Thứ Tư, 31 tháng 1, 2018

* LỊCH SỬ CHÙA LƯỠNG XUYÊN



Tại sao có tên chùa Lưỡng Xuyên?
Chùa tọa lạc ở số 3 đường Lê Lợi, phường 1, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Chùa có tên Lưỡng Xuyên, xuất phát từ nguồn gốc Hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập có giấy phép do Pierre André Michel Pagès, thống đốc Nam Kỳ, ký ngày 13/8/1934.
Trong cơn biến cố của đất nước vào thời Pháp thuộc, chư tôn Thiền đức ưu tư cho tiền đồ Phật học tương lai, đã vận động thành lập một số nơi trước khi  lập thành Hội Lưỡng Xuyên Phật học.
Những trường lớp ngoài hội Phật học Lưỡng Xuyên ra đời gồm có trường Sông Tra ở chùa Linh Nguyên thuộc Đức Hà Hòa Long An. (Như Trí Khánh Hòa) được coi là học sinh xuất sắc của trường Sông Tra thời đó.
Trường Mai Sơn, thành lập đầu năm 1947.
Trường Ứng Quang (Ấn Quang) ngã ba Vườn Lài lập nên vào năm 1948.
Cuối năm 1950, trường Liên Hải sáp nhập với trường Mai Sơn và Ứng Quang làm Phật học đường Nam Việt, cử hòa thượng Thiện Hòa làm giám đốc. Khi mới sáp nhập mượn chùa Sùng Đức làm trụ sở tạm. Sau đó dời về chùa Ứng Quang ở Vườn Lài và đổi tên thành chùa Ấn Quang.
***
 Do thời cuộc khó khăn, cùng lúc phong trào chấn hưng Phật giáo từ nước ngoài, HT Khánh Hòa  phải bán chùa Tuyên Linh ở Trà Vinh, 1932, để xây Thích Học Đường ngay tại chùa Linh Sơn, trụ sở của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học. Ông Trần Nguyên Chấn, lúc ấy giữ chức phó hội trưởng của Hội, muốn nắm quyền thao túng không được, nên mật báo với nhà cầm quyền Pháp là trường dạy chủ nghĩa cộng sản, trường buộc phải giải tán.
Ðầu năm 1951, Hòa thượng Thích Thiện Hòa đã vận động các trường Phật học Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Ðức và Ấn Quang hiệp nhất thành Phật học đường Nam Việt. Từ đây, chùa Ứng Quang được đổi tên thành chùa Ấn Quang và được chọn làm trụ sở của Phật học đường (Tổ đình Ấn Quang). Hòa thượng Thích Thiện Hòa được bầu làm Tổng giám đốc.
Thích Học Đường, cơ quan đào tạo Tăng tài, xóa bỏ nạn thất học của Tăng đồ, không thực hiện được ở thành phố. Các hòa thượng cố tìm một phương thức khác.
Trước tình thế khó khăn mọi bề, chư Tôn đức đành lập Liên đoàn Học xã lưu động, qua ba địa điểm: Đầu tiên là chùa Long Hòa của Hòa thượng Huệ Quang ở Cầu Kè Trà Vinh. Điểm kế tiếp là chùa Thiên Phước của Hòa thượng Chánh Tâm ở Trà Ôn và điểm thứ ba là chùa Viên Giác của Hòa thượng Tâm Quang ở Bến Tre. Nhưng ở điểm thứ ba, lớp học bị ông Trần Nguyên Chấn báo cho tỉnh trưởng Bến Tre biết Liên Đoàn là lớp học hoạt động không giấy phép, HT Khánh Hòa đành giải tán. Thời bấy giờ thuế thân đã gây cho thanh niên Tăng không ít khó khăn, vào thập niên 30 thế kỷ trước, cuộc sống quá nghèo, dân tình đói khổ thì chư Tăng lấy tiền đâu đóng thuế, vì thế ai về chùa nấy với thầy tổ.
Ý thức được nỗi lo sợ việc thất học của các Tăng sinh thời ấy, trong khi ngoại đạo được ngoại bang hỗ trợ bành trướng, Hòa thượng Khánh Hòa cùng Hòa thượng Huệ Quang cố vận động với các Hòa thượng cùng một số Phật tử trí thức có hằng sản hằng tâm ở Trà Vinh thành lập một hội Phật học hợp pháp khác, có tên Hội Phật học Lưỡng Xuyên.
Hội Lưỡng Xuyên hoạt động hợp pháp, năm 1935 Thích Học Đường Lưỡng Xuyên bắt đầu hoạt động với ban điều hành:
 Hòa thượng Khánh Hòa làm giám đốc
 Hòa thượng Huệ Quang làm đốc giáo
 Hòa thượng Khánh Anh làm giáo thọ trưởng.
 Thỉnh thoảng có mời các vị Mật Thể, Như Ý, Trí Thuyên, Nhựt Liên từ Huế vào dạy.
 Khóa đầu tiên của trường gồm có 30 học viên, trong đó có các vị: Hành Trụ, Huyền Quang, Thiện Hòa, Thiện Hoa, v.v.
 Trường đã gởi học Tăng ra Huế học, như: Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không, Hiển Chơn, v.v.
Nguồn gốc chùa Lưỡng Xuyên: theo một số văn bản thì  Tháng 8-1934, với sự vận động của sư Huệ Quang, một Phật tử tên là Dương Thị Liễu dâng cúng ngôi chùa Long Phước, tại một vị trí hết sức thuận lợi thuộc làng Long Đức (nay là thị xã Trà Vinh). Lúc này sư Pháp Hải trụ trì lo việc hoằng dương đạo pháp. Ba vị cao Tăng quyết định đổi tên ngôi chùa Long Phước thành chùa Lưỡng Xuyên và xúc tiến thành lập “Lưỡng Xuyên Phật học hội” và “Lưỡng Xuyên Phật học đường”. Nhưng HT T. Minh Thanh, trụ trì chùa cổ Bửu Sơn, Chợ Lớn cho biết:
- chùa Long Phước trụ sở Hội Lưỡng Xuyên  Phật học thuộc quản lý của BTS PG Trà Vinh hiện nay, do HT Nhật Huệ làm phó Ban, ngài bị bệnh, giao cho thầy phó trụ trì Tuệ Không trông nom, từ đó thầy Tuệ Không tự tuyên bố là trụ trì chùa Lưỡng Xuyên, đã có một nhân cách không xứng đáng tu sĩ, mất oai nghi lẫn uy tín đối với quần chúng. Khi tôi (HT Minh Thanh) về khảo sát để tái thiết chùa Long Thiền, xã Lưu nghiệp Anh, Trà Cú, Trà vinh chùa cổ của HT Huệ Quang Pháp chủ PG miền Nam, được Phật tử phản ảnh, trong đó có ông Ba Hộ là con của bà Dương thị Liễu, tức vợ của ông Cả Hùng, nói – chùa là cái gốc chấn hưng Phật giáo miền Nam, chùa của ông bà để lại mà giờ đây bê tha xuống cấp sao thầy không có ý kiến, tôi (HT Minh Thanh) nói, tuy chùa của mình đã cúng cho Giáo hội, mình không có pháp lý, không có quyền giải quyết, mình cũng chỉ là một tu sĩ của Giáo hội, hãy đề nghị Giáo hội giải quyết.Cấp dưới không giải quyết được thì đưa lên cấp trên. Trước đây chùa có tên là Long Phước, sao đổi là Lưỡng Xuyên?
Trước kia bà cả Hùng cúng chùa cho 6 vị đứng tên: đứng đầu là sư cụ Huệ Quang, trong 6 người đó có ông Phạm văn Liêu, trưởng tòa án, là con trai bà Cả Hùng (chủ chùa) để phụ trách việc lập hội chấn hưng Phật giáo.Con cháu bà cả Hùng vẫn còn ở Trà Vinh nên họ rất bức xúc, tôi (HT Minh Thanh) cũng chỉ là tu sĩ là đàn con cháu các vị ngày xưa, nhìn thấy chùa Tổ rất là đau lòng…(Bà Dương thị Liễu và ông cả Hùng là sui gia với bà cố tôi (HT Minh Thanh).
Lúc thầy Nhật Huệ còn khỏe, tôi (HT Minh Thanh) góp ý – chùa là chùa Long Phước, hội Lưỡng Xuyên, sao bây giờ thầy lại lấy tên chùa Lưỡng Xuyên, nơi chùa lịch sử về sau ai đến khảo cứu làm sao họ phân biệt đâu là chùa Long Phước và hội Lưỡng Xuyên, thầy Nhật Huệ bảo do họ gọi quen nên chùa có tên là chùa Lưỡng Xuyên, giờ thay đổi là cả vấn đề khó khăn về pháp lý, tôi (HT Minh Thanh) nói xưa kia chùa Long Khánh có lò mổ heo đối diện, cứ khuya trống công phu trỗi là họ mổ heo, bà Hội đồng Phong thấy bất tiện bỏ ra 300 đồng để dời đi chỗ khác, ai cũng biết đó là chùa lò heo, nhưng có ai gọi chùa Long Khánh là chùa lò heo bao giờ. Bấy giờ phải sửa lại cho đúng là Lưỡng Xuyên Phật học hội Long Phước Tự, chứ không có chùa Lưỡng Xuyên, rồi ông Tuệ Không chẳng tu học, từ tư cách, lời nói thái độ không ra gì, ông ta trông nom lò thiêu, giờ đưa vô đó tung hoành, Giáo hội địa phương không có trách nhiệm sao!
***
Lưỡng Xuyên Phật học hội là cơ sở đào tạo nhiều danh Tăng góp phần chấn hưng cho Phật giáo Việt Nam, vào đầu bán thế kỷ XX, xuất hiện nhiều nhân tài, cao Tăng cho Phật giáo Việt Nam với thế kỷ hiện đại. Trong đó có HT Thiện Hoa, HT Thiện Hòa, … Hiện nay, chùa Long Phước (tức Lưỡng Xuyên vừa là cơ sở văn phòng BTS PG tỉnh, vừa là chốn tổ trang nghiêm thờ chư vị thạch trụ tiền bối một thời có công đào tạo danh Tăng, chấn hưng Phật giáo, và là danh thắng của tỉnh Trà Vinh.
Chùa Lưỡng Xuyên được xây dựng vào thế kỷ XIX, đến năm 1934, chùa được Hòa thượng Khánh Hòa trùng tu lần 1 và đặt tên là chùa Long Phước. Năm 1987, chùa lại được thầy Minh Hà trụ trì đã đổi tên là chùa Lưỡng Xuyên mà theo HT Minh Thanh cần phục hồi tên cũ để tôn trọng lịch sử, phân biệt rõ chùa Long Phước khác với Lưỡng Xuyên Phật học hội, Phật học Lưỡng Xuyên và đây cũng là nơi đánh dấu sự ra đời của hội Phật học Lưỡng Xuyên. Đã xuất bản tạp chí Duy Tâm Phật học và mở Phật học đường Lưỡng Xuyên do các HT Khánh Hòa, Khánh Anh và Huệ Quang phụ trách.

