Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

TỰ TÁNH DI ĐÀ 8

Tôn giáo và tâm linh

Với quan điểm tiến bộ về tâm linh, Đức Phật vượt thoát khỏi sự ràng buộc của Thần học Bà La Môn và một số chi phái đương thời về đức tin cùng sự hiến tế. Cũng vì thế, Đức Thế Tôn mở ra một hướng đi mới hoàn toàn biệt lập những gì mà tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống đã thiết lập trên căn bản kiến giải từ thuở sơ khai về nhân sinh – vũ trụ – hiện tượng do ly tâm hướng ngoại tại Ấn lúc bấy giờ.

Từ thế kỷ thứ 6 – 7 trước công nguyên, lục địa Trung Hoa có Tứ Thư- Ngũ Kinh do thầy trò Khổng Khưu san định về nhân cách, về ứng xử trong xã hội, cách điều hành xã tắc và an định giai cấp thứ bậc cho cộng đồng ổn cố. Đồng thời cũng có học phái nghiêng về tâm linh, xa lánh hồng trần như Lão Trang, thì người láng giềng cách nhau dãy Hy mã cũng cưu mang một triết lý uyên thâm không kém. Khác với Tứ thư Ngũ kinh chuyên về tương quan xã hội với lễ nghi thì Kinh Vệ Đà lại chú hướng tới thiên nhiên thần quyền và nghi cách hiến tế. từ đó nảy sanh ra giai cấp Tăng lữ phục vụ Thần linh. Trong một số giáo sĩ chủ trì việc hiến tế, trước khi tiếp nhận ân điển từ cỏi vô hình, họ xử dụng loại rượu giống như rượu nho của Kito giáo trong các buổi lễ Misa; lúc ấy ý thức không còn làm chủ thân xác, sóng não vô thức phát tác các tia năng lượng sinh thức bắt gặp tầng số rung động của năng lượng ngoại biên để cảm nhận một cách mơ hồ về sự mặc khải, đó là kết quả tất yều của quá trình tư duy hướng thượng về một đấng hằng hữu. Là một phần của những hành giả Yoga nguyên thủy pha lẫn với chức sắc tôn giáo đương thời thể hiện một quyền năng siêu nhiên. Tư tưởng Vệ Đà vì thế theo thời gian đã biến thái từ đa thần sang nhất thần giáo, rồi từ nhất thần chuyển sang triết hệ kinh qua Vệ đà – Phạm Thư và Áo nghĩa thư. Hệ quả trên được truyền thừa từ dân tộc Âu Ấn (Aryan). Cũng từ đây, mở đường cho một đức Thích Ca xuất hiện với một quan kiến hoàn toàn mới lạ. Dĩ nhiên hoa sen không thể mọc lơ lửng giữa trời, cũng thế, Phật giáo xuất hiện cũng phải bắt từ gốc rễ sâu xa của những học thuyết, tín ngưỡng mà một giai đoạn nào đó trình độ xã hội buộc phải đào thải hoặc chuyển biến. Hai hiện tượng tín ngưỡng nảy sinh song hành đương thời, đó là Phật giáo và Kỳ na. Nhưng Kỳ na vẫn còn vướng víu một ít quan điểm quá khứ của Bà la môn, vì thế vẫn lúng túng trong cung cách thoát ly giữa lý tưởng giải thoát và tâm lý đời sống. Một hành giả Kỳ na va vấp từ cực đoan nầy đến cực đoan nọ để dò dẫm tìm một lối thoát khả dĩ cho kiếp tương lai giữa nhân và quả vốn đã tạo. Do cuộc sống thanh bạch, khổ hạnh và giới luật nghiêm minh, trường chay tuyệt dục, mà Kỳ na đã được tồn tại giữa sự tôn kính trong xã hội. Chính sự lúng túng và thụ động chưa có lối thoát mà Kỳ na khó phát triển mạnh như Phật giáo. Riêng Phật giáo, Đức Thich Ca hoàn toàn phủ nhận một đấng sáng tạo. Những mỹ từ tôn xưng các đấng sáng tạo như Thượng đế, Brahma, Allah, Vishnu, Shiva hoàn toàn xa lạ đối với Phật tử thời bấy giờ. Bất cứ một đối thể quyền năng ngoài con người đều không được chấp nhận. Nhưng nếu là một biểu tượng của quang năng tự tánh như một Như lai bản thể tồn tại trong mỗi chúng sanh, thì cho dù danh xưng có khác, vẫn là một!

Hệ phái tương đồng

Sau khi Phật giáo phát triển tại Ấn độ trên dưới 18 thế kỷ ( trước và sau công nguyên ), một số học lý tâm linh chịu ảnh hưởng Phật giáo, đã nảy sinh ra những hành giả vừa có màu sắc Yoga, vừa mang âm hưởng Ấn giáo, vừa trang bị những luận thuyết của Phật giáo để hình thành một hệ phái tâm linh mới, đáp ứng nhu cầu thời đại về một hướng đi hòa nhập giữa thần học của Bà La Môn, Hồi giáo và nhân bản của Phật giáo hầu hướng đến giải thoát bản ngã hẹp hòi của con người. Đó là hệ phái Sant Mat, thoát thai từ đạo Sikh, xuất hiện từ thế kỷ thứ 15 bởi Đạo sư Nanak khởi lập.

Sikh - Tuy sinh sau đẻ muộn, đạo Sikh được coi là tôn giáo lớn đứng hàng thứ 5 trên thế giói; Guru Nanak là khai tổ của đạo Sikh tại Punjab. Cũng như cách xưng hô của giáo phái Khất sĩ tại Việt Nam, tự nhận mình là trò, có nghĩa là người đang học hỏi, Sikh cũng có nghĩa như thế. Hệ thống tổ chức lại giống Phật giáo Hòa Hảo, không có chức sắc mà chỉ có những người đủ tư cách đứng ra đọc Thánh thư như đọc sám giảng ở miền Tây Nam bộ Việt Nam. Không thờ hình tượng giống giáo phái Tin Lành.

Nanak xuất thân từ gia đình Bà La Môn, được giáo dục theo giáo hệ Hồi, Đạo sư Nanak chống lại việc nghi tế của Bà La Môn. Thuở sinh tiền, Nanak có nhiều đặc tính của một vị Thánh nhân từ. Ngài luôn thiền định để khám phá nội tâm. Ngài lý luận bắt bí các thầy tế lễ, các học giả. Thích hạnh bố thí cúng dường. Khi khai mở đạo, ngài chủ trương không thờ hình tượng tuy tin có Chúa Trời. Chúa đến với loài người thông qua ngôn ngữ của các guru. Sikh tôn trọng sự bình đẳng và giới tính trong xã hội. Chú trọng việc hành thiện hơn là hiến tế. Nhấn mạnh đến tình thương vô ngã. Nanak tìm đến chân lý, bằng việc tán dương và sùng tín Thượng Đế, một Thượng đế vô hình, không mang hình ảnh con người mà đầy đủ bản chất trọn lành, chân thật và trí tuệ. Thượng đế của Sikh là một tổng hợp đa Thần giáo của Bà La Môn; Bà la Môn có Thần hủy diệt, Thần sáng tạo, Thần duy trì thì Thượng đế của Sikh mang đủ tính chất của các vị Thần đó. Chính vì thế, từ đa Thần tiến đến nhất Thần, Sikh đã hội tụ nhiều tín đồ của Bà La Môn một cách nhanh chóng. Mục đích của đạo sư Nanak là kết hợp hài hòa giữa Ấn giáo và Hồi giáo, nhưng đến vị kế thừa thứ 6, (Har Govind) đã có sự rạn nứt và ly khai hẳn Hồi và Ấn gáo. Lễ nhập môn đạo Sikh trước kia đơn giản bao nhiêu thì đến vị tổ thứ 10, sau khi lập thành cứ địa và đạo quân của Sikh, Gobind Singh dùng nước và thịt để uống và vẩy lên người khi tuyên thệ nhập môn. Cũng từ đây, sau tên chính thức còn có chữ Singh (nghĩa là sư tử). Những môn đồ đầu tiên gia nhập, có đặc điểm khác với môn đồ khác là để tóc, cài lược gỗ, mang theo dao 2 lưỡi, đeo vòng bằng thép và quần mặc khỏi gối. Vị tổ cuối cùng của Sikh đã tạo một lực lượng hùng mạnh theo gương Hồi giáo để chống lại áp bức và chống Hồi giáo. Tuy lực lượng ít nhưng họ dũng mãnh nên chiến thắng mọi đối lực thành lập một vương quốc riêng tại Punjab cho đến khi Anh quốc thống trị Ấn độ.

Đến đạo sư thứ 5 là Arjunmal mới thực sự kết tập lời dạy của sơ tổ và các bản Thánh ca của các đạo sư trước kia, làm thành sách Thánh thư Adi Grantha Sahib.

Một đoạn trong Thánh thư, chương Japa, cho ta thấy triết lý nguyên thủy của đạo Sikh nói về đấng tối cao: “ Con là ta và ta là con, có gì khác nhau đâu? Đấng Nhất như bao hàm trong mọi vật mà Ngài ngự nơi ấy. Bản thân Ngài là Nhất bản mà chính Ngài cũng là vạn thù. Ngài không chết mà cũng chẳng tiêu vong. Ngài không đến mà cũng không đi…” Qua đoạn trên, tinh thần của Sikh ảnh hưởng Ki tô giáo, tinh túy Phật giáo, và cả Lão Trang của tiên đạo. Nói một cách hàm tàng, chân lý chỉ là một. Tột đỉnh của mọi tâm linh chỉ là một. Trong chương Sorath Ngài xác định nhân loại đều mang bản chất của ánh sáng: …“Ngài là ánh sáng của mọi vật, là Brahma ẩn trong mọi vật chứa, ánh sáng của Ngài hoàn chỉnh trong mọi dẫn thể (tâm hồn)”…

Cũng như bất cứ hệ phái tâm linh nào, khởi đầu luôn hướng nội, phi ngẫu tượng, không nghi lễ tán tụng…nhưng về lâu dài, không ít thì nhiều cũng có cái gì đó để tôn thờ, nhớ tưởng đến Thánh tổ, họ chọn hoặc hình tướng, hoặc màu sắc hoặc một vật biểu tượng, đạo Sikh cũng thế, sau khi ổn định Thánh địa và tổ chức vào nề nếp, cuốn Thánh kinh Adi Grantha Sahib là biểu tượng được tôn kính ở một vị trí đặc biệt trong đền thờ. Hòa Hảo có tấm trần điều, Phật giáo có tượng chư Phật, Cao Đài có con mắt, Kito giáo có Chúa Jesus và cây Thánh giá…từ đó, các hệ phái tâm linh biến thành tôn giáo với nhiều lễ nghi giáo điều của một tổ chức.

