyên sinh, không rơi vào cực
đoan này hoặc rơi vào cực đoan kia.Có nghĩa phải xét những yếu tố
đã tạo nên những nguyên nhân của cảm thọ, mà không chối bỏ trốn chạy khổ đau, bất
toàn hay hoan hỷ chấp nhận những cảm thọ thỏa thích vui sướng.
Kinh Trung bộ số 135, Ngài cũng khẳng định
với thanh niên Tô Đề Đa Tử rằng bệnh là do thói quen (nghiệp)
làm đau đớn và tổn hại các loài động vật, và tử
vong khi có bệnh là do tánh hay tắm máu, sát hại các
loài chúng sanh. Ngược lại, người có thiện nghiệp như hiếu
sanh, vị tha, thương yêu các loài hữu tình sẽ không hoặc
ít mắc bệnh, khỏe mạnh và trường thọ.
***
Thiên tai, dịch bệnh, nhân họa…đều là quả trổ sau
khi duyên đủ yếu tố hỗ trợ. Người Phật tử thấm nhuần giáo lý như Kinh Chánh kiến
trên đây Phật dạy – không nên cực đoan chỉ biết phòng chữa bệnh hoặc bỏ mặc cho
số phận vì tin rằng mọi sự đều được an bài.Cái khác của người tin Phật là nhìn
sâu vào tính chất nhân quả của một hiện tượng; hiểu được nguyên nhân để đoạn trừ
thì quả sẽ tự diệt. Sự khác biệt giữa chúng sanh và hành giả Bồ Tát khi Bồ Tát
sợ nhân, chúng sanh chỉ sợ quả. Thái độ người tu Phật, không trốn tránh cầu khấn
lúc quả đến, không than thở trước nghịch cảnh khổ đau, phải chấp nhận, an nhiên
đối diện để nhìn thấy nguyên nhân sâu xa của hiện tượng do chính ta tạo. Đó là
bài học cho sự tiến hóa. Mọi nghịch cảnh, chướng duyên, khổ đau, bệnh hoạn cùng
cực đều là bài học cho học nhân cần đối diện để làm chất liệu tiến hóa, nếu
không muốn nói khổ đau là một ân huệ cho bài học làm người; chỉ có hưởng thụ dục
lạc, không biết tạo phước, không gặp khổ đau thì chúng ta trầm luân mãi đến khi
hưởng hết phước sẽ bị đọa lạc vào tam đồ ác đạo, đôi khi phước đó cũng là họa nếu
không nhìn sâu vào bản chất của nó.Một khi ý thức được bản chất của phước và họa,
ngay đấy là bài học cho sự tiến hóa tâm linh, đưa đến an bình giải thoát.
Nếu không sát hại sinh vật, không gây đau thương cho
mọi loài thi làm gì có quả báo đau thương, mệnh yểu đến với chúng ta. Nếu không
sa đọa ô nhiễm thì cơ thể làm gì có mầm móng phá hoại nội tạng. Tất cả hiện tượng
bất như ý đến với chúng ta có thể từ nguyên nhân hiện thời hay nguyên nhân quá
khứ lâu xa.
Nghiệp do cá thể hay do cộng đồng tích lũy; nếu là
ác nghiệp thì tương thích với chu kỳ sanh hóa của vũ trụ đến một thời điểm
thích hợp nó sẽ phát trổ; chu kỳ có thể đại hạn 10 năm hay hơn, Thiện nghiệp
cũng thế, trãi qua những chu kỳ bất toại thì nhân thiện nghiệp sẽ trổ sanh
trong đại hạn 10 năm hoặc hơn thế nếu phước nghiệp sâu dầy. Có những cộng đồng
xã hội an lành thạnh vượng lâu dài là do tích lũy phước báu của một cộng nghiệp
sanh loại; Một cộng đồng chuyên sát sanh hại vật, lường gạt chiếm đoạt đem lại
khổ đau cho nhau, hành xử toàn việc ác thì chắc chắn cộng đồng đó sống bất an,
luôn lo sợ, ngờ vực lẫn nhau, nguồn sinh khí nơi đó không thể an lành, và bất hạnh
thường xuất hiện.
Một cá nhân khó chuyển
hóa nghiệp lực của một tập thể, nhưng có thể cảm hóa một tập thể theo chiều hướng tích cực.Đó là cách làm theo
nguyện lực của các vị giáo chủ, chư vị minh sư, thánh nhân khi xuất hiện trong
cỏi trần này. Việc giáo hóa của các Ngài không ngoài giúp con người ý thức được
việc làm và ý tưởng trong tâm thức gieo nhân lành.