MINH MẪN
31/01/2018
Nguồn tham khảo:
- Thích Thiện Hoa, 50 năm chấn hưng Phật giáo T.1. Sài Gòn 1970
- Thích Khánh Anh, Khánh Anh văn sao.
- Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Báo Duy Tâm





Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

* GIỚI VÀ LUẬT



Hầu hết các tôn giáo đều có Giới và Luật để tổ chức tồn tại trong trật tự, bảo vệ tinh đoàn kết nội bộ, riêng Phật giáo, Giới và Luật không chỉ đơn thuần như thế, còn mang tính “khế thời, khế cơ và khế lý” bàng bạc tinh thần dân chủ mà gần 3000 năm trước, xã hội con người lúc bấy giờ trên tinh cầu còn bị thống trị bởi óc phong kiến và nặng về giai cấp. Vậy Giới và luật của Phật giáo như thế nào?
Theo Đại tự điển Phật Quang định nghĩa GIỚI là:

Tầng lớp, căn cơ, yếu tố, nền tảng, chủng tộc…
1.     GIỚI dùng để gọi các phạm trù phân loại, như 6 căn, tiếp xúc với 6 trần, mà sinh ra 6 thức.

2.     Đất, nước, lửa, gió, không, thức gọi là 6 giới. Dục giới, sắc giới, vô sắc giới gọi là tam giới. “GIỚI” này gần như nghĩa là cảnh giới. Trong Duy Thức gọi chủng tử của tất cả pháp là giới. “GIỚI” này có nghĩa là yếu tố, nguyên nhân.
3.     Giới bản gọi là Ba La Đề Mộc Xoa.

Giới là những điều răn cấm do Đức Phật đặt ra khiến các đệ tử xuất gia và tín đồ tại gia giữ gìn để ngăn ngừa tội lỗi.

Theo Luận Bồ đề Tư lương quyển 1 thì giới có 10 nghĩa: Tập cận, bản tính, thanh lương, an ổn, an tĩnh, tịch diệt, đoan nghiêm, tịnh khiết, đầu thủ và tán thán.
Giới gồm có Tính giới và giá giới. Tính giới cũng còn gọi là Cựu giới, Chủ giới, Tính trọng giới. Giới này bản chất là tội ác như Giết hại, trộm cướp, tà dâm và vọng ngữ.
Giá giới cũng gọi là Tân giới, khách giới, tức Thế cơ hiềm giới, ly ác giới. Giới này bản chất không phải là tội ác, không nằm trong bốn giới nặng như trên…
Theo Tứ phần luật thì Giới chia làm 4 là: Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tướng.
Luận Du già sư địa quyển 40 nêu ra Tam tụ tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.

Ma ha chỉ quán quyển 4 nói – SỰ GIỚI (cũng gọi là tùy tướng giới) có khả năng dẫn đến ba đường là Trời – người - A tu la. LÝ GIỚI (còn gọi là lý tưởng giới) là giới không chấp vào hình tướng, mà trụ trong Tam quán không giả trung.
Mười giới cơ bản cho Tỳ kheo – Tỳ kheo Ni – Sa di – Sa di nN là:
1.     Không giết hại
2.     Không trộm cắp
3.     Không tà dâm
4.     Không nói dối
5.     Không say sưa
6.     Không ăn quá bữa
7.     Không nghe âm nhạc, hát xướng và các trò chơi khác
8.     Không xức dầu thơm, trang điểm
9.     Không ngủ giường cao, đệm êm
10.             Không dính líu chuyện tiền bạc phiền hà thế gian.( cũng có chỗ ghi là không giữ tiền, vàng bạc của quý)…

Năm giới đầu được áp dụng cho Cư sĩ và trong một số ngày đặc biệt như Bát Quan trai có thể lên đến tám.
GIỚI là những quy định hạn chế sai phạm thông thường, trong lúc đó LUẬT được hiểu là quy luật dành cho những người xuất gia, sống trong chùa hay thiền môn, tu viện.
***
Giới và luật vốn khác nhau. Thông thường giới là những điều được nói trong Luật thuộc ba tạng, là một bộ phận của Luật. Còn luật là những bộ sách giải thích rõ về giới và đặt ra những quy định xử phạt khi phạm giới.
Luật – còn gọi là Ty ni, nghĩa là “điều phục, li hạnh, diệt, thiện trị. Những quy định do Đức Phật chế định có liên quan đến đời sống Đạo mà các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni phải tuân thủ. Đưa ra những chế định xử phạt khi phạm tội.
Sau khi đức Phật nhập diệt, Ưu Ba Li kết luật pháp 80 lần gọi là bát thập tụng luật. Thông thường chỉ nghe đến bộ Tứ phần luật, thực ra còn có Thập tụng luật, Ngũ phần luật, và những bộ luật của các bộ phái khác.
(Phật Quang Đại từ điển) 
Ngoài 10 giới cơ bản, Tỳ kheo còn có 250 giới, Tỳ kheo Ni có 348 giới.
Giới có là do có người sai phạm, tùy loại hình sai phạm mà Phật chế giới. Tuy nhiên, một điều quan trọng đã được ghi lại trong Kinh, là trước khi đức Phật Thích Ca diệt độ, ngài đã căn dặn cho A-nan-đà, người đệ tử thân cận nhất của ngài: "Này A-nan-đà, sau khi ta ra đi, nếu Tăng đoàn muốn, có thể bỏ được trong Giới Luật những điều nhỏ nhặt, không đáng kể" (Kinh Đại Bát Niết Bàn Pali). Chính vì thế trong luật có khai – giá – trì – phạm.
Thế nào là khai giá trì phạm trong luật Tứ phần? Theo Thiền sư Duy Lực giảng:

Khai: Ví như uống rượu là phạm giới, có tội phạm giới nhưng không có tội nhân quả, cho nên có thể khai. Khai bằng cách nào? Trường hợp mắc bệnh mà thầy thuốc nói cần uống thuốc rượu mới hết, ngươì ấy khai báo ra lý do, ấy là không phạm.
Giá: Giá là che. Tại sao phải che? Trong giới luật, như một trăm điều về tứ oai nghi cũng chỉ có tội phá giới, không có tội nhân quả. Vậy thì tại sao phải lập ra những giới điều trên? Là vì muốn che không cho người đời phê bình. Ví như ở Ấn Độ, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì người đời phê bình, cho nên làm ruộng là phạm. Ngược lại, ở Trung Quốc, Tu sĩ đi khất thực thì người đời lại chê là con mọt gạo, còn đi canh tác thì được chấp nhận, nên ở Trung Quốc làm ruộng là giữ giới, ở Ấn Độ làm ruộng lại phá giới. Tại sao phải che? Vì hễ muốn hoằng pháp thì phải phù hợp với phong tục của địa phương đó.

Trì và phạm: Gồm chỉ trì và tác trì, từ 5 giới, 10 giới, đến 250 giới, 348 giới Thanh Văn, gọi là chỉ trì, tức không làm thì không phạm, còn giới Bồ Tát gọi là tác trì, những việc cần làm thì phải làm, không làm là phạm.
Giới được phân định: Biệt giải thoát giới", "Đạo cộng giới " và "Định cộng giới”.
Theo truyền thống, trong 12 năm đầu, đức Phật chưa chế ra giới, vì chưa có chuyện gì rắc rối xẩy ra trong Tăng đoàn, có thể gây nên cản trở cho sự tu tập của Tăng Ni.
Nhưng vào năm thứ 13, có xẩy ra chuyện Na-đề-tử ân ái với vợ cũ, cho nên Phật mới bắt đầu chế giới. Mỗi khi chế một giới, Ngài lại nói 10 lợi ích của việc chế giới đó: "Vì sự kiện toàn của Tăng già, sự trường tồn của Chánh Pháp, sự an lạc của Tăng chúng, sự tăng trưởng của lòng tin, sự đoạn diệt phiền não trong hiện tại và tương lai..."
Cứ như vậy, mỗi khi xẩy ra một sự cố, Ngài lại chế thêm một giới, và dần dần số giới mỗi ngày một gia tăng. Tuy nhiên đa số giới luật là những giới nhẹ, nhỏ nhặt, vụn vặt, không cần thiết. Chẳng hạn như "không được xỉa răng, hỉ mũi hướng về tượng Phật". Nếu muốn chú tâm vào những giới quan trọng, chính yếu một cách nghiêm chỉnh, thì người ta phải bỏ đi những giới thứ yếu, nhỏ nhặt, không cần thiết
***
Do đâu phải giữ giới?
- Bạch Thế Tôn, các thiện giới có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, các thiện giới có ý nghĩa không có hối tiếc, có lợi ích không có hối tiếc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, không có hối tiếc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, không có hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan.
- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.
- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an.
- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, khinh an có ý nghĩa an lạc, có ích lợi an lạc.
- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định.
- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến.
- Nhưng bạch Thế Tôn, như thật tri kiến có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham.
- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?
- Này Ananda, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.
Dưới dạng Mật giới, hành giả nguyện rằng:
1.     Không lìa chính pháp;
2.     Không xao lãng việc tu tập;
3.     Không tham lam, không ích kỷ;
4.     Lúc nào cũng giữ lòng từ bi với chúng sinh;
5.     Không phỉ báng một tông phái nào của Phật giáo;
6.     Không bám chặt vào bất cứ cái gì;
7.     Không ôm ấp vọng tưởng;
8.     Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ-đề;
9.     Thuyết giảng giáo pháp Đại thừa cho những người theo Tiểu thừa;
10.                        Luôn luôn bố thí cho chư vị Bồ Tát.
***
Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú 160: “Ta là nơi nương nhờ của ta, không ai khác là nơi nương nhờ của ta được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là nơi nương nhờ hy hữu.” mục đích của giới, trên nguyên tắc, là để "phòng phi chỉ ác", tức là phòng ngừa các điều phi pháp và ngăn chận các điều ác quấy, đồng thời cũng là "chỉ ác tác thiện ", tức là ngăn chận các điều ác và thành tựu các việc lành. Cũng như lời dạy đức Phật trong Kinh Pháp Cú, 183, lập lại bởi thiền sư Ô Sào: "Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật giáo" (Không làm các điều ác, thành tựu các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, ấy lời chư Phật dạy).
Như vậy, đức Phật đã khẳng định giữ gìn giới luật là điều quan trọng. Giới luật còn thì Phật pháp còn.
Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên không bị giới hạn hạn bởi không gian, thời gian. Tuy rằng khi chế định giới luật, Đức Phật có dựa trên nền tảng xã hội, văn hóa đương thời nhưng mục đích chú trọng sự giáo dục để phát triển khả năng đạo đức tốt đẹp nhất của con người, đem lại hạnh phúc thật sự cho con người và từng bước đưa họ vào thánh đạo. Do đó, muốn hiểu giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp báo.
Người phạm tội ác sẽ chịu tác động bởi luật nhân quả, nhưng người phạm giới thì phạm vào giới luật đã thọ nhận và dĩ nhiên nhân quả cũng không tránh khỏi. Dù không hành động hay nói lời ác, nhưng ý tưởng độc ác vẫn là hạt giống xấu đợi ngày trổ quả.
Luật thế gian mang tính ngăn chận xâm hại quyền lợi của xã hội, của người khác, riêng luật giới nhà Phật vì lòng từ bi mà không nỡ hành động bằng lời nói, việc làm và ý nghĩ làm tổn hại kẻ khác và gieo nhân xấu cho chính mình.
***
Giới luật ngày nay, để thích nghi với nhu cầu nhân loại, giới cần bổ sung cho tín đồ đang cộng sinh trên tinh cầu - 5 giới căn bản của người Phật tử, không ai chối cãi sự cần thiết và sự ích lợi cho bản thân cũng như cho xã hội, nhưng cần  thêm một số chi tiết cho phù hợp với thời đại, như 1) ...không sát hại súc vật, không làm hại môi trường, thiên nhiên, trái đất; 2) ...không bóp méo, trốn tránh, che đậy sự thật, 3) ...không ăn cắp của công, không tham nhũng, không gian lận, 4) ...không phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác bằng cách tư tình phi pháp, 5) ...không hút thuốc, nghiện thuốc hay ma túy, không dùng các chất hóa học gây rối loạn thần kinh…
Tuy nhiên có một vài trường hợp Giới luật đã gây lấn cấn trong tu sĩ ở phương Tây hiện nay luôn tôn trọng sự bình đẳng giữa nam và nữ thì Bát Kỉnh pháp lại là vấn đề mà chư Tăng đang xét lại cho thích nghi với quốc độ đang sống.
***
Xác định giới giúp đưa đến Định, từ định thì Tuệ sẽ phát sinh. Giới luật là một phần trong giáo pháp của Phật. Theo tinh thần “Phật giáo phát triển” thì thế gian pháp tức Phật pháp, có nghĩa Phật pháp là bất định pháp, có thể uyển chuyển linh động “tướng giới”mà vẫn không đánh mất “tánh giới”. Thời Phật còn tại thế, chư Tăng chỉ đi trì bình khất thực nuôi thân và không giữ tiền, nếu khư khư chấp chặt giới tướng như thế thì đạo Phật khó mà phát triển như ngày nay.
Trong xã hội công nghiệp và chú trọng hiệu quả kinh tế, chư Tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất, cá nước phương Tây, chư Tăng cũng phải đi làm như mọi người, vì thế, Tổ Bách trượng đã sáng tạo loại hình “nông thiền” để tự túc kinh tế mà không bị xem là loại “mọt hạt gạo”. Ngày nay, trừ vài nơi nông thôn chư Tăng còn canh tác, hầu hết vùng nghèo khó trong cuộc sống, nhà chùa không thể ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để nuôi chúng. Chư Tăng ngày nay đi hoằng pháp không thể đi bộ như thời đức Phật, nếu không giữ tiền ai cho lên xe, hoặc cây xăng đâu cho không các tu sĩ. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.
Đừng nhìn giới tướng mà đánh giá nếu giới tánh không khởi lòng tham mong cầu dư thừa vật chất hoặc bon chen se sua với người đời. Tinh thần “tam thường bất túc” vẫn còn giá trị cho chư Tăng trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay. Cho dù kinh doanh bất cứ dưới hình thức nào mà “tri túc, tiện túc, hà thời túc” vẫn có thể chấp nhận. Đấy là tinh thần giới luật của Phật tùy cơ, tùy thời và tùy xứ, không bị “giới cấm thủ” giết chết giá trị giới luật của đức Phật.