Trong giáo lý của Sikh có những điều thông thoáng và tiến bộ hơn so với Bà La Môn và Hồi giáo. Rất gần với Phật giáo như tính vô ngã, tình thương vô điều kiện, pháp hành hướng nội, không thích thụ động, khích lệ sự bố thí, hy sinh cho mọi người, bình đẳng mọi giai cấp, phá bỏ mọi hủ tục do Bà La Môn để lại. “Adi Granth tr 747” : Loại giáo lý Thần Thánh nầy là để phục vụ tất cả các đẳng cấp – Bà La Môn – Sát Đế Lỵ - Phệ Xá – Thủ Đà La. Bất cứ người nào đọc tên của Thần dưới sự chỉ đạo của sư Tổ đều có thể giải thoát khỏi cuộc sống tối tăm. Nhưng rất khác xa Phật giáo về một bản ngã mà Phật giáo luôn phủ nhận. Quan niệm về một Thượng đế khác với Brahma hay Allah, một Thượng đế mang tính nhân văn phi hình thể. Nhưng suốt hệ thống truyền thừa, trong nội điển Adi Grantha Sahib cũng như khẩu truyền kế thừa của tổ tổ tương truyền không hề hàm tàng một pháp hành như Phật giáo. Dần dần mang màu sắc của tôn giáo như các tôn giáo khác. Nhưng các Đạo sư của Sikh vẫn dùng Thiền định để hướng về Thượng đế như các tu sĩ Kito tĩnh tâm chiêm nghiệm trước tượng Chúa. “ Đường Thiền vào lối Chúa” là cách nói của “Giáo hoàng áo đen” dùng phương tiện của đạo Phật hòa nhập cùng Thánh thể. Từ quan niệm hòa nhập cùng Thánh thể, một triết lý về Thượng đế của dòng truyền thừa Sikh mọc nhánh, tách bạch hẳn gốc ban đầu mà Sikh cũng như hầu hết các hệ phái tâm linh biến tướng ngả sang hữu thể qua âm thanh sắc tướng. Một pháp môn hình thành rõ ràng kể từ sau 10 vị tổ đầu tiên của đạo Sikh. Kể từ Guru thứ 11, Gobind Singh Ji, sau chữ Singh có thêm chữ Ji biểu thị sự tôn kính khi mà vị đạo sư nầy chứng nghiệm pháp hành “ánh sáng và âm thanh”; và cũng từ đây, hình ảnh đạo Sikh chỉ còn lưu lại qua trang phục màu trắng, các hành giả, các minh sư có một đời sống nội tâm và quan điểm về một Thượng đế hoàn toàn khác ban đầu; Tên của dòng phái mới nầy được biết qua đạo hiệu là Sant Mat mà người ta vẫn quen gọi là đạo Sikh; Thực chất Sant Mat có một tiến bộ tâm linh đáng kể hơn, thoát ly hẳn sinh hoạt của Sikh. Từ đây Sikh vẫn là một tôn giáo, nhưng hệ phái Sant Mat là nhánh phát xuất từ Sikh có một sinh hoạt tâm linh đặc thù, không nặng nghi thức của tôn giáo, vì vậy, quan niệm về một Thượng đế cũng hoàn toàn thoát xác, gần gủi với “ Bản lai diện mục” của Phật giáo hơn, và giới cấm cho một hành giả tâm linh là 5 giói cấm của Phật giáo. Pháp hành nếu không từ Phật giáo thì cũng không xa Phật giáo về yếu tố cơ bản. Việc ăn uống cũng tuyệt đối trai tịnh.

10 vị tổ của Sikh: 1 Kabr Sahib (1398-1518)
2 Guru Nanak (1469-1539 )
3 guru Angad (1504-1552)
4 Gu ru Amaradas (1479-1574)
5 Gu ru ramdas (1534-1581)
6 Gu ru Arjandev (1563-1606)
7 Gu ru Har gobind (1595-1644)
8 Gu ru Har Rai (1630-1661 )
9 Gu ru Hari Krishan (1656-1664)
10 Gu ru Teg Bahadur (1621-1675)

Sant Mat là gì?

Sant Mat là phương pháp thiền quán ánh sáng và âm thanh tâm linh bên trong, do một vị thầy tại thế chỉ dạy. Đây là phương pháp thiền định cổ xưa lưu truyền qua bao thế kỷ, được vị Minh Sư ban cho đệ tử...

Đó là lời giải thích của dòng Sant Mat về pháp môn tâm linh không mang màu sắc tôn giáo. Sant Mat cố gắng phục hồi lại khuynh hướng đầu tiên của Đạo sư Nanak mà thời gian dài xuống cấp như bao tôn giáo đã xuống cấp từ hệ thống tâm linh thuần túy. Sant Mat không có khuynh hướng truyền giáo, nhưng hoan nghinh những ai đến với Sant Mat; Sant Mat cần chất chứ không cần lượng, vì thế việc hành trì rất nghiêm ngặt trong giới luật cũng như thọ dụng, sinh hoạt trong cuộc sống. Sant Mat chủ trương tự nỗ lực lao động và chia xẻ thành quả lao động cho mọi người mà không thọ nhận của những ai không cùng trong pháp môn tu tập. Về tư tưởng – hành động – lời nói luôn tránh bạo lực, cực đoan. Lòng từ bi bao trùm mọi sinh loại. Phục vụ vô ngã, vô vị lợi. Tự thân sống thật thanh khiết.

Quan điểm về một Thượng đế gần với tinh thần Phật giáo, nghĩa là một Thượng đế không hình tướng, không vị kỷ, không ban phước giáng họa; Tuy không dùng thuật ngữ nhà Phật, nhưng Thượng đế của Sant Mat hàm nghĩa Phật Tánh, Như lai tạng tánh, Bản lai diện mục…Thượng đế là chúng sanh, chúng sanh cũng là Thượng đế. Quay về Thượng đế có nghĩa quay về tánh giác trong mỗi chúng sanh. Thượng đế là ánh sáng trí tuệ khi vô minh đọan diệt. Tuân thủ theo luật nhân quả để thoát khỏi nhân quả bằng pháp hành tránh bị ràng buộc bởi nhân quả!

Đời sống của một hành giả Sant Mat – tuyệt đối trai tịnh, không dùng vật thực và vật dụng liên hệ đến sinh mạng chúng sanh như sữa, mật ong, yến sào, trứng cho dù là trứng công nghiệp, các lọai da động vật…Không xử dụng chất say, gây mê. Không tạo thói quen đam mê và cảm giác ham muốn. Ngoài vấn đề liên đới đến sinh mạng chúng sanh, còn cả việc uế trược của một năng lượng làm cản trở sự tiến bộ tu tập.

Năm giới căn bản của cư sĩ Phật giáo được Sant Mat triệt để tuân thủ. Về tinh thần và thể nghiệm – không trụ chấp vào bất cứ hiện tượng tâm linh nào trong quá trình tu tập. Tâm buông xả tuyệt đối. Hạn chế hướg ngoại của các giác quan để hướng tâm vào hành trì miên tục.

Phương tiện hành trì: - quán chiếu vào ánh sáng tự tâm (quan năng tự tánh) và chỉ quán vào âm lưu nội tại. Một khuyết điểm nhỏ là các hành giả không được trang bị kỷ tinh thần kinh Lăng Nghiêm và kinh Kim Cang nên hay bị vướng vào những hiện tượng phát sanh từ ngũ ấm một khi tập khí quá khứ phát khởi do trạng tái tĩnh lặng của thiền định. Tuy nhiên vẫn có không ít hành giả đắc pháp lúc ban đầu, một thời gian sau do vi tế ngã chi phối nên cống cao ngã mạng tự xưng là Phật sống, là Thượng đế…biến thành tà đạo - tuy Sant Mat cấm xử dụng và không xem trọng thần thông. Nếu một hành giả Sant Mat được trang bị đầy đủ những kinh nghiệm về hiện tượng tâm linh của Phật giáo, chắc chắn đạo quả sẽ hoàn chỉnh và thăng tiến vững chắc.

Bất cứ hệ phái tâm linh nào, đưa đế kết quả: - phát tiển lòng từ vô hạn – trí tuệ năng lưu – tâm hồn an lạc thanh thoát, vô ngã – thế trí biện thông …đều là con đường chính đáng.

Kinh Kim cang dạy: …”Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”…”Cái ánh sáng và âm thanh” xuất hiện trong quá trình tu tập của Sant Mat là điều tất yếu của bất cứ pháp môn tâm linh nào, đó không phải cái đích đến hay mục đích phải thành đạt; Đây là điều hệ trọng mà một hành giả tâm linh nếu không được hướng dẫn kỷ sẽ nghiêng lệch sang tà giáo. Một số hành giả Sant Mat cứ mong và thích thú khi cảm nhận được ánh sáng vi diệu hay âm thanh tuyệt hảo trong hành trình thiền định, là điều hoàn toàn sai lạc. Ánh sáng do năng lượng sinh học cung cấp là loại ánh sáng cảm biến của loài đom đóm. Ánh sáng do năng lượng sinh thức là loại ánh sáng thanh tịnh của tâm thức mà suốt quá trình tu tập giữ giới, trai tịnh và thiền định cả thể chất lẫn tinh thần thanh tẩy, điều tất yếu xuất hiện qua sắc diện, giọng nói và phong cách. Ánh sáng do năng lượng siêu thức là loại quang năng tự tánh, là vô lượng quang của tự tánh Di Đà trong mỗi chúng sanh, là bổn lai diện mục, là Như lai tạng tánh, là nguồn sinh lực vũ rụ không vô biên xứ. Đó là điểm đến cho mọi hành giả tâm linh. Như vậy, “ánh sáng và âm thanh” của hành giả Sant Mat là phương tiện trụ tâm và quán chiếu, nói theo thuật ngữ nhà Phật là “chỉ và quán”. Chỉ là ngưng tụ mọi ý tưởng nơi “ánh sáng và âm thanh”, quán là luôn tỉnh thức đối với “âm thanh sắc tướng” để khỏi bị vọng tưởng dẫn vào mê lộ. Như vậy “ánh sáng và âm thanh” là phương tiện như bao nhiêu phương tiện của bất cứ pháp môn nào đi vào thiền định. Một khi năng lượng vũ trụ tác nhập vào năng lượng sinh học làm êm dịu hệ thàn kinh, dễ đưa hành giả vào hôn trầm.

Thiền định là dương tính loại trừ âm trược, quang học vũ trụ là dương tính loại trừ âm u chướng khí. Tâm linh hướng thượng là dương tính thoát khỏi thần quyền tà pháp. Cuộc sống của mọi sinh vật, kể cả thực vật đều tồn tại trên căn bản “ánh sánh và âm thanh”; thiếu ánh sáng mọi vật sẽ mang âm khí, thiếu ám thanh mọi sinh vật sẽ èo ụt. Khoa học chứng minh, cho cây trái nghe âm nhạc, cây sẽ mau lớn, quả sẽ to. Thai nhi nghe nhạc hay mẹ thường tâm sự với con khi con còn trong bào thai, trẻ con sẽ mạnh khỏe, thông minh. Cây rừng phát triển nhờ ánh nắng và sức gió…Ohsawa chú trọng thực phẩm mang dương tính. Dương tính đi lên, âm tính đi xuống. Người mang nhiều âm tính thường sa vào trầm cảm, u uẩn. Một pháp môn hướng thượng luôn là pháp môn giải thoát, tùy cấp độ của pháp môn mà giải thoát từng phần hay toàn triệt. Ngoài pháp môn hướng thượng còn tùy thuộc vào tư tưởng, thực phẩm và sinh hoạt xã hội.

Sant Mat tuy không là của nhà Phật, nhưng pháp hành và đời sống theo tiêu chuẩn của Phật giáo; quan điểm về xã hội, cộng đồng nhân loại và sinh vật luôn là tinh thần hỷ xã, hy sinh, công bằng và tình thương vô điều kiện, không hạn giới. Bản thân một hành giả là tri túc, nghiêm túc và thánh thiện. Ngôn hành không mang tính ích kỷ, bạo động nghĩa là hỷ xã và ái ngữ như Phật giáo. Không chủ trương truyền bá như các tôn giáo khác, nhưng sẵn sàng chấp nhận để hướng dẫn việc tu tập thuần túy tâm linh cho những ai tự nguyện đến với Sant Mat. Kể từ đạo sư thứ 11, Guru Gobind Singh Ji, đạt được cảnh giới tâm linh, gọi là minh sư, Sant Mat đã truyền thừa qua


12 Sant Ratnagar Raoji ( không biết do thất lạc hồ sơ )
13 Tulsi Sahib ( không biết do thất lạc hồ sơ )
14 Swami Ji Maharaj (1818-1878 )
15 Baba Jaimal Singh Ji (1838-1903 )
16 Baba Sawan Singh Ji (1858-1948 )
17 Sant Kirpal Singh Ji (1894-1974 )
18 Sant Thakar Singh (1929-2005 )
19 Baljit Singh Ji (1962-tới nay)

Ngoài Sant Mat còn rất nhiều hệ phái tâm linh có khuynh hướng giải thoát như Phật giáo, nhưng mức độ giải thoát như thế nào còn tùy thuộc vào giáo lý và pháp môn đặt trên căn bản giải quyết nhân quả quá khứ, ngăn chận nhân quả xấu hiện tại và thoát khỏi nhân quả trong tương lai; Nơi đó, điểm đến vẫn là quang năng tự tánh của mỗi hành giả được hiển lộ toàn diện để nhập vào năng lượng siêu thức cùng vũ trụ vô biên.