Không thể ngồi đó nguyền rủa bóng đêm, thì cũng
không nên than thân trách phận những hậu quả do chính mình gieo tạo. Trong trận
đại dịch, người có tâm từ cùng chia sẻ những kinh nghiệm phòng ngừa và giúp
nhau phòng ngừa, ngược lại, có tâm đố kỵ thì muốn mọi người phải chịu mang bệnh
như mình, tìm cách lây nhiễm truyền bệnh cho xã hội, hoăc vui mừng chúc tụng
khi thấy người mắc bệnh như ta..Với tinh thần con Phật, đối diện trước nghiệp
quả bất thiện, không trốn chạy, không phó mặc cuộc sống đưa đẩy, cũng không an
phận như phần số đã an bài. Cái tinh thần tích cực của một hành giả là chấp nhận
và chuyển hóa. Không có gì phải phân vân giao động; không thể ngăn chận nghiệp
quả khi nhân đã gieo thì phải có giải pháp chấp nhận những gì đang có và nhìn
thấu suốt tiến trình nhân quả của sự việc với sự an nhiên, có như thế mọi người
chung quanh cũng được ảnh hưởng một phần trước thái độ tự tại, không lo lắng sợ
sệt; Hãy an nhiên xem đó là bài học để tâm linh tiến hóa theo chiều hướng tích
cực.
Giao động, lo sợ hay trạng thái tiêu cực đều là tần
số âm dễ chiêu cảm âm tính, cuộc sống sẽ luôn bất an, dễ gặp bất trắc. Một hành
giả lạc quan, tâm thức luôn phấn chấn thì tần số giao động tích cực cao, hỗ trợ
sản sanh hồng cầu, tinh thần minh mẫn, sức khỏe tốt, không một vi khuẩn nào có
thể xâm nhập.
Hành giả có một nội lực sung mãn, do tiếp thu thực
dưỡng thanh khiết tạo một năng lượng
sinh học tốt (rượu bia thịt cá không thể tạo một năng lượng sinh học thanh khiết).Hành
trì pháp môn tương thích để có một năng lượng sinh thức tốt, sẽ đưa đến một kết
quả tuệ giác của năng lượng siêu thức; từ đó do ly dục sanh hỷ lạc.Vì thế người
tu luôn an lạc vui vẻ, khỏe mạnh.
Cảm thọ có ba dạng – thọ khổ - thọ lạc – cảm thọ
không khổ không lạc.Thọ khổ hay thọ lạc đều bị tác động gieo nhân khổ lạc,
nhưng không khổ không lạc thường hiểu là trạng thái vô ký, mà là trạng thái của
thiền thứ tư. Sự thật về khổ, sự thật về khổ tập, sự thật về khổ diệt và sự thật
về con đường đưa đến khổ diệt, không thể hiểu nó là cảm thọ mà phải hiểu là nhận
diện bản chất và tiến trình của cảm thọ qua bốn giai đoạn.Hành giả cần xả niệm
lạc trú, xả niệm thanh tịnh, xả niệm hỷ lạc..tức xả mọi cảm thọ tránh mọi ràng
buộc để tiến đến giải thoát.Tuy xả mọi cảm thọ nhưng lạc thọ vẫn tồn tại phát
triển theo năng lượng sinh thức và năng lượng siêu thức khi bản ngã triệt tiêu;
cảm thọ đây không còn là cảm thức vọng tưởng vô minh.
***
Con người từ lúc có mặt trên cõi trần, cảm thọ xuất
hiện ngay lúc đó. Đứa bé vừa sanh đã khóc vì cảm nhận môi trường khác biệt với
thời gian nằm trong bụng mẹ; chấn động lực trong bào thai khác với chấn động lực
bên ngoài, cảm thọ sự bất an cho bé. Như thế không ai và không động vật nào
không có cảm thọ.Trước việc sanh-già bệnh chết, cảm thọ chung của mọi người là
lo sợ, than oán, tìm cách trốn chạy…nhưng Đức Phật có khác...” (Tăng Chi I,
trang 162-163). Thái tử có một thái độ khác hẳn. Ngài cũng bị già, cũng bị bệnh,
cũng bị chết, nhưng Ngài không có bực bội hổ thẹn, ghê tởm đối với già, đối với
bệnh, đối với chết. Ngài không có ghê tởm đối với chúng, Ngài nhìn chúng với cặp
mắt thật khách quan. Và với cái nhìn ấy, Ngài đoạn trừ được ba sự kiêu mạn,
kiêu mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh, kiêu mạn của sự sống. Ngài nói:
“Ta cũng bị già, không vượt khỏi già, sau khi thấy người khác già... Ta cũng bị
bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bệnh... Ta cũng bị chết,
không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết..., Ta có thể não phiền,
hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy thật không xứng đáng cho Ta. Sau khi quan sát như
vậy, này các Tỷ kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ... sự kiêu mạn của
không bệnh trong không bệnh... sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn
trừ hoàn toàn.”