MINH MẪN
13/01/2018




Thứ Hai, 8 tháng 1, 2018

* ĐẶC TÍNH CỦA TÔN GIÁO



TÔN GIÁO LÀ GÌ?
Khó mà định nghĩa chính xác khi Tôn giáo được nhìn mỗi góc độ khác nhau. Ví dụ:
  
“ Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn  giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài ngườiđạo đứcsự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng này bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.
·         Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lýchủ nghĩa nhân bản thế tụcthuyết vô thầntriết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
·         Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất", định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.
·         Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức.


  • Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo. Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây cối... cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư có thể được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải chiếm toàn bộ thời gian của người đó. (Wikipedia)
***
TÔN GIÁO LÀ GÌ?
“Tôn giáo” là một thuật ngữ, được du nhập từ nước ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ Tôn giáo khó có thể hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và“religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế Roma yêu cầu phải có một tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên lúc này khái niệm “religion” chỉ mới là riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời của đạo Tin Lành - tách ra từ Công giáo – trên diễn đàn khoa học và thần học châu Âu, “religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu Âu, với sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc các nền văn minh khác Kitô giáo, biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm chỉ các hình thức tôn giáo khác nhau trên thế giới.
Thuật ngữ “religion” được dịch thành “Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ XVIII và sau đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa khác, nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: đó là lời thuyết giảng của Đức Phật, Tông: lời của các đệ tử Đức Phật).
Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn giáo”.
Như vậy, thuật ngữ tôn giáo ban đầu được sử dụng ở châu Âu nhằm chỉ một tôn giáo sau đó thuật ngữ này lại làm nhiệm vụ chỉ những tôn giáo.” (Wikipedia)
***
NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁO
V. I. Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm:
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo
- Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
- Mối quan hệ giữa người và người
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiều. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng: “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”.
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo”.
- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”
Để có khái niệm đầy đủ về tôn giáo cần phải chú ý:
- Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
- Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Tôn giáo là một thực thể khách quan của loài người nhưng lại là một thực thể có nhiều quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt nội dung, nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…
- Rất khó có thể đưa ra được một định nghĩa về tôn giáo có thể bao hàm mọi quan niệm của con người về tôn giáo nhưng có thể thấy rõ rằng khi nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới thực và hư, của hai tính thiêng và tục và giữa chúng không có sự tách bạch.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăng nghen đã có một nhận xét làm cho chúng ta thấy rõ bản chất của tôn giáo như sau: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”. (Wikipedia)

Tự điển tiếng Việt giải thích Tôn giáo là:
·         Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ. (Tôn giáo này sinh ra rất sớm từ trong xã hội nguyên thủy).
·         Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị Thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy. Đạo ở VN có nhiều Tôn giáo như Đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài…

Tóm lại, Tôn giáo là một tổ chức có hình thái thờ phụng, có đấng để tôn thờ, có lễ nghi đặc thù, có giáo lý, có quy tắc; giải thích hiện tượng thực hữu và phi thực hữu; có tín đồ và có người thừa hành lãnh đạo tổ chức…

***
GIỚI LUẬT VÀ GIÁO LUẬT

Mỗi tôn giáo đều có những giáo điều, quy tắc, luật lệ riêng cho nội bộ Tăng lữ và cho tín đồ. Mỗi hệ phái, dòng tu cũng có luật riêng. Ví dụ: Theo Kito giáo, vai trò của Bề trên theo giáo luật điều 618-619 quy định nghĩa vụ và nhiệm vụ của cha Bề trên. Qua việc khấn dòng người tu sĩ sống ba lời khuyên phúc âm khiết tịnh, khó nghèovâng phục với lời khấn công và hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa qua việc phục vụ Giáo hội với một danh nghĩa đặc biệt và mới mẻ…

Bộ giáo luật gồm có:

·         QUYỂN II. DÂN THIÊN CHÚA
Nội dung luật quy định về những sắc luật, huấn thị, hành chính chuyên biệt, quy chế, nội quy, thế nhân và pháp nhân; các giáo hội địa phương, các tu hội, tu đoàn tông đồ,giáo huấn, hoạt động truyền giáo,giáo dục truyền thông, bí tích thêm sức, bí tích hôn nhân… ngoài Giáo luật, còn có giới luật như:

Giới luật 1
“Tham dự Thánh lễ Chúa nhật cũng và các ngày lễ buộc, kiêng việc xác và những hoạt động cản trở việc thánh hóa những ngày đó.

Giới luật 2: Xưng tội một năm ít là một lần”.
Luật này chỉ buộc những người mắc tội trọng. Nhưng trong thực tế, những người mắc tội nhẹ cũng nên xưng tội để được thêm ơn trợ giúp và tránh phạm tội trọng.

Giới luật 3: Lãnh nhận Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh”.
Mùa Phục Sinh kể từ thứ tư lễ tro đến hết lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, đón nhận “lương thực bởi trời” này mỗi khi tham dự Thánh lễ để được thực sự sống bởi Chúa và trong Chúa.

Giới luật 4: Giữ chay và kiêng thịt những ngày giáo hội quy định”.

Giới luật 5: Mỗi người theo khả năng, đóng góp cho các nhu cầu của Hội Thánh. (Giáo luật Kito)
              
***
Trong Phật giáo, giới dành cho tập sự xuất gia (Sa di, Sa di Ni) Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa ma na, Bồ Tát giới… Giòng tu Tiếp Hiện của Làng Mai còn thành lập 14 giới. Còn có giới cho cho cư sĩ. Ngoài giới còn có Luật của nhà Phật như:

- Một bộ bằng tiếng Pali của Xích Đồng Diệp Bộ (Tamrasatiya), dùng tại các nước theo PG Nguyên Thủy (Theravada);
- 5 bộ được dịch sang tiếng Hán:
1) Tứ Phần Luật của Pháp tạng bộ (hay Đàm-vô-đức, Dharmaguptaka), là bộ Luật phổ thông nhất tại các nước theo PG Đại thừa.
2) Thập Tụng Luật của Nhất Thiết Hữu bộ (hay Tát-bà-đa, Sarvastivada).
3) Ngũ Phần Luật của Hóa địa bộ (hay Di-sa-tắc, Mahisasaka).
4) Tăng Kỳ Luật của Đại chúng bộ (hay Ma-ha-tăng-kỳ, Mahasanghika).
5) Hữu Bộ Luật của Da-du-la Nhất Thiết Hữu bộ (Mula-sarvastivada), được dùng bởi PG Tây Tạng và Mông Cổ.