MINH MẪN

26/3/2012

TỰ TÁNH DI ĐÀ 9

Con đường đi đến

Nguồn sáng tâm linh:Hầu hết các nhà tâm linh, các hành giả chứng đắc, các minh sư đều xác định nguồn cội tâm linh là một nguồn sáng vô tận. Từ nguồn sáng đó, một linh thức chiết xuất nhập vào thai tạng có ba dạng – thể trí – thế vía – thể xác. Nguồn sáng gốc là quang năng tự tánh, nhập vào thể xác, khi cởi trói mọi ô trược, thoát khỏi vô minh, được gọi là tuệ giác, là trí tuệ giác ngộ, là bản lai diện mục…

Thể xác được nuôi dưỡng bởi vật chất, kết hợp với năng lượng vũ trụ, tạo thành một năng lượng sinh học. Năng lượng sinh học luân lưu trong cơ thể là nguồn sinh lực tự tồn, được kích hoạt bởi bảy đại huyệt. Những đám rối thái dương nầy chuyển động liên tục tiếp thu năng lượng ngoại biên, có lúc cũng phóng xuất năng lượng nội tại khi một sinh thể tự làm tiêu hao năng lượng bởi tư tưởng, hành động xấu ác; Do sự phóng xuất liên tục mà năng lượng nội tạng thiếu hụt trầm trọng, dẫn đến bệnh hoạn. Những bệnh tật do hậu quả cấp thời hoặc do tích tụ tiền nghiệp được biết là “Tiên thiên bất túc, hậu thiên thất nghi”. Trong việc phục hồi năng lượng để chữa trị bệnh thân, trước tiên phải tự điều chỉnh tâm thức theo hướng tích cực, trong sáng thánh thiện, vị tha, thành khẩn sám hối nghiệp nhân, song song là vấn đề thực dưỡng hợp lý để cân bằng âm dương thích hợp với cơ thể; Không thể bồi bổ cơ thể bằng những trược khí của sinh mạng động vật, nó làm năng lượng trì trệ thêm , u tối thêm, tác động đến những cơ phận đang mang bệnh, dẫn đến ung thư, u nang ung bướu…Những loại âm trược đó làm u trệ năng lượng sinh thức. Ánh sáng quanh cơ thể của một sinh vật biểu hiện một nội tạng bên trong. Nội tạng khỏe thì ánh sáng trong tỏ, nội tạng bệnh hoạn thì màu tăm tối thâm u nặng nề. Chính vì vậy, một số nhà tâm linh thành đạt, có thể điều chỉnh năng lượng sinh học thiếu hụt của một cơ thể, không cần dùng thuốc, không cần bùa chú phù phép mà chỉ cần dùng nhãn lực đưa năng lượng bù đắp vào chỗ thâm thủng, hóa giải trược khí tích tụ trong nhân thể của người bệnh, tự động bệnh tật lui dần, với điều kiện bệnh nhân phải trường trai thanh khiết và tâm hồn thanh cao trong sáng, độ lượng, hướng đến tâm linh. Một số hành giả chuyên luyện thanh điển, tuy chưa thành đạt tâm linh, cũng có thể dùng đôi tay điều chỉnh năng lượng bệnh nhân qua thể phách của thân bệnh mà không cần phải đụng đến cơ thể bệnh nhân. Dĩ nhiên tác động của một năng lượng sinh thức từ một hành giả có hiệu quả nhất định, nếu bệnh nhân không tự điều chỉnh tư tưởng, tâm linh,và chế độ thực dưỡng, thì bệnh tật không thuyên giảm, hoặc thuyên giảm giới hạn, hoặc nghiệp lực sẽ chuyển sang một dạng bệnh khác…

Đời sống đạo đức và thành khẩn sám hối, làm lợi ích cho tha nhân, quyết định nghiệp quả đang thọ nhận của chính mình. Ngày xưa, một lương y không chỉ có nhiệm vụ chữa trị bệnh nhân, còn phải khuyến khích thân chủ về chế độ ăn uống và cung cách hành xử thánh thiện. Ngày nay vì ảnh hưởng kinh tế, thầy thuốc chạy đua theo lượng số bệnh nhân mà không nghĩ đến căn nguyên tâm thức đóng vai trò quan trọng trong việc chữa trị của thân chủ. Một danh y xa xưa, nhìn sắc diện, giọng nói của thân chủ biết được trên 50% bệnh lý. Ngày nay thầy thuốc phần lớn y cứ vào lời khai của bệnh nhân mà cho thuốc, ngoại trừ vài căn bệnh cần xét nghiệm, chụp soi.. Hoặc khá hơn một chút, nhìn các hiện tượng bệnh thân mà tiên đoán nguyên nhân để cho thuốc, dĩ nhiên hiệu quả rất khiêm tốn. Các Lạt ma y sĩ, không chỉ xử dụng phương tiện y học mà còn kết hợp tâm linh; Những y sĩ tâm linh như thế, họ nắm bắt được nguồn gốc của bệnh thân qua ánh sáng của thể phách. Chẳng những thế, các Lạt Ma đạo sư còn dùng cả năng lượng sinh thức để hướng dẫn cho một linh thức thoát khỏi cảnh giới xấu ác khi rời bỏ xác thân. Chẳng những năng lượng sinh thức mà còn có khả năng dùng năng lượng siêu thức của bậc chứng ngộ điều hướng linh thức đến cỏi tịnh” đới nghiệp vãng sanh”.

Như thế, mọi sinh động vật đều mang một ánh sáng nhất định, tùy đẳng cấp từng loại động vật mà ánh sáng mạnh yếu khác nhau; thậm chí cây cỏ cũng mang thân ánh sáng của năng lượng sinh học. Con người là động vật thượng đẳng, vì vậy năng lượng sinh thức do quá trình trao đổi, giao thoa, quy nạp nhiều chủng tử thiện – ác xen tạp vào hàm tàng thức biến thành một khối bản ngã lầm tưởng là linh hồn. Một khi các tạp chủng tử được loại bỏ thì nguồn sáng tâm linh sẽ hiển lộ.

Cởi trói tinh thần

Video “Spiritual Truths Unveiled by Spiritual Master of” cũng đề cập đến việc hành thiền, cần thả lỏng tinh thần, chỉ theo dỏi hơi thở mà không dùng ý thức xét đoán. Bởi vọng tưởng ngăn cản nguồn năng lượng ngoại biên. Thường ngày do sinh hoạt cơ thể và ý tưởng đã làm cho nguồn năng lượng ngoại biên thâm nhập vào các đại huyệt một cách giới hạn, thêm nữa, việc thực dưỡng thiếu cân nhắc, mang nhiều trược khí vào cơ thể cũng gây trở ngại cho nguồn năng lượng vũ trụ thanh khiết nuôi dưỡng cơ thể. Khi ngồi thiền, thân và tâm ổn định, thư thái, nguồn năng lượng thanh khiết ngoại biên kết hợp với năng lượng sinh học của cơ thể luân lưu tạo thành một lực lượng hỗ trợ cho nội thể cũng như thần kinh não bộ. Từ cơ năng tinh khiết và tư tưởng thanh tịnh giúp cho hệ thàn kinh nhạy bén, năng lượng sinh thức phát triển trên con đường tiến hóa tâm linh. Một khi tư tưởng lắng đọng, bắt đầu những chủng tử trong alaida thức xuất hiện mãnh liệt. Sinh hoạt hàng ngày do tạp niệm nhiều nên không ý thức được giòng hoạt động của tiềm thức. Trong giấc ngủ do ý thức vắng mặt, những tạp thức xuất hiện, cho đó là mộng mị. Nguồn năng lượng ngoại biên cũng thâm nhập vào cơ thể rất giới hạn trong lúc ngủ, nó chỉ giải quyết được phục hồi sức khỏe sau những lúc làm việc mệt mỏi. Nhưng trong lúc nhập định, ngưng đọng mọi tạp niệm, năng lượng sinh thức hoạt động theo hơi thở, năng lượng vũ trụ thẩm thấu vào cơ thể và phủ trùm mọi ngõ ngách trong kinh mạch qua luân xa 7, hóa giải các trược khí, nguồn sinh lực nội tại hội tụ trên luân xa 6, tức con mắt thứ ba giữa hai chân mày, hành giả nhập định thâm sâu, quang năng tự tánh sẽ hiển lộ, trí tuệ dần dần khai sáng, mà video “ Sự thật về linh hồn” gọi là tắm mình trong thanh điển, tức là loại năng lượng ngoại biên thẩm thấu qua luân xa 7 kết hợp với năng lượng sinh học hỗ trợ cho năng lượng sinh thức. Nguồn thanh điển vũ trụ tối kỵ tạp niệm và trược khí. Vì thế, để tiếp nhận được nguồn thanh điển vũ trụ, hành giả phải lắng đọng mọi tạp niệm và thể chất được nuôi dưỡng bởi thực phẩm thảo mộc thanh khiết. Đây là lý do tại sao người tu thiền thường an lạc, khỏe mạnh, hồng hào; Nhà Phật gọi là Thiền duyệt vi thực. Bởi vì năng lượng thanh khiết thâm nhập vào cơ thể, đẩy lùi các trược khí từng làm bế tắt ống dẫn khí đến các cơ phận mà từ đó đã sanh ra bệnh tật. Thiền định tiếp nhận một số năng lượng thanh khiết làm sạch các đường kinh mạch của cơ thể, nguồn sinh lực nội tại luân lưu thông suốt thì cơ thể được cường tráng chứ không phải do vật thực đem lại sự cường tráng. Một cơ thể cường tráng thì sẽ có một tinh thần minh mẫn. Hành giả thâm nhập định sâu, năng lượng sinh thức hòa nhập với năng lượng ngoại biên ở tần số điển quang cao, bắt nhịp tần số rung động vũ trụ và thanh thức sẽ cho một trí tuệ thông suốt vượt không gian và thời gian, hành giả hiểu biết cao hơn về các cảnh giới của từng trạng thức. Do vậy, trong không gian, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni thấy cả tam thiên đại thiên và sinh vật tinh tế như vi trùng, nhân quả ba đường sáu nẻo của chúng sanh trãi qua thời gian quá khứ, vị lai. Sự thấu đạt của huệ nhãn vượt mọi chướng ngại để thấy biết một cách thông suốt. Sự thấy biết đó, các nhà tâm linh gọi là thể vía, một dạng linh thức mang hạt giống trí tuệ của năng lượng siêu thức. thể vía, hay gọi là linh thức mang hình ảnh của một sinh thể thăng hoa. Vượt qua khỏi thể vía sẽ là thể trí của bậc đại giác. Theo chiêm tin gia Sudeih Babu của xứ Ấn Ðộ trong sách “Hành trình về Phương Đông” lại tiết lộ về một thể trí, như sau:

Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với ba cõi, hạ giới, trung giới và thượng giới. Thượng Ðế cũng thế, tất cả vật chất cõi trung giới hợp thành thể vía của Ngài và tất cả vật chất cõi thượng giới hợp thành thể trí của Ngài. Tóm lại, tất cả đều là thành phần của Thượng Ðế từ hạt bụi đến các giải thiên hà. Mọi vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một thành phần của Thượng Ðế xuyên qua bảy cung - khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều tùy ảnh hưởng của các cung”

Theo Tiên giáo Cao Đài, một linh thức tu luyện phải vượt qua 7 giai tầng để đến thượng giới. Mỗi cõi phải cởi bỏ một phần tính thể tương ứng mới lên cõi trên, Tuy đạt Kim thân nhưng cũng chưa qua được tuyến tính thứ 5 là vòng Thái cực nếu chưa cởi bỏ thể Hạ trí. Thái cực là vòng lửa, vượt qua được chỉ có kim thân.

Theo Sant Mat, cảnh giới thứ năm là bức tường kiên cố, một hành giả vượt thoát mới giải thoát đến được các cảnh giới trên. Trong Thập địa Bồ Tát cũng thế, “Nan Thắng địa” của địa thứ năm cũng thiên nan vạn nan mới tiến đến thập địa.