Trước khổ đau, sanh già bệnh chết, Đức Phật nhận diện
được cảm thọ chính minh, đã tránh những cảm thọ cực đoan lo sợ hay tự mãn thường
có của con người, từ đó ngài phát tâm truy tìm chân lý để giải thoát cho nhân
sinh.
Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ I, trang 163: “Này các Tỷ
kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tầm cầu cái bị
sanh, tự mình bị già... tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Vậy Ta tự
mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, hãy tầm cầu cái
không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ
(Tăng III, A, 152) Đức Phật nhắc nhở: “Này các Tỷ kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên hai vấn đề, sự khổ và sự đoạn diệt đau khổ.” Có nghĩa bắt đầu cảm thọ khổ và kết thúc cảm thọ khổ.
(Tăng III, A, 152) Đức Phật nhắc nhở: “Này các Tỷ kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên hai vấn đề, sự khổ và sự đoạn diệt đau khổ.” Có nghĩa bắt đầu cảm thọ khổ và kết thúc cảm thọ khổ.
Ngay trong trạng thái Thiền định, mọi cảm thọ tuần tự từ sơ thiền cho đến tứ thiền, Ngài vẫn biết , nhận diện mọi cảm thọ nên cảm thọ đó không thể chi phối Ngài được. “Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.”
Do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sãu thức có
cảm thọ, từ vô minh vọng tưởng dẫn cảm thọ tiếp tục triền miên tác động ngược
trở lại tâm thức.
“Này các Tỷ kheo, do thấy vậy, vị đa văn Thánh đệ tử
nhàm chán mắt, nhàm chán các sắc, nhàm chán nhãn thức, nhàm chán xúc, nhàm chán
thọ, nhàm chán ái. Vị ấy nhàm chán tai, nhàm chán các tiếng... nhàm chán mũi,
nhàm chán các hương... nhàm chán lưỡi, nhàm chán các vị... nhàm chán thân, nhàm
chán xúc... nhàm chán thọ, nhàm chán ái. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly
tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là tri hiểu biết: “Ta đã giải
thoát”. Và vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Các việc nên làm đã
làm. Không còn trở lui trạng thái này nữa.”
Như vậy pháp hành đưa đến giải thoát, hành giả lấy cảm thọ làm đối tượng để quán chiếu.khi nhận diện và làm chủ được cảm thọ thì an lạc từ đó hiện diện, không mơ ước tầm cầu, không trốn chạy chối bỏ…luôn sống với thực tại.
Như vậy pháp hành đưa đến giải thoát, hành giả lấy cảm thọ làm đối tượng để quán chiếu.khi nhận diện và làm chủ được cảm thọ thì an lạc từ đó hiện diện, không mơ ước tầm cầu, không trốn chạy chối bỏ…luôn sống với thực tại.
***
Giáo lý Đức
Phật không phải là một học thuật, một triết lý, một nền tảng khoa học hay bất cứ
gì do đứng một góc độ cá biệt để nhìn. Mục đích xuất hiện của Đức Phật trên cõi
đời là chấm dứt mọi nguyên do đưa chúng ta đến sáu nẽo trầm luân; do vậy, giáo
lý Phật giáo đa dạng để tương thích với căn cơ nhân loại, từ đó pháp hành cũng
đa dạng, trong đó, nhận thức bóng dáng chấp thủ của cảm quan tạo nên hạt giống
tiềm ẩn vào tạng thức.Trong thực tế hiện nay, khi mà cộng nghiệp của nhân loại
tích lũy quá mức lũy thừa của bất thiện nghiệp, đã xuất hiện ôn dịch đe dọa cho
nhân loại; thay vì bình tĩnh nhận diện sâu vào nguyên nhân của ác nghiệp, bình
tĩnh tìm cách chấp nhận và chuyển hóa nghiệp lực, bởi lẽ, giao động, sợ hải, hoảng
loạn không giải quyết được gì mà còn tạo thêm một cảm thọ bất an cho tâm thức;
một hành giả tĩnh tọa nhìn sâu vào hiện tượng biến dịch, xem đó là bài học đáng
giá để thức tỉnh trên đường tiến hóa. Dưới cái nhìn của Duy Thức học:
Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do thử bỉ giai vô
Cố nhứt thiết Duy thức
Do các thức chuyển biến sinh khởi ra
các năng phân biệt và sở phân biệt; lại chính các pháp nầy đều
không, cho nên tất cả là Duy thức.
Thế thì -Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu cũng chỉ là bóng
dáng tất yếu của cảm thọ. Vì thế, để giải quyết những mắc mứu từ mấu chốt cố chấp
cảm thọ của con người
Đức Phật day: “Hãy là hải đảo của
ta, không ai giải thoát cho ta và không có nơi nào làm cho ta
giải thoát”
MINH MẪN
29/3/2020