Luật quy định về ăn-mặc-ở-bệnh, sinh hoạt, qui định về thọ giới, thuyết giới, phạm tội, yết ma, sám hối, an cư, tự tứ..., (luật tạng).
Ngoài giới và luật chung, mỗi hệ phái, tông phong còn có luật và nội quy chuyên biệt.
***

Hồi giáo cũng có luật như: Pháp luật Hồi giáo chi phối, điều chỉnh các quan hệ xã hội ở phần lớn các nước Ả rập.

Đạo Hồi có 5 trụ cột cơ bản:
* Shahadan – tuyên xưng đức tin. Mỗi tín đồ Hồi giáo phải tuyên thệ: không có thánh nào khác ngoài đấng Allah và Mohammed là nhà tiên tri và là sứ giả của ngài.
* Salat – sự cầu nguyện. Các tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện 5 lần trong một ngày: lúc sáng sớm khi bình minh hé rạng và phải trước khi mặt trời đã lên hẳn trên đường chân trời; buổi trưa lúc mặt trời đứng bóng; buổi chiều lúc mặt trời nghiêng 45 độ so với mặt đất; lúc mặt trời lặn và buổi tối trước khi đi ngủ.
* Zakat – bố thí cho người nghèo. Người theo đạo Hồi phải thực hiện một nghĩa vụ mà tự mình, nhà tiên tri Mohammed là người nêu tấm gương sáng, đó là bớt đi một phần tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo. Những người giàu có được khuyến khích làm từ thiện nhiều hơn. Những ai làm từ thiện nhiều hơn số lượng quy định được coi là là một Sadagah – người thiện tâm.
* Sawm – nhịn ăn, uống trong tháng ăn chay Ramadan. Mỗi ngày trong tháng ăn chay Ramadan, tất cả các tín đồ Hồi giáo, chỉ trừ trẻ em, phụ nữ có thai và những người ốm, đều phải nhịn ăn từ lúc rạng sáng cho đến khi mặt trời lặn. Trong tháng ăn chay, người Hồi giáo không những nhịn ăn mà còn phải nhịn uống, dù đó là nước khoáng, nước suối, nước lọc tinh khiết hay đơn giản chỉ là nước đun sôi để nguội. Tháng ăn chay cũng đồng thời là tháng trai giới, các tín đồ Hồi giáo trong thời gian từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn không được động phòng.
* Hajj – hành hương đến Mecca. Mecca, thành phố thiêng liêng bất tử ở Arập Xê -út, quê hương của Mohammed, là thánh địa của người Hồi giáo.
- Người theo đạo Hồi không ăn thịt lợn. Kinh Coran cấm người theo đạo Hồi ăn thịt lợn. - Người phụ nữ che mạng hoặc quàng khăn qua đầu. - Chế độ đa thê.  - Cắt bao quy đầu cho các bé trai. -  Phong tục tang lễ. Phong tục tang lễ của người Hồi giáo khá đặc biệt so với các tôn giáo khác. Người chết phải được chôn trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ khi chết, nhưng không được chôn vào ban đêm. Luật Hồi giáo được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, các trụ cột của đạo Hồi và các phong tục tập quán của người Hồi giáo. Đây là hệ thống pháp luật pha trộn giữa quy phạm tôn giáo, đạo đức và pháp luật.

 Các nguồn luật của hệ thống pháp luật Hồi giáo
a) Kinh Coran – là một cuốn thánh kinh bao gồm 6.237 câu thơ chia thành 30 quyển, 114 chương.
b) Sunna – Các phong tục tập quán mang tính truyền thống
Có thể so sánh coi Coran như là kinh cựu ước và Sunna là kinh tân ước.
c) Ijam – Sự thoả thuận, nhất trí của người có thẩm quyền.
d) Quiyas – Suy đoán tương tự pháp luật.
Trong 4 nguồn luật nói trên thì Coran và Sunna là nguồn luật chính còn Ijam và Quiyas là nguồn phụ.

 Các đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo
Theo kinh Coran (người Musulman còn gọi là Chariat) hành vi của con người được chia làm 5 loại:
a. Hành vi bắt buộc phải làm (obligatoire), như nghĩa vụ chăm sóc con cái, nghĩa vụ đóng thuế…
b. Hành vi nên làm (recommandés), ví dụ thăm một người bạn bị ốm, giúp người nghèo khó v.v…
c. Hành vi làm cũng được, không làm cũng được (Indiffrerentes). Đây là các hành vi không đáng kể, không cần phải lưu ý như tham dự các trò vui, tiêu khiển có tính lành mạnh.
d. Hành vi đáng chê trách (blâmables), như sai giờ hẹn, chậm trễ, nói lời không tế nhị, thiếu lễ phép, đi đứng không đúng tác phong.
e. Hành vi cấm (interdites): giết người, cướp của, lừa đảo, trộm cắp…

Đây được coi là nguyên tắc cơ bản để đánh giá hành vi của con người về phương diện pháp luật cũng như đạo đức.

1. Luật hình sự.
Khái niệm tội phạm trong luật Hồi giáo nếu xét về phương diện hình phạt bao gồm 2 loại:
– Tội phạm có thể trả bằng tiền.
– Tội phạm phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình.
Theo mức độ nặng nhẹ của tội phạm, kinh thánh Coran xác định 3 loại tội phạm:
a. Hudud: Tội phạm chống lại Chúa, bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông dâm), vu cáo, uống rượu, tội trộm cướp, phản đạo, vi phạm kinh thánh.
– Trong bảy tội phạm nói trên thì ba tội phạm đầu bao gồm: ngoại tình, vu cáo và uống rượu sẽ bị đánh bằng roi.
– Tội trộm và cướp đường bị phạt đóng đinh vào thánh giá hoặc cắt tay, chân.
– Tội phản đạo, vi phạm kinh thánh sẽ bị hình phạt chặt đầu.
b. Quesas: là các tội phạm đòi hỏi sự trả thù của người bị hại hoặc gia đình người bị hại. Đó là các loại tội phạm: giết người (cố ý hoặc vô ý); gây thương tích (cố ý hoặc vô ý); cưỡng dâm.
Khác với các hệ thống pháp luật khác, thông thường coi tội phạm giết người là tội phạm nặng nhất, trong pháp luật Hồi giáo, các tội phạm chống lại Chúa là tội phạm nặng nhất, còn tội phạm giết người và gây thương tích được coi là các tội phạm chống lại cá nhân chứ không phải chống lại Chúa, nên được coi là ít nghiêm trọng hơn Hudud. Nếu các tội trộm cắp, cướp của bị hình phạt chặt tay, chân; người vợ ngoại tình bị xử tử hình, thì hình phạt ở đây được quan niệm là phải trả bằng thân thể hoặc cuộc sống của mình, vì vậy không thể chuộc bằng tiền. Theo luật Hồi giáo, giết một người đàn ông có thể chuộc bằng 100 con lạc đà, giết một người đàn bà có thể chuộc bằng 50 con lạc đà. Ngay cả thời hiện đại, ở Arập Xê -út (cho đến năm 1988) để được chuộc tội, người phạm tội phải trả 32.000 USD cho mạng một người đàn ông Hồi giáo, 16.000 USD cho mạng một người đàn bà Hồi giáo và một người đàn ông không phải là dân Hồi giáo; 8.000USD cho mạng một người đàn bà không phải là người Hồi giáo.
c. Các tội Taazir: bao gồm các tội như ăn thịt lợn, đưa ra lời khai man trá, hối lộ, làm gián điệp, nói năng tục tĩu, mặc quần áo khiêu dâm, vi phạm luật lệ giao thông…


2. Luật dân sự
Kinh Coran đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng lập thành văn bản và phải có ít nhất hai người đàn ông, hay một người đàn ông và hai người đàn bà làm chứng (Kinh Coran câu 2.282). Về thừa kế, người làm di chúc chỉ có quyền định đoạt 1/3 tài sản của mình. Người thừa kế chỉ hưởng quyền chứ không thừa kế nghĩa vụ. Tài sản phân chia đều cho những người được thừa kế không phân biệt hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai như con hay cháu, đều hưởng như nhau.