Xin lược qua lý thuyết Đạo học: Vô cực là cõi hỗn mang chưa phân định đất trời, đó là cỏi uyên nguyên, từ Vô cực sanh Thái cực, tức đã móng khởi vọng niệm,Thái cực là khối nguyên khí vận hành thời gian vô cùng, do vận hành mà sanh nhiệt (lửa). như vọng niệm tác động hành xử sanh thân nhiệt. Từ vọng niệm nẩy sanh nhị nguyên đối đãi, tức Thái cực mới có phân định âm dương (lưỡng nghi) rồi tứ tượng, bát quái, Tam tài…

Theo Big Bang, do khối đặc cầu lửa vận hành nổ ra, lực ly tâm phân tán các tinh vân mà thành thiên hà vũ trụ. Cùng lúc nổ ra tạo âm thanh và phát ánh sáng. Phải chăng khối cầu lửa đó là Thái cực? “ Nhất bản tán vạn thù” là đây? Trên nguyên lý của lực ly tâm thì các tinh vân mỗi ngày một xa điểm xuất phát mà các khoa học gia gọi là vũ trụ giãn nở theo thuyết Hubble. Cũng có thuyết cho rằng có thời kỳ co lại để đến thời kỳ giãn nở thì Richard Tolman gọi như thế là vũ trụ dao động, mà đã là dao động thì không thể tồn tại vĩnh viễn, đó là quy luật vô thường của vật thể cũng như tâm thể. Một khi tâm phóng xuất ở một trương độ cực đỉnh, buộc lòng phải quy hướng trở lại; càng trầm luân tội lỗi càng dễ giác ngộ ăn năn; đó là sự phản bổn huờn nguyên, nói một cách văn hoa: - đứa con đi hoang đã trở về!

Trở về với chơn như nguyên thủy phải vượt qua bức tường vô minh vọng niệm mà chỉ có trí tuệ Bát nhã ( kim thân) mới đủ lực xuyên thủng vô minh. Một khi nguồn sinh lực nội thể kinh qua các đại huyệt, bổ sung sinh lực toàn thân đưa đến cường tráng để sanh trí tuệ thì nguồn sinh lực đó phải xuyên thấu kẽ xương đỉnh đầu như qua một đường hầm hẹp tăm tối, thoát ra ngoài hòa nhập với nguồn thanh điển vũ trụ, vạn thù đã quy nhất bản. Bất cứ pháp huyền môn nào cũng phải trãi qua nhiều công đoạn mà yêu cầu chung là cần một thân thể thanh khiết do ăn uống thanh khiết và tâm hồn thanh khiết ( khử trược lưu thanh), kế đến là loại trừ các tạp niệm để đi vào định. Khi nhập định cũng phải đối đầu với nhiều chướng ma từ tâm thức xuất hiện. Con đường tu tập là một quá trình phấn đấu gian nan với chính nghiệp chướng của mình. Ngay cả “kiết sử” và “triền cái” của nhà Phật cũng là những đoạn đường gian truân cho hành giả: Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi là 5 triền cái cũng đủ che đậy tâm con người, huống nữa là thập kiết sử, hành giả không vượt qua thì khó đạt thành đạo quả.

Mười kiết sử là:

- thân kiến (sakkàya-ditthi),
- hoài nghi (vicikicchà),
- giới cấm thủ (silabata-paràmàsa)
- tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga)
- sân hận (vyàpàda),
- tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga),
- tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga),
- mạn (màna),
- trạo cử vi tế (uddhacca),
- si vi tế (avijjà)

.

Đức Phật trình bày lộ trình đưa đến đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.

Ở đây, vị Tỳ kheo do viễn ly các sanh y (upadhi), do đoạn trừ các pháp bất thiện, do làm cho an tịnh thân thể ác hạnh một cách toàn diện, vị này ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bịnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã... Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy (tức năm hạ phần kiết sử). Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung vào bất tử giới (amata dhàtu) và nghĩ rằng: "Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, đây là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn diệt các lậu hoặc, thời do tham pháp và hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ trình, đây là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.

Cũng vậy vị Tỳ kheo diệt tầm diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai... chứng và trú Thiền thứ ba,... chứng và trú Thiền thứ tư. Vượt lên mọi sắc tưởng, chứng và trú Không vô biên xứ,... chứng và trú Thức vô biên xứ,... chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này chánh quán mọi sắc pháp, mọi thọ pháp, mọi tưởng pháp, mọi hành pháp, mọi thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chứng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới, và nghĩ rằng: "Đây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết bàn". Nếu an trú vững chắc ở đây, vị ấy đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp và sự hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa. Đây là lộ trình, đây là con đường đưa đến đoạn tận năm hạ phần kiết sử.

Cuối cùng, Tôn giả A Nan hỏi đức Phật rằng đây là con đường đưa đến sự đoạn trừ các năm hạ phần kiết sử, thời do hành trì như thế nào mà một số Tỳ kheo chứng tâm giải thoát, một số chứng tuệ giải thoát. Thế Tôn trả lời là do sự sai khác về căn tính.

KINH MALUNKYAPUTTA

Kinh điển Nam truyền cho ta thầy thiền pháp y cứ trên căn bản quán xét, loại trừ và hóa giải. Dùng trí để diệt trừ căn bản phiền não và vi tế vô minh. Để diệt lòng tham dục, hành giả quán sát xác chết, xương khô và những yếu tố giả hợp.

Theo Bắc truyền, quá trình tu tập đưa đến quả vị toàn thiện, phải kinh qua “Thập địa Bồ Tát”. Một hành giả không còn vi tế phiền não nữa mới đạt được năng lượng siêu thức, phải ở đẳng cấp bát địa, tức “Bất Động địa”.Tâm hành giả phải đạt đến “Nhân không” “pháp không” mới sanh tâm cực hỷ là “hoan Hỷ địa”. Quả vị thứ ba của Thập địa, hành giả đã khai phát tuệ giác, gọi là “Phát quang địa”, lúc bấy giờ năng lượng siêu thức đồng dạng với thanh điển vũ tụ.

Bất cứ pháp hành nào đưa đến tâm linh giải thoát toàn tiệt, cũng phải hàm chứa tính chất của thập địa.

_ “Ngũ đình tâm quán” - “Tứ niệm xứ”…là những pháp hành chuyển tâm.

“Hiện pháp lạc trú”- “công án”- “trì danh”…là pháp hành quán và tuệ”.

Tri vọng chỉ vọng” “ xả tâm” – “ly dục, ly ác pháp”…là pháp loại trừ.

“quán tưởng âm thanh, ánh sáng, tôn tượng…” là định và tuệ.

“Kim cang thừa” – “mật pháp”…là niệm, định và lực.

_ “Hồi quang phản chiếu” – “phản văn văn tự tánh”…là định và tuệ

Còn vô số pháp hành giúp hành giả không ngoài “chỉ” và “quán” cộng thêm tha lực từ niềm tin. Một pháp hành, ngoài yếu tố “tam pháp ấn” để xác định tính giải thoát, hiệu quả của một pháp còn tùy thuộc căn cơ, lòng nhiệt hành và tính miên tục của hành giả.

Đạo Phật tuy không chấp nhận một linh hồn tồn tại, bởi lẽ, những tập khí vô minh biến thành một khối mà gọi là bản ngã, một khi tiến vào hành trì, hành giả lần lượt cởi trói tất cả những thứ đó, như lột từng bẹ của thân cây chuối, để tiến đến giải thoát, những thứ ấy, những yếu tố cấu thành bản ngã ấy, không phải là một linh hồn. Một khi năng lượng sinh học cống hiến nguồn sinh lực cho cơ thể, năng lượng sinh thức bắt đầu có mặt; một khi năng lượng sinh thức loại trừ tạp niệm, tập khí, kết hợp với một năng lượng sinh học thuần khiết, nguồn sinh lực từ cỏi hạ giới đi lên thông qua trung và thượng giới, giúp tuệ nhãn khai mở; tùy mức độ khai mở mà hành giả thăng hoa. Điểm đích cuối cùng là năng lượng siêu thức, quang năng tự tánh, vượt khỏi tuyến tính thời gian và không gian, trở về mái nhà xưa, có thể gọi là Như lai tạng tánh, Bản lai diện mục, điển quang vũ trụ hay bất cứ ngôn ngữ hồng danh nào biểu thị cho “không vô biên xứ”, “thức vô biên xứ”…phải chăng, đó không còn là một linh hồn cá biệt theo quan niệm thường tục.

Theo “Sụ thật về linh hồn” – con người trở về với bản lai diện mục thật đơn giản, chỉ cần ngồi thư giãn, buông xả, không dùng đầu óc thì năng lượng vũ trụ thâm nhập vào toàn thân, nuôi dưỡng các kinh mạch, tế bào, dần dần trí năng phát sáng nhờ nguồn sinh lực kundalini vận hành từ dưới đưa lên khai mở trí tuệ.…Yoga là một pháp hành tối cổ, luyện thân đi vào luyện tâm một cách công phu. Các pháp thiền của Phật giáo dùng quán tưởng, quán xét để hóa giải các tập khí đưa đến định và tuệ thông qua giới luật và thực dưỡng. Như vậy, các pháp luyện lấy thân làm cơ bản để tiến vào tâm như Yoga, Tiên gia, Phật giáo lại dùng trí để hóa giải vọng tâm và nhục thể. Các pháp hành Đạo gia dùng tư tưởng dẫn khí giống Yoga để kết tinh Tam bửu ( Tinh-khí-thần). Kim Cang thừa dùng sắc tướng (Mandala) và âm lực (mật chú ) để nâng tâm thức vào tần số sóng thức siêu nhiên. Cho dù bất cứ pháp hành tâm linh nào, đều kinh qua chấn động lực của tâm thức và sóng từ của ánh sáng tuệ giác. Một số hành giả pháp: “quan âm – ánh sáng” đều lầm tưởng “ánh sáng và âm thanh” là đích để đến. Đó chỉ là hiện tượng tiến triển của tâm thức. Do sức chấn động của nguồn sinh lực mà năng lượng sinh thức bị tác động thể hiện qua âm lực nội thân hay ánh sáng của năng lượng sinh thức. Đây là loại ánh sáng đặc biệt, một Bioplasma không có “bóng”. Một ánh sáng vật chất truyền nhiệt lượng vào một vật sẽ tùy thuộc vào màu sắc của vật tiếp nhận. Vật tiếp nhận có màu sáng sẽ tiếp nhiệt ít hơn vật có màu sắc sậm tối. Khi ánh sáng truyền qua tinh thể trong suốt, ánh sáng đó sẽ phân tán thành nhiều màu sắc khác nhau. Ánh sáng tia cực tím và tia hồng ngoại có bước sóng cực ngắn hoặc cực dài nên mắt thường không thấy. Khi ánh sáng vật chất truyền qua hai môi trường không đồng nhất thì ánh sáng bị bức xạ bẻ cong hoặc lệch hướng do vận tốc di chuyển của ánh sáng… Nhưng ánh sáng của năng lượng siêu thức không bị tác động như thế, cho dù ánh sáng phát ra cực độ bằng ánh sáng của hàng ngàn ánh sáng mặt trời, cũng không bị tùy thuộc vào nhiệt lượng của chính cá thể. Ánh sáng đó là một “từ điển” có lực thu hút và lan tỏa, đi vào cảnh giới hiện tượng nó biến thành “tình thương”, lòng “từ bi” – “bác ái”…vô điều kiện. Các giáo chủ, các minh sư, các đạo sư, chân sư thuộc đẳng cấp tâm linh cao đều bao phủ một điển lành, lòng từ vô hạn đủ cảm hóa mọi thành phần xấu ác và quy ngưỡng các loài sinh vật cầm thú. Như vậy, năng lượng siêu thức hàm tàng cả “Trí tuệ và Từ bi”, đó là bản chất của quang năng tự tánh của bất cứ một giáo chủ tâm linh nào, và là tánh thể của mọi chúng sanh sẽ thành tựu trong tương lai trên con đướng thăng hoa tâm linh.

Tóm lại, ánh sáng tâm linh là một nguồn năng lượng từ bi phủ trùm vũ trụ, khi hành giả lột thoát mọi vi tế vô minh, nghĩa là năng lượng siêu thức hiện diện khi năng lượng sinh thức thoát khỏi mọi hệ lụy tâm lý, vật lý. Năng lực vận chuyển của năng lượng siêu thức thoát khỏi mọi ràng buộc của vật chất một khi “khí động lực” tương tác. Một vật thể vận hành tùy thuộc tính tương tác của “khí động lực” nội biên và ngoại biên. Năng lượng siêu thức vượt thoát mọi tương tác vật lý. Đó là quang năng tự tánh vốn tiềm tàng trong mọi sinh vật. Tình thương yêu của thế tục mang tính luyến ái, vì thế đó là tình thương có điều kiện và có đối tượng, có hạn chế, sanh ra hậu quả phiền não vì thiếu trí tuệ; Tình thương yêu có trí tuệ của những hành giả, của bậc chân sư, của Thánh nhân.. phủ trùm năng lượng siêu thức, hòa đồng cùng thanh điển vũ trụ, vì vậy, không có đối tượng cá biệt, không có tuyến tính thì không có điều kiện, không sở hữu, không sanh phiền não, không trầm luân đọa lạc.