3. Luật hôn nhân và gia đình
– Luật Hồi giáo tạo cho người đàn ông có uy thế tuyệt đối trong gia đình. Cho đến ngày nay, Coran vẫn cho phép người đàn ông có 4 vợ và không hạn chế nàng hầu.
4. Luật tố tụng (hình sự và dân sự)
Các toà án ở các nước theo đạo Hồi là các toà án Hồi giáo truyền thống giải quyết các vụ án hình sự cũng như dân sự.
5. Luật Nhà nước
Cho đến ngày nay, một số quốc gia theo đạo Hồi như Arập Xê -út vẫn còn tồn tại chế độ quân chủ chuyên chế….
***
Chúng ta lướt qua vài nét cơ bản của ba tôn giáo lớn hiện nay; vậy tìm hiểu nét chung mà ba tôn giáo gặp phải, đó là thờ phượng, nghi lễ và tâm linh (thế giới siêu hình).
Kito giáo:
“Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã cấm không được tạc tượng ảnh về Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không có hình thù. Việc tạc tượng sẽ dễ dẫn đến việc thờ ngẫu tượng vốn là một tội rất nặng.” Cho nên khi Moisen lên núi cầu nguyện, đem 10 điều răn xuống, thấy quần chúng thờ bò thì nổi giận đập pháThế thì tại sao bây giờ Thiên Chúa giáo lại thờ hình tượng?
"Ngươi không được tạc tượng thần, hay bất cứ hình ảnh gì trên trời, dưới đất, hay trong nước dưới mặt đất: ngươi không được thờ lạy chúng hay phụng sự chúng" (Xuất Hành 20,4-5). "Than ôi, những người này đã phạm trọng tội; chúng đã tạo cho chúng các thần bằng vàng" (Xuất Hành 32, 31).
Thánh Gioan Damasceno là người đã đi tiên phong trong việc đưa ra những luận chứng thần học ủng hộ việc sử dụng ảnh tượng trong đời sống tôn giáo. Theo ngài thì:
  • Liên quan đến vấn đề thứ nhất, Nhất Tính Thuyết do Eutiche chủ xướng đã bị công đồng Calcedonia (451) kết án. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa và Ngài là người thật. Mà đã là con người thì có hình hài và có thể được vẽ hoặc chạm khắc.
  • Thiên Chúa trong Cựu Ước đúng thật là không có hình hài. Nhưng từ khi Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa đã mang lấy hình hài của con người. Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Mà nếu đã nên hữu hình thì chẳng có lý do gì ta không thể tạc tượng Ngài cả. Chính Đức Giêsu cũng khẳng định rằng “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Bởi thế, qua Đức Giêsu, ta có thể hướng về Cha trên trời.
  • Thiên Chúa Ra Lệnh Tạc Tượng
          Trong khi người Tin Lành trích sách Xuất Hành 20:4-5 để bênh vực điều họ kết án người Công Giáo "thờ ngẫu tượng," họ đã bỏ quên nhiều điều trong các đoạn khác mà Thiên Chúa ra lệnh tạc tượng: "Và ngươi phải làm hai Kêrubim bằng vàng [hai tượng thiên thần]; ngươi phải dùng búa mà gò dính lại hai đầu nối của chiếc ngai từ bi. Ðặt mỗi Kêrubim ở mỗi đầu; ở ngai từ bi thì ngươi đặt một Kêrubim ở hai đầu nối. Các Kêrubim sẽ xoè cánh phủ trên ngai từ bi, đối diện nhau, mặt hướng về ngai từ bi" (Ex 25, 18-20).
Vua Ðavít đưa cho Solomon bản phác họa "bàn thờ làm bằng vàng ròng, và trọng lượng của nó; và phác họa chiếc xe bằng vàng có hai Kêrubim giang đôi cánh che phủ hòm giao ước của Thiên Chúa. Tất cả những điều này vua nói rõ là được Thiên Chúa linh ứng về tất cả những điều đó, tất cả phải được thi hành theo sự phác họa" (1 Chr. 28:18-19). Cần lưu ý là tất cả những điều này được chỉ thị theo sự linh ứng của Thiên Chúa.
Những nghi lễ hiện nay, như “rước mình Thánh Chúa” là do lúc Chúa chia bánh và rượu cho các Tông đồ, ngài bảo: Đây là mình ta, đây là máu ta, các con hãy ăn, các con hãy uống” trước giờ chia ly, Hội Thánh diễn lại để kỷ niệm nhớ ngày đó. Ngoài ra, các phép Bí tich, lễ Tro, lễ Hồn xác lên Trời… đều do các đời kế nhiệm Phero sáng lập.
***
Hồi Giáo:                                              
So với Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo có vài điểm tương đồng và những nét khác nhau rõ rệt. Giống như Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo chỉ thờ một thần, nhưng tương phản với Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo chối bỏ khái niệm về Ba Ngôi. Hồi Giáo chấp nhận vài phần trong Kinh Thánh, như sách Luật và Phúc Âm, nhưng lại bác bỏ hầu hết mọi điều  khác cho rằng là vu khống và tẻ        nhạt.

Hồi Giáo cho rằng Chúa Giê xu chỉ là một nhà tiên tri, mà không phải là con của Chúa Cha (người Hồi Giáo tin rằng chỉ có Allah là Thiên Chúa, làm sao lại có thể có con?). Ngược lại, Hồi Giáo khẳng định rằng Giê xu, mặc dù được sinh ra bởi trinh nữ, được tạo ra giống như Adam, từ cát bụi của thế gian. Người Hồi Giáo tin rằng Chúa Giê xu không chết trên Thập Tự Giá; bởi vậy, họ phủ nhận một trong những giáo lý trọng điểm của Cơ Đốc Giáo. 
Tuy thờ độc Thần, nhưng Hồi giáo nghiêm cấm mọi biểu tượng, vì biểu tượng (ngẫu tượng) tạo sự sùng kính của tín đồ sẽ giảm niềm tin với Chúa mà không thể chia cắt giữa Chúa và con người. Theo chuyện kể, khi Mohammad, ông đến Ka’aba, nơi thờ đầu tiên ở Mecca, ông ta đã phá hủy mọi ngẫu tượng ở đó. Ngày nay, giòng Hồi giáo Shia tương đối thoáng hơn Sunni về một số ảnh tượng nghệ thuật. Hồi giáo không có thờ ảnh tượng, nhưng tỏ ra tôn kính tảng đá đen tại Mecca và vẫn để tồn tại trụ đá huyền thoại. Ngày 15/10, hàng triệu tín đồ Hồi giáo hành hương đã tập trung về thung lũng Mina của Arập Xêút để tham gia nghi lễ ném đá vào ba chiếc cột được coi là hiện thân của ác quỷ. (Phật giáo Hòa Hảo cũng không thờ ngẫu tượng, chỉ dùng tấm vải màu đà làm biểu tượng)
Tín đồ Hồi giáo thực hiện nghi lễ ném đá. (Nguồn: Al Arabiya)
Lễ ném đá tại Mina diễn ra cùng thời điểm với ngày đầu tiên của lễ hiến tế Eid al-Adha được cộng đồng Hồi giáo trên khắp thế giới tổ chức.
Theo phong tục của người Hồi giáo, những người hành hương về thánh địa Mecca sẽ mặc trang phục màu trắng và thực hiện nghi thức ném đá vào ba chiếc cột đá đặt tại thung lũng Mina, tượng trưng cho sức mạnh của quỷ Satan. Đây là nghi lễ cuối cùng trong tháng hành hương Haji và được coi là nghi lễ quan trọng nhằm xua đuổi quỷ dữ.
(TTXVN)
Về giáo lý, Hồi giáo và Kito giáo có sự tương đồng:
Giáo lý Công giáo: Mathi ơ: 10:34 – “Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian, ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo. 35- Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với bà gia, 36- và người ta sẽ có kẻ thù nghịch là người nhà mình; 37- Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta, ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta.”
Lu-Ca: 14: 26 – Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Giê su, ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta.
Lu Ca: 19: 26- Hãy đem kẻ thù của ta ra đây, Những kẻ không chịu thờ kính ta trên họ, và chém đi trước mặt ta.
Malachi, chương 2: “Nếu ai không nghe lời ta và không làm rạng danh ta, Chúa Trời sẽ trét phân lên mặt        người đó.”

Mathew 23: 9- Không được gọi ai trên trái đất này là cha, vì các ngươi chỉ có một cha ở trên Trời”.
Jeremiah: 19: 9: “Và ta sẽ làm cho chúng nó ăn thịt con trai, con gái của chúng nó, và chúng nó sẽ ăn thịt lẫn nhau, người nọ ăn thịt
người kia” 

Isaiah: 13: 9-15-18: “Hãy chứng kiến ngày Chúa  đến, độc ác vì tức giận và hết sức phẫn nộ. Tất cả mọi người bắt gặp phải được đem tới. Con cái của họ bị xé ra từng mảnh trước mặt họ và vợ của         họ bị  hãmhiếp”.

Giáo  lý       Hồi    giáo,  kinh   Koran: “Nếu hình ảnh Thiên Chúa trong
Cựu   Ước   của    đạo    Do     Thái  là một         vị thần Chiến Tranh( God of War) thì hình ảnh Thiên Chúa Allah trong kinh Koran là một vị thần của sự kinh hoàng (God of Terror) vì thiên chúa Allah công khai ra lệnh cho các tín đồ Hồi Giáo phải giết hại những người ngoạiđạo: "Ta sẽ gieo kinh hoàng nơi trái tim của những kẻ ngoại đạo. Các con hãy chặt đầu chúng và hãy cắt rời tất cả các đầu ngón tay của chúng" .Koran 8:12) 

Những điều kinh khủng trên đây, kẻ hành xử không chịu trách nhiệm mà qua đó, ý muốn và việc làm của Thượng đế. Riêng đứng về nguyên tắc của Hồi giáo, Allah có nguyên tắc “ai giữ đạo nấy. Xin mời bạn đọc Surah 119 của Thiên Kinh Qran để rõ thêm quan  điểm của          Allah:

Surah 109 - Những kẻ không có đức tin (phủ nhận Allah)

Nhân danh Allah Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực Khoan Dung
1 – hãy bảo chúng “này hỡi những kẻ phủ nhận Allah
2 – “Ta ( Muhammed) không tôn thờ những thần linh mà các ngươi thờ cúng
3 – “các ngươi cũng sẽ không tôn thờ Đấng Allah mà Ta thờ phụng
4 – “và ta sẽ không là một tín đồ của các thần linh mà các ngươi đang thờ lạy
5 – “và các ngươi cũng sẽ không tôn thờ Đấng Allah mà Ta đang thờ phụng
6 – “tôn giáo của các ngươi thuộc về các ngươi, tôn giáo của Ta thuộc về Ta.”

Tuy giáo lý là thế, nhưng thế giới Islam đã từng có chính sách Dhimmis để cho các tôn giáo có thể sống chung theo luật lệ.    
Qran [2:256] “... không có sự bắt buộc trong tôn giáo...”