Ánh sáng của năng lượng sinh học, năng lượng sinh thức và năng lượng siêu thức. Ánh sáng phát sanh từ năng lượng sinh học là sự giao thoa, vận hành, ma sát của các nguyên tố, các sóng hạt điện tích âm-dương tỏa một nhiệt lượng mang ánh sáng đơn cực của các vật thể thực vật, khoáng vật còn chất sống. Ví dụ đá, nếu biến thành chất vôi, dễ tan vữa, gọi là đá chết; đá xanh, mỗi ngày một phát triển khối lượng rắn chắc, tức là đá sống. Cỏ cây cũng thế, khô chết thì không còn năng lượng sinh học, cây còn năng lượng sinh học là cây còn xanh tươi, từ thân đến lá đều tỏa một dạng sóng năng lượng và có khả năng tiếp nhận năng lượng ngoại biên để nuôi sống.

Năng lượng sinh thức là một nhiệt lượng tổng hợp bởi năng lượng sinh học, sự vận hành của các tế bào não bộ để phán đoán, tư duy, hướng thượng, hướng nội, tha hóa…của một linh thức, nó phát ra một lượng sáng quanh cơ thể gồm nhiều tầng, khác với năng lượng sinh học của thực vật và khoáng vật. Nó hàm chứa thông tin của nội thể và nhân quả của cá thể qua lớp ánh sáng đó. Nó có khả năng chủ động phát quang không giới hạn. Loại ánh sáng của năng lượng sinh thức là loại quang năng đa tạp và bất định.

Năng lượng siêu thức là loại ánh sáng thuần tịnh sau quá trình thanh lọc thăng hoa của năng lượng sinh thức. Mọi nhiễm ô hoàn toàn được chuyển hóa. Nói theo Duy Thức học thì Thức biến thành Trí, ngũ quan gọi là “Tiền trần thức” khi đã chứng thực ngã không-pháp không, không lệ thuộc vào “Biến kế sở chấp” của “Liễu biệt cảnh” thì gọi “Thành sở tác trí” biến thức thứ 6 biến thành “Diệu quan sát trí”- thức thứ bảy, Mạt na thức chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”- Thức thứ tám là A lại ya thức chuyển thành “Đại viên cảnh trí”. Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi đây là chuyển Sanh Diệt Môn thành Chơn Như Môn. Dưới ánh sáng Bát Nhã thì đây là giả tướng biến thành “Tánh không”. Theo Kim Cang Thừa thì bát thức quay về Ánh sáng căn bản, bardo, nền tảng của tâm thức. Cho dù danh xưng thé nào, cũng đều quy về tịnh hóa căn bản, biến tướng thành tánh.

Khi Thức biến thành Trí, Tướng biến thành Tánh, ngã không-pháp không…thì quang năng tự tánh phủ trùm vạn loại, năng lượng siêu thức trở thành một lực lượng bất khả tư nghì, đó là điểm đến của bất cứ pháp hành tâm linh nào. Thuật ngữ gọi là: “việc cần làm đã làm xong” của một bậc giải thoát.

Tự Tánh Di Đà, ánh sáng tuệ giác, Chơn như Phật tánh đều là dụng ngữ làm phương tiện để diễn đạt.

MINH MẪN

01/5/2012

TỰ TÁNH DI ĐÀ (10) Tiếp theo


Văn hóa tâm linh

Hiện thực hay phi thực?

Theo Đạo học, từ cõi hỗn mang của Vô cực, tụ khí sanh Thái cực, tiến đến lưỡng nghi, Tam tài, tứ tượng, bát quái…

Với Phật học, từ tính thể uyên nguyên móng khởi vọng niệm, mới có nhị nguyên đối đãi, sanh chấp trước ngã-pháp, trùng trùng duyên sanh pháp tướng. ( nhất thiết duy tâm tạo)

Theo một số nhà vũ trụ học hiểu rằng, Big Bang không phải nguồn gốc khởi nguyên vũ trụ mà chỉ là hiện tượng vũ trụ dãn nở, nghĩa là vũ trụ vốn sẵn có, Lúc cô đặc, nhiệt độ cực đỉnh mà không phát sinh được bất cứ nguyên tử nào, vì thế proton, electron chưa kết tinh thành nguyên tử, đến khi vũ trụ dãn nở dần, nhiệt độ hạ thấp cho phép các nguyên tử hình thành, sự sống xuất hiện. Vì vậy, theo trường phái nầy, phủ nhận Big Bang là khởi nguyên của vũ trụ, phủ nhận luôn đó là hiện tượng “nổ lớn”, để đi đến kết luận, chúng là hiện tượng dãn nở của vũ trụ. Vậy nguyên thỉ vũ trụ cô đặc, chưa có sự sống, chưa có nguyên tử hay bất cứ bản chất vật lý – hóa học nào dưới một nhiệt độ cực đại như vậy, thể trạng đó gọi là gì? Trong sự âm ỷ của cõi hỗn mang, hiện tượng giới chưa thể hình thành, bởi lẽ, hình thành vật thể phải có yếu tố vật lý, thế thì từ đâu có vũ trụ cô đặc để rồi dãn nở???

Theo học thuyết nhà Phật: - “không có cái gì từ không mà trở thành có, cũng chẳng có cái gì từ có mà trở thành không”, vì thế mà có từ: “ Chân không-diệu hữu”. Trong giấc mộng, mọi sự đều hiện hữu, sau giấc mộng mọi hiện hữu trở thành không; như vậy không thể nói không hay nói có, tùy hoàn cảnh và nhân duyên hiện hữu hay không hiện hữu, và sự hiện hữu cũng không do một đơn tố cá biệt tạo thành mà gồm nhiều nguyên tố kết hợp; Đã là nhiều nguyên tố thì không thể bảo proton, electron, nguyên tử, phân tử, hạ nguyên tử…quyết định một hữu thể, từ đó suy ra, tất cả đều giả hợp, giả tướng, giả định, bất định, nghĩa là vô thường. Một sáng kiến phát minh của các nhà khoa học theo trường phái String Theory từ Brian Greene tạo ra hình ảnh nổi, sống động như thật từ thế giới 2 chiều gọi là holograms, tạo được cảm giác như thật, các khoa học gia này đặt vấn đề “chuyện gì sẽ xẩy ra nếu ta là ảo ảnh?”. “Nhất thiết hữu vi pháp – như mộng huyễn bào ảnh – như lộ diệc như điển – ưng tác như thị quán” đó là công án cho mọi hành giả để nhập môn Tâm linh.

Phủ nhận một hiện hữu?

Từ xa xưa, cũng từng có những trường phái chấp nhận thực hữu ( thế gian thường còn) thì cũng có những tư tưởng chủ trương phi hữu (thế gian không có thật). Ngay trong giáo điển nhà Phật, có tông chủ trương “pháp hữu – nhân vô”, có tông chấp “pháp vô – nhân hữu”, cũng không thiếu vị quan niệm”pháp không-ngã không”. Cái chấp của ngoại giáo là loại chấp chặt (kiến chấp). Nhưng hành giả tâm linh Phật giáo dùng phương tiện chấp để vượt chấp. Cái giá của chấp đó chỉ có giá trị nhất thời tùy đối cơ mà ban pháp, cũng như sau 49 năm thuyết pháp, Phật bảo ta chưa hề nói lời nào, tức cho thính chúng không vướng vào những gì Thế tôn đã dạy. Phật từng im lặng trước những vấn nạn – vũ trụ nầy có hay không có, thường còn hay không thường còn, nếu có thì có từ bao giờ? Đó là những vấn nạn dễ đưa con người đến chỗ chấp trước. Vướng vào chấp rồi thì khó mà giải thoát. Vướng vào một hiện tượng giả hợp cho là thật thì vấn đề giải thoát khó đưa đến tuệ giác. Vì vậy, Phật giáo không phủ nhận sự hiện hữu mà cũng không chấp nhận sự hiện hữu là thật :” các pháp do duyên sanh- các pháp do duyên diệt”. Từng có những hành giả do quán nhân duyên mà chứng đắc. Vì thế Phật giáo là đạo trí tuệ, là con đường của tuệ giác.

Quán nhân duyên hay quán bất tịnh, quán bất cứ đề mục nào, công án nào đều là hội tụ năng lượng sinh thức kích hoạt tế bào thần kinh, tế bào võ não. Người chuyên sâu vào tâm linh, hướng thượng thường phát triển bán cầu não và mang màu sắc khác thường, từ đó, tuyến Tùng cũng phát triển tùy năng lực tu tập hành trì của hành giả. Một hành giả chứng đắc là một bậc giác ngộ hoặc đại giác ngộ, giác ngộ từng phần hoặc giác ngộ toàn phần, lúc bấy giờ tuyến tùng phát triển như một con mắt thứ ba, nhìn thấy được thực thẻ vũ trụ. Từ con người đến mọi vật thể đều là những dạng sóng kết tinh.

Khuynh hướng chung, cái xấu cái ác…nằm bên dưới, hướng thiện là đi từ dưới lên, từ thấp lên cao, từ cái xấu ác tiến lên cái đẹp cái thiện; vì vậy, tiến bộ có nghĩa tiến tới, tiến lên chứ không thể đi xuống mà gọi là tiến bộ. Cái ô trọc nằm dưới, cái thanh nhẹ bốc lên cao; trược khí u trệ làm chìm nhân cách trí tuệ. Thần thức thoát khỏi thể xác cũng rút nguồn sinh lực từ dưới chân lên đỉnh đầu. Hành giả luyện đơn cũng dùng năng lượng nung tinh hóa khí bốc lên tuyến tùng khai mở huệ nhãn. Yoga gọi nguồn sinh lực tiềm ẩn ở luân xa 1 là hỏa xà hay còn gọi là Kundalini; Năng lượng sinh học được năng lượng sinh thức nung nấu tỏa nhiệt lượng phía dưới đan điền giúp các hành giả chống cái rét tại vùng Hy Mã. Giữa tuyết lạnh bao phủ cảnh vật, cơ thể của các đạo sĩ yoga hay các sư Tây Tạng dùng nhiệt lượng nội thân để làm khô y áo và tan chảy tuyết bám trên thân. Cái nhiệt lượng đó được kiểm soát bởi năng lượng sinh thức, nó biến thành lửa tam muội khi hành giả làm chủ được sanh tử. Các thiền sư lưu xác không hư thối do lửa Tam muội thiêu hủy các vi khuẩn và làm khô chất nước trong cơ thể, vì vậy một số xác của các thiền sư vẫn tồn tại vài thế kỷ mà không hề mục rữa. Lửa Tam muội làm cô đặc tinh tủy thành dạng những viên kim cương bất hoại giữa các khớp xương gọi là xá lợi. Trong tiến trình chuyển hóa tâm thức, cơ năng sinh học của hành giả cũng được thanh tẩy để tương thích và đồng bộ tiến hóa tâm linh. Cho dù Thiền phái nhà Phật hay một số Thiền pháp khác không chú hướng đến nội thể, như các pháp Tiên giáo và Yoga, nhưng việc chuyển hóa sinh lý nội thể vẫn phải diễn ra; cho dù không nói đến các luân xa, không đề cập đến luồng hỏa xà, thì sự hiện hữu của chúng vẫn tồn tại và vận hành theo chiều hướng tương thích với tâm thức con người. Tuy hạ giới ( từ luân xa 3 trở xuống) là thành phần ô trược theo nghĩa thông tục, nhưng là nguyên tố cốt lõi để nuôi dưỡng toàn bộ phần thượng giới. Tinh khí được bảo tồn hoàn hảo thì trí tuệ được khai triển tốt. Tinh khí thần sung mãn thì sinh lực dồi dào, thân thể khỏe mạnh vô bịnh, chính vì thế, luân xa một có nhiệm vụ sinh Tinh, một người trác táng quá độ thì sinh mệnh bạc nhược, tinh thần u nhược. Như thế để hiếu rằng, cái xấu nhất, cái tệ nhất vẫn là điều kiện để có cái tốt nhất, cái ưu nhất. (rác phân bẩn nhất để có hoa quả tươi tốt nhất).Tinh khí ô trược nhưng là nguyên tố để dưỡng khí hóa thần đưa đến kim thân bất hoại của Tiên giáo, đưa đến tuệ giác của Phật giáo; đạt đến đỉnh cao của các trường phái tâm linh. Đó là những điều kiện tất yếu của các trường phái tâm linh.

Lưỡng nghi – luật đối lập

Luật đối đãi, dưới quan điểm triết học Mac-Lê :” trong một hợp thể luôn luôn có hai mặt mâu thuẩn đối lập lẫn nhau, giải quyết mâu thuẩn nầy thì mâu thuẩn khác phát sanh”

Đạo gia và Nho giáo cũng chấp nhận mọi vật mang lưỡng tính “âm-dương”, âm thạnh thì dương suy, dương thạnh thì âm phải suy; khó mà có sự cân bằng tuyệt đối.

Theo thường tục, hoặc là đúng hoặc là sai, hoặc có hoặc không chứ không thể hai cái có cùng lúc. Chính biên kiến như thế mà nhân sinh luôn nằm trong thế cực đoan đối lập, đưa đến khổ đau tự thân và làm khổ kẻ khác. Trong thề tương tranh, hoặc anh là bạn hoặc anh là thù.

Những quan điểm như thế đời sống luôn có đấu tranh, từ đó, học thuyết duy vật chủ trương đấu tranh giai cấp. Đã là đấu tranh thì không có giới hạn thời gian, quan niệm lúc nào cũng phải đấu tranh để có tiến bộ, để có tiến hóa. Đấu tranh giai đoạn và đấu tranh tổng thể. Đấu tranh là sự vận hành, kết nạp, loại trừ, sanh biến và đào thải theo quy luật tự nhiên để thích ứng với thời- không gian, nhưng con người nắm quy luật đó để chủ động sự vận hành theo chủ đích vạch ra. Từ đây, hai chữ đấu tranh đã bị lạm dụng lệch lạc đẩy cuộc sống vào thế tương tranh giành giựt sát phạt. “sống là tranh đấu” hay “thương trường là chiến trường”…đều là cách nhìn phiến diện và khiếm diện. Sự vận hành theo luật tự nhiên, mọi hợp thể tự chuyển biến, chuyển hóa để tương thích với thời gian và không gian nhất định. Một hành sự biết dung nhiếp với lòng từ bi thì cách giải quyết vấn đề trong một tập thể, trong một công ty sẽ êm đẹp nhẹ nhàng, hợp lý. Đây là luật đấu tranh theo nghĩa cân bằng, nhân đạo cùng có lợi mà không phải để thủ lợi cá biệt.

Phật giáo sở dĩ bảo tồn được tinh thần nhân ái vô biên là vì không mang một quan điểm thường tục như thế, người tu Phật không có kẻ thù, cho dù kẻ đó làm mình khổ đau, kẻ đó sát hại mình.. Một Lạt ma già, đào thoát khỏi Trung Quốc, trả lời câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma: Trong 20 năm tù, cái gì làm thầy sợ nhất? Ngài đáp: Con chỉ sợ mình thiếu lòng từ bi đối với kẻ hành hạ đánh đập mình, lúc tận cùng đau khổ chỉ sợ lòng sân con nổi lên đối với cai tù. Đó là cánh hoa đẹp và ngát hương trong rừng giáo lý của đạo Phật!

Hành giả đạo Phật hành xử với thế giới quanh mình cũng như đối diện với tập khí ô nhiễm của tự thân không có thái độ đối kháng, tiêu diệt hoặc trốn chạy; luôn sẵn sàng đối diện để đối thoại và chuyển hóa. Giải quyết một vấn đề không đặt ra đối lập mà là dung nhiếp. Không thấy có mình và có kẻ thù. Tinh thần chuyển hóa là tinh thần dung nhiếp độ lượng. Không có A mà cũng chẳng có B, vì hai trạng thái đó chỉ là một thực thể. Bàn tay có trái và phải, cuộc sống luôn có xấu và tốt, đúng và sai, không thể chọn cái nầy loại cái kia. Tất cả đồng thời tồn tại và có mặt với nhau cùng một lúc. Nói theo Kito giáo:- Chúa tạo ra Thiên thần thì Chúa cũng tạo ra Satan, Chúa tạo ra Adam Eva thì Chúa cũng tạo ra con rắn.

Như thế, đặt vấn đề hoặc là có anh thì không có tôi, hoặc có tốt thì không có xấu. Hoặc anh là bạn hoặc là thù…là cách đặt vấn đề không hợp lý giữa cuộc sống đầy phi lý. Chính cách đặt vấn đề như thế mà bao cuộc chiến đã xẩy ra, bao đau khổ đến với nhau và cùng đưa đến bế tắt cho nhau. Con đường thứ ba là con đường không bên nầy cũng chẳng phải bên kia, một con đường không bị trói cột bởi một bên mà phải đứng ngoài và trên tất cả mọi bên. Tinh thần “trung đạo” của Phật giáo không phải là con đường dĩ hòa vi quý, không phải là con đường ba phải hay con đường “hòa giải” mà là “hóa giải”.

Vì Mac-Lê chỉ thấy giải quyết xã hội hay mọi việc bằng phương cách đấu tranh, loại trừ dù biết rằng:”giải quyết mâu thuẩn nầy thì mâu thuẩn khác phát sanh” vẫn phải đấu tranh không ngừng mà không có con đường nào khác để thăng hoa không đổ máu. Cuộc sống từ ngàn xưa cho đến ngàn sau vẫn vậy, các tôn giáo lớn cũng không đưa ra được phương cách giải quyết ổn thỏa cho những mâu thuẩn trong cuộc sống; hầu hết đều chối bỏ, tìm phương cách cầu an trốn chạy hoặc đổ lỗi giữa những thực thể đang tồn tại: “Cọng lông sợi tóc rơi xuống không ngoài ý muốn của Thượng Đế”, chẳng lẽ Thượng đế đem lại đau khổ cho con người khi mà con người là con cái của Thượng Đế?. Quan niệm số phận cũng là cách trốn chạy trách nhiệm. Một tai nạn đau thương, một cái chết oan uổng được giải thích là do Chúa muốn giúp một linh hồn sớm về với Chúa, cũng là lối giải thích an ủi.

Mọi thực thể tồn tại không do một đơn tố cá biệt. “cái nầy có thì cái kia có – cái nầy sanh thì cái kia sanh- cái nầy diệt thì cái kia diệt” với tinh thần của nhà Phật như thế, thì “ Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian nầy cũng không”.Với sự tương quan sanh diệt, triết học huyền môn Hoa Nghiêm đã nói lên pháp giới Hoa tạng biểu thị sự tồn tại của vũ trụ nhân sinh gồm nhiều đặc tính:

1. Đồng Thời Cụ Túc Tương Ưng

2. Nhân Đà La Võng cảnh Giới

3. Bí Mật Ẩn Hiển Câu Thành

.4- Vi Tế Tương Dung An Lập

5. Thập Thế Cách Pháp Dị Thành

6. Chư Tạng Thuần Tạp Cụ Đức

7. Nhất Đa Tương Dung Bất Đồng

8. Chư Pháp Tương Tức Tại.

9. Duy Tâm Hồi Chuyển Thiện Thành

10. Thác Sự Hiến Pháp Sanh Giải.

Với cái nhìn dung nhiếp như thế, Phật giáo giúp hành giả không cực đoan, không cố chấp, không thiên lệch, Tinh thần tương tức tương nhập, làm kẻ khác đau khổ chính mình cũng phải đau khổ. Theo Khoa học, tác động vào một hạt nhân ở điểm A thì hạt nhân điểm B ở cách xa vẫn nhận được hiệu ứng tác động tương tự. Vì thế, một câu nói mang tính triết lý:” một con bướm vỗ cánh ở Tử Cấm Thành thì bên kia đại dương vẫn bị chấn động”. Một người con ở xa lâm nạn thì người mẹ cảm nhận được sự bồn chồn bất an. Trường năng lượng bao phủ vũ trụ mà các nhà chiêm tinh biết được mệnh số một người tác động bởi một vì sao nào đó trong tử vi. Sự tương tức tương nhập theo tinh thần Hoa Nghiêm là loại chập sóng dưới ánh sáng khoa học. “nhất đa tương dung” là tinh thần hòa nhập; vạn vật vũ trụ trên đầu sợi lông, có nghĩa trên đầu sợi lông có thể chứa vũ trụ vạn vật; ba trong một hay hai trong một chỉ là một khái niệm hạn chế của tinh thần một là tất cả, tất cả là một của nhà Phật. Ngày nay, khoa học chỉ cần lấy một tế bào trong thân cây, có thể nhân giống ra nhiều cây. Con người cũng được thí nghiệm sau vụ chú cừu Dolly ra đời bằng nhân bản vô tính. Hiện nay nhiều quốc gia xử dụng gen để nhân bản vô tính các loài động vật, thực vật, kể cả loài voi mamut tuyệt chủng cách đây 10.000 năm. Như thế, một té bào có chứa đủ thể chất, hình dạng, sự sống của một sinh vật, đó là nhất đa tương dung của nhà Phật. Khi nhà khoa học nhìn sự vật dưới dạng sóng hay hạt thì cũng chỉ là cái tiến bộ nhỏ bé so với năng lượng siêu thức của bậc vĩ nhân toàn giác. Với quan điểm của Hubble, vũ trụ co đặc với nhiệt năng toàn bộ thì nguyên tố lý hoá chưa có mặt, vậy đâu là sóng và hạt lúc bấy giờ? Cũng thế, khi tâm thức chưa khởi vọng niệm thì tập khí ở đâu? Trời đất âm dương chưa phân định trong cõi hổn mang thì làm gì có nhất bản tán vạn thù! Tánh tương cận tập tương viễn không chỉ nói đến nhân tánh mà còn hàm nghĩa sự vận hành của vũ trụ.

Lý sự viên dung

Hiểu được nguyên lý vận hành, nguyên lý đối đãi, nguyên lý tương tác, tương nhập, nguyên lý “vạn vật đồng nhất thể” thì “thế gian vốn vô sự”, không cần phải bon chen chật vật vất vả để tìm cái lợi cái danh, cái tốt cái đẹp nhất cho riêng mình. Không tạo yếu tố hoàn hảo thì không thể mong cầu sự hoàn hảo. Chuyện vui kể rằng, một bác cyclo ngủ trưa, nhìn thấy ông Thần Tài đến quở: “sao cậu cứ vứt tôi xuống mương? Bác cyclo đáp – ngày nào tôi cũng cúng cho ông cà phê thuốc lá mà ông không cho tôi trúng số! – vậy cậu hãy đi theo tôi, thế là ông Thần Tài đưa bác cyclo vào một ngân hàng to lớn, nói: - cậu đến tìm trong đống tiền vàng kia, cái nào có tên cậu thì lấy về. bác cyclo tìm mãi không thấy; ông Thần Tài cười bảo – không có tên cậu thì lấy đâu tôi cho cậu, mỗi người lúc sinh thời phải tạo tài khoản cho mình mới có hưởng chứ. – bác cyclo tỉnh mộng, nhặt ông Thần Tài lên lau chùi để vào khánh thờ tiếp”

Thế thì trong ta, có yếu tố di truyền của cha mẹ ông bà giòng họ nhiều đời của ta. Ta thiếu nhân cách là đưa giòng họ ta đến chỗ thiếu nhân cách. Trong ta cũng có yếu tố tình cảm, khổ đau, thất tình lục dục như bao nhiêu con người khác, vì cá nhân mưu cầu hạnh phúc để làm khổ kẻ khác là chính ta tạo nhân khổ đau cho ta, hạt giống đó sẽ trổ quả trong hiện tại hoặc trong tương lai. Luật nhân quả giải thích mọi hiện tượng sai biệt trong cuộc sống, không thể đổ thừa cho một đấng thiêng liêng nào. Ta gieo nhân trí tuệ thì con cháu giòng tộc ta thừa hưởng hạt giống trì tuệ đó. Cộng nghiệp là nguyên lý cộng hưởng của một tập thể, một cộng đồng. Cộng nghiệp hàm tàng nhiều biệt nghiệp; giải quyết được biệt nghiệp có thể tác hưởng đến cộng nghiệp