“Về Khoa Học: Hồi giáo (Islam) chính là tôn giáo đã quan tâm đến khoa học dưới sự chỉ thị của Nabi Mohammed (saw). Kiến thức trước Islam từ nhiều nền văn minh đã có, nhưng rời rạc, lẻ tẻ. Muslim đã có công lượm lặt, hệ thống hóa nó lại để người đi sau có thể dựa vào đó mà lý luận phát minh xa hơn. Thật ra thế giới Hồi giáo đã cống hiến hơn 1000 phát minh khoa học cho thế giới , làm nền tảng cho gần 50 ngành khoa học sau này của thế giới:
Nếu bảo HG không tôn trọng quyền tự do tín ngưởng thì không đúng , vì thiên kinh Quran thường khuyến cáo người muslim chớ đụng đến đức tin của người khác ... nhửng người có mưu đồ chính trị dùng HG để làm phương tiện, đã làm lệch lạc giáo lý và nguyên tắc cơ bản của Hồi giáo tạo ngộ nhận và e ngại cho thế giới ngay nay.”
Về nghi lễ, Hồi Giáo chỉ chú trọng đến cầu nguyện thường ngày, mùa chay Ramadan, và hành hương đến Mecca. Kito giáo nguyên thủy cũng chỉ cầu nguyện (chúa Giê su từng nhịn ăn 40 ngày cầu nguyện ở sa mạc). Thời chúa Giê su còn sống, chưa hề phát sanh ra những nghi lễ rườm rà mà Do Thái giáo lúc bấy giờ đã có sẵn một hệ thống tế lễ do giới Tăng lữ đảm nhiệm như Bà La Môn giáo ở Ấn độ. Phật giáo khởi thủy cũng chưa từng phát sanh nghi lễ như ngày nay, thậm chí một vài nơi các sư còn múa lửa, lên đồng, lục cúng…
Từ những biến thái đi xa nguồn gốc của những tôn giáo lớn đó, đã khai sinh ra những chi nhánh nhằm khôi phục tính nguyên thủy của tôn giáo mình. Kito giáo phát sanh ra Tin Lành, Chánh Thống giáo. Hai nhân vật nổi tiếng đã khởi xướng phong trào “Cải Cách” vào đầu thế kỷ XVI là Luther và Calvin. Luther ở Đức, Calvin ở Thụy Sĩ và Pháp. Thêm vào hai nhân vật này còn có Henri VIII nước Anh. Ông không phải là nhà lập thuyết nhưng đã đem lý thuyết Luther vào nước Anh và bắt cả Anh Quốc theo thuyết đó, biệt lập với Lamã, gọi là Anh Giáo.
Thệ Phản Giáo, Anh Giáo tất cả đều tin Chúa Kitô. Tuy họ ly khai khỏi Giáo Hội nhưng vẫn còn tin nhận Chúa Kitô, vì thế họ cũng là những Kitô hữu, dầu không phải là Công Giáo.
Giáo hội La mã tin rằng đức Thánh cha đứng trên tòa Phero tuyên bố, những lời của ngài nói đều “vô ngộ”, nghĩa là không bao giờ sai lầm, thì Hồi giáo cũng tin là những gì Mohammad nói đều là ngôn sứ của thánh Allah, không bao giờ sai lầm.
Trong cuốn “Cùng hàng quí phái Công Giáo Đức”, Luther chối không có sự gì khác biệt giữa linh mục được thụ phong và một tín hữu thường. Như thế là ông chối luôn sự cần thiết một người môi giới giữa Đức Chúa Trời và loài người. Ai nấy có quyền cắt nghĩa Kinh Thánh theo ánh sáng riêng của mình. Sự siêu việt của La Mã không thể tồn tại.
Trong cuốn “Đi đày ở Babylon”, Luther phủ nhận hiệu lực các phép bí tích. Luther chỉ còn nhận có phép rửa tội và Tiệc Ly. Phép giải tội, theo ông, không phải là một bí tích.
Trong cuốn “Tự do của người Kitô hữu”, Luther bắt đầu bằng câu đanh thép này: “Kitô hữu là người tự do làm chủ trên hết mọi sự và không lụy thuộc ai… (Thệ phản giáo), vì thế đã sản sanh ra nhiều chi phái chủ trương:
1)      Tin Lành cho rằng mỗi người có quyền giải nghĩa Kinh Thánh theo ý mình.
2)      Họ không nhận Đức Giáo Hoàng là đại diện chính thức Chúa Giêsu.
3)      Đối với các phép Bí Tích, Tin Lành không quan niệm như Công Giáo. Thí dụ về phép Giải Tội, họ cho rằng cho được khỏi tội không cần phải xưng với thầy cả. Hay có xưng thì chỉ cần nói mình tội lỗi tràn trề rồi ăn năn thống hối là được. Càng tội lỗi nhiều càng tin mạnh mẽ hơn mới khỏi tội. Còn phép Thánh Thể thì theo Tin Lành không phải là Chúa ngự thật trong Thánh Thể, đây chỉ là một kỷ niệm quí báu nhắc lại bữa Tiệc Ly thôi.
4)      Tin Lành không tin rằng Đức Bà Maria là Mẹ Thiên Chúa, chỉ là Mẹ Chúa Giêsu thôi. Và đã là Mẹ thì không đồng trinh nữa. Những tước hiệu Công Giáo tặng cho Ngài chỉ hiểu theo nghĩa bóng chứ không hiểu theo nghĩa đen.
5)      Phận sự chính của một người Tin Lành là đọc Kinh Thánh đêm ngày. Lấy Kinh Thánh giải quyết mọi sự, càng tìm hiểu Kinh Thánh thì càng được ơn Thánh Linh dồi dào, Chủ Nhật thì tập trung ở nhà thờ nghe giải thích Kinh Thánh, ngắm những câu ca vịnh Kinh Thánh đã biên ghi… (Làn sóng tôn giáo, trg. 286)
Kito giáo chia rẽ ra Tin lành giáo và các hệ phái thì Hồi giáo cũng phân làm hai là Sunny và Shia. Phật giáo có Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển. Tại Việt Nam, cũng trong giai đoạn Phật giáo sa sút trầm trọng vào thời Pháp thuộc, đời sống Tăng lữ trở thành thầy cúng, để cứu nguy tiền đồ Phật giáo, đã hình thành một hệ phái Khất sĩ sống lại thời kỳ Phật giáo sơ khai, không nghi lễ, không hình thức rườm rà; giới luật nghiêm túc, tam y một bát…
Trước Phật giáo Khất sĩ không lâu, cũng có mặt Phật giáo Hòa Hảo, một hệ phái không có Tăng lữ, tín đồ sống đúng lời đức thầy Huỳnh Phú Sổ, ngài tự nhận là “đệ tử trung thành của đức Phật Thích Ca”, giúp tín đồ giữ ngũ giới, giản dị lễ nghi và thờ phụng, không chú trọng về hình tướng, ngẫu tượng, chuyên làm từ thiện…
 Sự phân phái là hệ quả tất yếu hỗ trợ sự phát triển như sự phát triển của cây cổ thụ càng lớn thì vỏ cây càng rạn nứt.
***
Tôn giáo nào cũng trải qua những giai đoạn khủng hoảng từ nội bộ đến áp lực bên ngoài, hoặc là xã hợi hoặc là giai đoạn chính trị, hoặc là tôn giáo với tôn giáo.
Lúc bấy giờ đạo Phật phát triển mạnh ở Ấn tạo mặc cảm thành kiến với giáo sĩ và tín đồ Bà La Môn giáo, bởi giáo lý đức Phật phủ nhận toàn bộ những bất bình đẳng trong xã hội, đề cao tự lực và trí tuệ giải thoát mà không dựa vào tha lực Thần thánh. Họ đã hạ thấp vị trí đức Phật bằng cách tuyên truyền rằng, Đức Phật là hóa thân thứ chín của thần Vishnu. Thuyết luân hồi nghiệp báo tuy giống như của Bà La Môn giáo, thực chất nội dung hoàn toàn khác biệt.
Đạo Phật là tôn giáo giác ngộ của “TÌNH YÊU THƯƠNG VÀ SỰ TỈNH THỨC” chứ không phải   tôn giáo của          đức tin thuần túy. Cái giống nhau của các tôn giáo lớn là nêu cao tình thương, riêng hai chữ tình thương của Phật giáo bao trùm cả mọi sinh động vật, trong khi đó các tôn giáo Thần học chỉ áp dụng tình thương đối với con người, nghĩa là không sát hại loài người. Chính vì thế, tại Ấn độ thường hy sinh hàng vạn động vật cho mùa hiến tế.
Về pháp môn hành trì, tuy các tôn giáo Thần học về hình thức lễ nghi rườm rà, nhưng vẫn có những trường hợp đặc biệt gọi là Thần khải, Thần thể mà cá nhân được Chúa chọn, tiếp xúc với Thần khí ơn trên trong những biệt thất mà nhà Phật gọi là nhập thất, độc cư. Thỉnh thoảng vẫn có những Đạo sư của các thần giáo đạt được tuệ nhãn theo chiều hướng tâm linh huyền thuật. Vào những thế kỷ trước, tại Nga, có một Giám mục thuộc hệ phái Thông Thiên học, dưới sự dẫn dắt của bà  Helena Blavatsky,đã nghiệm chứng tâm linh giao thoa với Thượng đế (theo học thuyết Thông Thiên học) Thông Thiên Học là một học thuyết triết học - tôn giáo đề cập khả năng trải nghiệm trực tiếp với Thượng Đế, thông qua cảm giác thần bí và sự mặc khải. (sẽ tìm hiểu vấn đề mật khải ở bài sau).
Hồi giáo cũng có trường phái Mật tông cá biệt nhưng không phổ biến. Yoga, Đạo, và một số trường phái tâm linh gần với trạng thể Mật tông (khác với Mật tông của Kim Cang thừa Tạng giáo). Mật tông của Phật giáo kể cả Đông và Tây mật cũng ảnh hưởng từ gốc Bắc Ấn xa xưa, trộn lẫn học thuyết Phật giáo lập thành giáo lý Mật thừa chuyên biệt. Mật tông Thần giáo đều chú hướng đến một Thần tượng sáng tạo, riêng Mật tông Phật giáo (còn gọi là Kim Cang thừa) tuy mang sắc thái Thần bí, nhưng đích đến vẫn là giải thoát khỏi “tam giới” mà không lệ thuộc bất cứ Thần thể nào.
Phật giáo nói chung và Kim Cang thừa nói riêng đều thoát khỏi ảnh hưởng Thần thể mật khải của các hành giả Yoga có khuynh hướng Thần khải. Sau nhiều thập kỷ, ảnh hưởng triết học thần giáo Phạm Thiên, Áo nghĩa thư đã có quan niệm về luân hồi quả báo theo luận thuyết triết lý, dần dà tách rời khỏi ảnh hưởng Thần học của Phệ đà giáo về miền đất hứa vô hình. Từ đây, tôn giáo đa thần tiến đến độc thần rồi các hệ phái phi thần xuất hiện. Các hệ phái phi thần quan niệm chúng sanh không chịu sự chi phối của vị Thần sáng tạo mà chúng sanh chịu trách nhiệm những gì mình đã làm. Giải thoát kiếp ô trọc này không do tế lễ cúng kiến, không do cầu nguyện làm phước mà do tự thân hóa giải nghiệp thức. Một số hiểu lầm những quan điểm phi thần là thuộc loại vô thần của Phật giáo, Kỳ Na giáo.
***
Cuộc sống càng văn minh, trình độ dân trí dần được khai hóa thì vấn đề tôn giáo thần học dần bị thu hẹp. Tôn giáo như đạo Phật tạm gọi là tôn giáo, cơ bản vẫn là một triết thuyết dẫn dắt nhân sinh theo chiều hướng tự thân giải thoát mọi ràng buộc từ ngoại cảnh đến nội tâm; đến lúc hành giả nhận ra tâm và cảnh là một thì con đường thoát khổ nằm trong tầm tay.
Các Tôn giáo lớn như Kito giáo, Hồi giáo, Phật giáo, có thể giống nhau ở một số quan điểm về đạo đức xã hội, riêng phật giáo không hề cách ly hiện thực và lý tưởng để phủ nhận cuộc sống hiện thực chuẩn bị cho thế giới lý tưởng như hầu hết các tôn giáo Thần học, vì Phật giáo phủ nhận một đấng sáng tạo, đó là điều đặc biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Vì thế, quan niệm của Mac và những nhà Duy vật sẽ không đúng khi có cái nhìn Phật giáo như những tôn giáo, và định nghĩa Tôn giáo của họ như trên đây hoàn toàn xa lạ với đạo Phật.

MINH MẪN
08/01/2018