Tinh thần hóa giải: tính tương tác giao hưởng của một cộng đồng đòi hỏi giải quyết một sự kiện không thể chọn một bỏ một. Trong một khía cạnh nào đó giá trị đất đá không kém hơn giá trị vàng bạc tiền của. Giải quyết tệ nạn xã hội không thể triệt tiêu tệ nạn bằng quyền lực, bạo hành cực đoan. Quả bóng càng ném mạnh, lực phản hồi càng gia tăng, vì thế, hóa giải nguyên nhân tác sanh tệ nạn, hóa giải điều kiện tăng trưởng tệ nạn bằng sự cảm thông và lòng từ thật sự thì tệ nạn tự nó lụn tàn. Vì vậy, trấn áp bằng bạo lực, tệ nạn càng gia tăng dưới nhiều hình thức. Một cộng đồng tín ngưỡng hòa ái ổn định hơn một cộng đồng xã hội tuy xã hội có nhiều ràng buộc hơn bởi luật lệ định chế pháp lý và nhà giam. Tôn giáo không có vũ lực, không có quyền lực, không có quyền lợi vật chất, thế nhưng mọi thành viên trong cộng đồng đó tự nguyện tuân thủ mọi nề nếp của một tập thể, bởi lẽ, nhân cách và lòng từ ái của các vị lãnh đạo tinh thần đã tranh thủ được mọi tôn kính của họ. Cũng thế, giải quyết những tập khí , tạp niệm trong tâm thức của một hành giả trong quá trình tu tập, khó mà chối bỏ sự hiện hữu của chúng; không thể lấy đá đè cỏ, khó mà dùng một pháp nào đó để đối trị chúng nếu không trực diện để hóa giải. Một trẻ em hư hỏng được ôm ấp vỗ về dễ cải hóa hơn dùng bạo lực áp chế. Một hành giả cố tình chối bỏ, trốn chạy sự ồn ào của tâm thức, chúng càng hiện rõ hơn. Như luật đối đãi của cuộc sống, chúng đồng thời tồn tại, tâm thức cũng thế, tốt xấu, ồn ào, thanh tịnh cũng tồn tại cùng một chiến tuyến. Năng lực nội tâm đủ mạnh thì năng lượng sinh thức hỗ trợ cho tâm thức thoát khỏi tính đối đãi trong nội tâm, chúng sẽ chuyển hướng và đắc lực cho một hành trình tâm linh trở về nguyên bản.

Bản lai vô nhất vật: kinh nghiệm tâm linh của các Thánh nhân đều xác nhận như thế. Quang năng tự tánh là thể, vũ trụ vạn hữu là tướng, vọng niệm sanh khởi là tánh, hướng nội hóa giải là dụng. Mọi hiện tướng là sóng của đại dương tâm thức. Gió vô minh khởi động là tâm thức biến thành sóng nổi ba đào. Pháp tướng tông từng bảo: “nhất thiết duy tâm tạo”. Vũ trụ giãn nở và co thắt không có khởi đầu và kết thúc thì vạn thù khởi hiện từ biển tâm thức đâu là khởi điểm và chung cuộc? “Tam thế duy tâm-vạn pháp duy thức” thi đâu là đấng sáng tạo ra muôn loài?. Hình ảnh trong giấc mộng không có khởi đầu không có kết thúc, không có nguyên nhân cho đến khi tỉnh mộng mới biết đó là không thật. Với năng lượng siêu thức của bậc đại giác sau khi thoát khỏi đại mộng trần thế cũng vậy, nhìn lại bao kiếp đau thương đi qua và những kinh hãi của chúng sanh đang chìm đắm – như là ảo ảnh loáng thoáng trên sa mạc giữa nắng hè. Những đói khát ở cỏi âm, những nhu cầu vật chất tiện nghi trên cỏi trần đều được người quá cố nơi âm cảnh khát khao sở hữu, những ám ảnh lúc cận tử nghiệp mang theo đều luôn dày vò người quá cố… đó là một trạng thái tâm lý chưa được giải bỏ. Một linh thức được khai thị thì những sân hận, thèm muốn đều được hóa giải, thần thức sẽ siêu sanh trong sát na. Như vậy, dịa ngục, tiên cảnh, khổ đau, niết bàn chỉ là trạng thái tâm thức chứ không phải là cảnh giới. Holograms đã biểu thị được trạng huống tâm thức chúng sanh ở dạng ảo ảnh.

Từ đó, những giao động tâm thức, những hiện tướng trần tục chỉ là chiếc bóng mờ, ảo ảnh động niệm. Vô số pháp môn giúp hành giả giải trừ vọng niệm. Có những pháp đối cơ trực giải, có những pháp làm êm dịu vọng tâm, cũng có pháp nhìn thẳng vào hiện trạng tâm lý để hóa giải. Phần lớn các pháp quán của nhà Phật để thấy nhân và duyên là những yếu tố phi thực do tâm chấp chặt mà có – gọi là “tri vọng ”; cũng có pháp đồng hành cùng vọng niệm một cách êm ái nhẹ nhàng để chuyển hóa vọng niệm thành chánh niệm. Hầu hết đều là cách gỡ rối tơ vò do tâm chúng sanh vò như tơ rối. Do vậy mới có câu – tu ba a tăng kỳ kiếp mới đạt thành chánh quả. Nhưng chư tổ không chấp nhận gia hạn công nợ vô thời hạn như thế. Các ngài bảo – tu nhất kiếp ngộ nhất thời. Đốn ngộ! Cho dù vạn loại đa dạng, nhưng chỉ cần gỡ một manh mối thì tất cả sẽ hoàn không. Đó là cách hóa giải của bậc thượng căn thượng trí – đốn ngộ!

Chìa khóa vạn năng: Trên màn ảnh, vạn vật hoạt động như thật. Phim truyện diễn ra nhiều tình tiết rối rắm không thua xã hội thực tế. Holograms là phiên bản của tâm thức; Tất cả là một hoạt cảnh khổng lồ của kiếp nhân sinh vạn loại; thế nhưng, chỉ một cái ngắt điện, một cú cúp máy, mọi sự sẽ hoàn không! Cũng thế, tâm thức như giòng nước chảy, “Năng Biến Thức” bao hàm “nhân năng biến và quả năng biến”; Tam thập tụng viết: “Do giả thuyết Ngã-Pháp, hữu chủng chủng tướng chuyển, bỉ y thức sở biến, thử năng biến duy tam” xác định như thế không do tâm mà có là gì? Tuy thức thứ tám là kho tàng, nhưng nó chỉ là vô tội vạ, cái gì nó cũng chứa, chỉ có thức thứ bảy mới đánh giá đúng sai chấp chặt.: “Thị vô phú-vô ký, xúc đẳng diệc như thị, hằng chuyển như bộc lưu, Alahan vị xả”. Nó theo chúng ta trôi lăn qua sáu nẻo luân hồi như giòng nước chảy xiết, khi đến quả vị A La Hán mới chấm dứt tạp danh của hàm tàng thức. Tâm thức biến động không lường nên duy thức viết: “Thị chư thức chuyển biến, phân biệt, sở phân biệt, do thử bỉ giai vô, cố nhất thiết duy thức” , “Do nhất thiết chủng thức, như thị như thị biến, dĩ triển chuyển lực cố, bỉ bỉ phân biệt sanh”, “Do bỉ bỉ biến kế, biến kế chủng chủng vật, thử biến kế sở chấp, tự tánh vô sở hữu”… Pháp tướng tông giúp cho hành giả thấy được mọi sự vật chỉ đều ảo ảnh của tâm thức, nương từ cái nầy nẩy sanh cái nọ; Như một họa sĩ tự đam mê bức họa khỏa thân do chính mình vẽ ra. Tự mình chấp ngã-pháp như chỉêm bao tưởng thật nên đam mê, sợ hãi, khổ đau.

Trong rạp hát hoặc trên màn hình, khán giả khóc cười theo diễn xuất của diễn viên, người xem đặt mình trong bối cảnh đó để sanh hỷ-nộ-ái ố, khi tàn cuộc, thở phào nhẹ nhõm trở lại với cuộc sống thực. Cũng thế, hành giả thoát khỏi sự thống trị của huyển thức, làm chủ được năng lượng siêu thức, như thoát khỏi đại mộng trần gian. Vì thương chúng sanh, chư Phật, chư Bồ Tát, chư tổ, chư Thánh hiền minh triết chân sư đã giả lập những đồ án như “Hóa Thành dụ” trong kinh Pháp Hoa để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi đại mộng. Tùy căn cơ đối tượng mà có một pháp hành cá biệt. Có những pháp tuồng như mâu thuẩn nhau, nhưng tất cả chỉ là phương tiện trong một giai đoạn. Thế mà không it những vị bám chấp vào pháp hành, biến pháp môn thành chiếc tròng đeo trên cổ, thế là dẫm chân tại chỗ, không tiến được, đâm ra nãn chí hoặc biến tấu pháp hành sang một hình thức khác khi không nắm vững nguyên lý pháp môn. Không pháp môn nào là chân lý tuyệt đối, chân lý tuyệt đối khi hành giả vượt thoát khỏi các pháp môn để chính mình là Quang năng tự tánh, là Vô lượng Thọ- Vô lượng Quang, là ánh sáng của trí huệ đại giác.

Suốt đời hành giả lăn lộn khốn khổ cho một pháp hành, hành giả tham thoại đầu đánh đổi cả mạng sống cho một công áng; hành giả Tịnh độ miên mật cho câu niệm Phật; hành giả Mật thừa đi đứng nằm ngồi luôn ẩn hiện Thánh tự mật ngôn; hành giả Tiên Đạo luôn nung nấu kết Thánh thai, luyện Tam bửu, quy túc, đại châu thiên, tiểu châu thiên…Khí công luôn tập chú nguồn sinh khí nội thân…Trên đạo lộ miên viễn đó, không thiếu hành giả bỏ mạng sa trường gác kiếm quy tiên.

Những hành giả từng trồng nhiều phước báu và dày công tu tập nhiều kiếp, một giọt nước cuối cùng cũng làm tràn ly nước, một viên sỏi tạt vào gốc cây đủ làm cho hành giả hoát nhiên đại ngộ; chiếc lá rơi, cành hoa dại ven đường lay động trước gió Xuân…có thể giúp cho hành giả chứng đắc . Vì thế chư tổ từng nói: - thế gian pháp tức Phật Pháp. Ranh giới giữa mê và ngộ chỉ là đường tơ kẽ tóc. Quang năng tự tánh thường hằng quanh ta, năng lượng siêu thức vốn trong tầm tay, có thể đến với hành giả bất cứ lúc nào Nếu….

Phật giáo vốn nêu cao tự lực, thế nhưng không thể phủ bác tính tha lực của chư Phật, chư Bồ Tát, Bát Bộ Long Thiên. Đương thời tại thế, Đức Phật có một năng lực siêu nhiên đủ hóa giải vô minh cho thính chúng đương đại, vì thế các đại đệ tử đều chứng đắc tại thời. Một số chân sư cũng vậy, giúp đồ chúng tiến hóa rất nhanh trên con đường tâm linh. Sợ tín chúng ỷ lại vào tha lực mà giải đãi việc tu, nên đức Thế tôn phải nói: “các con phải tự thắp đuốc mà đi, con là hòn đảo tự thân, hãy lấy giới luật làm thầy mà không nương tựa bất cứ ai” Một hành giả tinh tấn tu tập, luôn bắt được nhịp sóng minh sư, tức là năng lượng vũ trụ, năng lượng ngoại biên hỗ trợ. Như được kết nối nguồn điện – hành giả - pháp môn - và quang năng tự tánh luôn tồn tại với hành giả, sự tiến hóa trên con đường tâm linh được hiển lộ qua lòng từ rộng mở - sức khỏe dồi dào – trí tuệ phát sanh và tâm an lạc hoan hỷ.

Mê và ngộ là một, ánh sáng và bóng tối là một. Trong một hang động tăm tối ngàn năm, chỉ cần ngọn đuốc, bóng đêm tự dưng tan biến. Trong căn nhà tối tăm, bật công tắc điện, ánh sáng hiện diện. Không thiếu những căn cơ thượng thừa, chỉ cần một câu nói thật giản dị của một minh sư hoặc hữu hình hoặc vô hình, tức khắc chuyển mê thành ngộ. Bởi vì, quang năng tự tánh vốn là nguồn sáng luôn tồn tại trong lớp vô minh chưa được lột bỏ. Năng lượng siêu thức là đây, vì thế, sau khi chứng ngộ dưới gốc Bồ Đề, Đức Thích Ca ngạc nhiên phán: “lạ thay, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ như nhau!”

MINH MẪN

24/5/2012

Hết

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

TRẢ LỜI NHỮNG CÂU HỎI CỦA CƯ SĨ HƯ LỤC THAY LỜI KẾT

Qua 10 bài Tự Tánh Di Đà, mục đích tìm thấy cái chung của các hệ phái tâm linh cũng như tính tương thích của khoa học với vũ trụ tâm linh.

Mỗi tôn giáo, mỗi hệ phái, mỗi pháp hành đều cố gắng đưa con người đến với sự giải thoát; Có những pháp môn không nói nhiều đến lý thuyết, đưa thẳng hành giả vào con đường tu tập; cũng có pháp môn vì trình độ xã hội đương thời mà không thể nói rõ mục đích, dùng phương tiện lễ nghi tôn giáo để quần chúng đến với Đạo; cũng có pháp:”giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, kiến tánh thành Phật”; Riêng Phật giáo, dùng nhiều phương tiện thiện xảo, chế tác nhiều pháp hành để tương thích với căn cơ sanh chúng. Tuy Thiền – Tịnh – Mật là ba pháp cơ bản của Phật giáo Bắc truyền, nhưng mỗi pháp môn còn sản sanh vô số pháp hành, nhất là Thiền.

Tuy kinh điển Bắc Tông phủ nhận dùng âm thanh sắc tướng làm mục đích cầu Đạo , nhưng có pháp vẫn dùng sắc tướng âm thanh làm phương tiện để tiến đến mục đích. Tịnh và Mật vẫn thông qua sắc tướng âm thanh mà thành tựu. Ánh quang minh tự tánh là bản thể vũ trụ, nhân sinh. Như phần giải thích ánh sáng tự tánh không phải là ánh sáng thế tục như sự phân tích trong bài số 9. Một loại ánh sáng bản nhiên của vạn loại từ khi chưa hình thành vật chất. Từ bản chất đó làm nền tảng cho vật thể phát sanh, như nước làm cơ bản cho sóng hiện khởi.

Các nhà tâm linh thủ đắc được năng lượng siêu thức bằng công năng tu tập, nắm được bản thể và nguyên lý của vũ trụ một cách trực tiếp, thoát ra khỏi sự chi phối bởi tâm thể - vật thể; khoa học thực nghiệm nguyên lý theo mô thức kiểm chứng lý – hóa, chưa thoát ra được giới hạn của vật chất, vật chất chỉ là những tần sóng giao động của loại ánh sáng vật lý, vì thế khoa học khó mà đạt đỉnh của bản thể tâm linh. Phật giáo nói riêng và các pháp môn tâm linh nói chung luôn là một chướng ngại cho khoa học chạm đến. Tâm linh là hướng đạo để khoa học tìm đến nhưng khoa học không thể kiểm chứng tính toàn triệt của tâm linh. Khoa học tâm linh và khoa học vật chất là con đường song hành, chỉ có một điểm chung trong cỏi vô định. Đôi khi trên con đường tiến bộ - khoa học có thể xác minh và chấp nhận một vài tính minh triết của Phật giáo mà hàng ngàn năm trước Đức Thích Ca đã tuyên thuyết. Sự minh triết mang tính khoa học mà khoa học không thể với tới tính minh triết nếu khoa học hiện diện cùng một thời gian của đức Phật. Nghĩa là gần 3000 năm sau khoa học mới hiểu được một khía cạnh rất nhỏ của Phật giáo lúc bấy giờ! Giá trị tương đối của khoa học đôi khi cũng khó giải quyết được nhu cầu hạnh phúc của cuộc sống khi mà lòng tham con người không có điểm kết thúc.

Tâm linh luôn là thế giới bí ẩn đối với khoa học, nhung khoa học không thể phủ nhận tính khả hữu của tâm linh. Khoa học đã như thế thì các triết gia bản năng khó thoát khỏi tính mâu thuẩn khi tầm nhìn và sự hiểu biết bị giới hạn trong xã hội con người. Chính vì thế mà một số triết lý mang tính giá trị nhất thời, đôi khi bó cột con nguời trong những triết lý phi nhân bản, bởi : “giải quyết mâu thuẩn nầy thì mâu thuẩn khac phát sanh”.

Khó có một thiên đường khi mà con người chưa dứt bỏ được lòng tham. Một khi thoát khỏi sự ràng buộc bởi thất tình lục dục, những kiết sử tập khí thì năng lượng siêu thức, tức ánh sáng tâm linh đang ở trong tầm tay, đó là thiên đường vĩnh cửu, một hạnh phúc vượt ngoài trần tục.

Sau đây là điều cư sĩ Hư Lục muốn biết:

1) Xin Anh nói rõ thêm về 3 chuyên biệt củaThân Phật (Pháp thân) trên con người vì Đức Phật không chỉ muốn nói riêng cho cõi Phật.

-2) Những tính chất chánh của Pháp tánh,Tâm và Tâm thức trên con người

-3) Làm thế nào để nhận rõ và làm chủ được Pháp tánh và Tâm, Tâm thức.

-4) Tôi thiển nghĩ,nếu Đức Ngũ tổ đem nội dung 10 bài Tự Tánh A Di Đà truyền cho Lục tổ thì chắc 1 đêm không thể nào hết và Lục tổ cũng chắp tay xin thưa với Ngũ tổ là “ Thưa Ngũ tổ con xin chịu thua,xin cho con học thêm đến năm 2012”.

Kính mong Anh Minh Mẫn dành chút ít thời gian để chúng tôi có thêm những điều bổ ích trên con đường tìm về chánh đạo .

Trân trọng

Cư sĩ hưlục

1/ Suốt 10 bài đi từ đơn giản đến phức tạp mang tính nghiên cứu, để nói đến sự tương thích giữa các pháp môn khi đạt đến một quang năng tự tánh, một bản thể vũ trụ hay còn gọi là pháp thân Như lai, đó là đích phải đến, nhưng thật ra không có đích để đến mà đích đến chỉ là sự nhận diện chuyển hóa nội tâm. Pháp thân là một thể trạng chứ không là cảnh giới. Vì thế, khi nói đến Tự Tánh Di Đà là nói đến Vô Lượng Quang của mỗi chúng ta. Đã là thể tánh, là bản lai diện mục , là chơn thể Như Lai thì không còn gì để nói tiếp. Sau đích khởi hành là đích đến, sau đích đến là vô ngôn. Chính vì thế mà bài viết không còn đề cập đến Pháp thân (pháp tánh) làm gì. Muốn nói đến pháp thân, phải nói luôn ba thân của Tự tánh chứ không chỉ dừng ở pháp thân, mà đã pháp thân rồi thì không còn Tâm để mà nói nữa. Phật có ba thân ( Phật không chỉ là Đức Thích Ca hay các vị Phật quá khứ) mà là thể tánh của một chúng sanh liễu ngộ. Pháp thân – báu thân và hóa thân ( ứng thân ) biểu hiện cho Thể - tướng và dụng. Pháp thân là năng lượng siêu thức, quang năng tự tánh, là chân như Phật tánh là bản thể vũ trụ. Báu thân còn gọi là thụ dụng thân, là hiện tướng của phước báu, y báu và chánh báu của chư Phật qua 32 tướng tốt, qua cỏi tịnh độ nơi Phật hiện trú. Hóa thân còn gọi là ứng thân là nhục thân của Phật và chư Bồ tát thị hiện. Chúng sanh còn mang thân phàm thì pháp thân còn ẩn tàng, báu thân chỉ là y báu và chánh báu của cỏi dục. Ứng thân là do nghiệp cảm mà thành. Do vậy, ba thân của Phật không thể áp dụng cho phàm nhân sở dục. Đó là ba đặc tánh của quả vị toàn giác.

2/ Đã là Pháp tánh thì ngoài vòng suy diễn, bất khả thuyết, bất khả tư nghì, tuyệt đối vô ngôn thì có gì gọi là tính chất như một tính chất của cõi nhị nguyên tương đối để mà luận bàn! Dùng trí phàm để xét đoán Pháp tánh thì có sai biệt theo nhận xét của phàm tục, như người mang kính màu nào thì thấy cảnh vật màu đó. Pháp là một hiện tượng chỉ cho hữu hình lẫn vô hình, một trạng thái hay một ý niệm. Chữ pháp trong Phật giáo hàm nghĩa rất rộng, tùy ngữ cảnh mà hiểu ý. Tánh là bản chất; như vậy Pháp tánh là bản chất của một thể trạng, một đặc tính, một hiện tượng…của phàm phu, nhưng trong lãnh vực xuất thế gian thì Pháp tánh đồng nghĩa Pháp thân, báu thân hóa thân của đấng giải thoát, ngoài ý niệm luận bàn.

3/ Tâm và tâm thức trong một con người, thế nhân lầm tưởng là linh hồn, thuộc về vọng niệm, còn trong vòng đối đãi phân biệt lại trùng trùng biện luận, “hằng chuyển như bộc lưu” khó mà nói hết. Dù là thiện tâm hay bất thiện tâm cũng đều là vọng tâm, chỉ là năng lượng sinh thức còn mang nhiều tập khí; Đó là đặc tính của tâm và tâm thức. Với tâm thức đó, nếu đủ duyên phước nhiều đời, được gặp chân sư hữu hình hay minh sư tự tánh hướng dẫn linh thức chuyển mê khai ngộ thì tâm thức đó sẽ chuyển thành Bạch tịnh thức đi đến năng lượng siêu thức dễ hơn một hành giả hành trì độc giác.

Một chúng sanh khó mà nhận rõ và làm chủ được pháp tánh, nếu hiểu pháp tánh là một chân như Phật tánh; Chỉ có hành giả thủ đắc được năng lượng siêu thức mới hiểu pháp tánh là gì. Và khi năng lượng siêu thức đến với một hành giả thì không thể nói làm chủ hay không làm chủ pháp tánh được. Vì Pháp tánh là Chân Như bản thể, là Như Lai tạng tánh, là năng lượng siêu thức, là quang năng tự tánh…không còn là một đối thể như một vật thể để gọi là làm chủ. Khi còn là phàm phu, chúng sanh có thể làm chủ tự thân hoặc bổn tâm trước những cám dỗ vật dục; vì làm chủ có nghĩa không để bị đánh mất. Đã là pháp tánh thì không còn gì để được và mất. Một khi bát thức chuyển thành Trí thì lúc ấy không thể đem chữ tâm ra luận giải.

4/ Ngũ tổ hay các bậc Thánh không còn vọng tưởng để luận bàn về Tự tánh Di Đà, nên những luận giải qua 10 bài chỉ có giá trị đối với hậu học trong phạm vi nghiên cứu. Chư Tổ là một đại dương quang năng, chỉ một gợn mây nhỏ được thổi tan thì tự tánh lộ diện. Chúng sanh cách chư Tổ, chư Phật, chư chân sư một bức màn vô minh dầy đặc, do vậy không thể đem chư tổ để so sánh với chúng sanh còn mang nặng kiến thức thế gian. Nếu chư Tổ còn cần đến Tự Tánh Di Đà thì Tổ đang là chúng sanh; nếu chúng sanh không cần đến Tự Tánh Di Đà thì chùng sanh đã là Tổ. Vì vậy không thể đem râu ông cắm cằm bà. Lục Tổ không cần biết Tự Tánh Di Đà là gì, vì bản thể thường hằng của Lục Tổ vốn đã là Di Đà Tự Tánh.

*

* *

Vì vậy, loạt bài Tự Tánh Di Đà chỉ là chuyên đề gợi ý cho những ai quan tâm đến pháp tu, đang cần tìm hiểu pháp hành tương thích với căn cơ của mình. Cốt yếu của loạt bài Tự Tánh Di Đà là tìm thấy cái chung của mọi trường phái tâm linh – đó là ánh sáng tuệ giác của các bậc viễn ly sanh tử. Cái năng lượng siêu thức và năng lượng vũ trụ có một điểm chung là từ lực lan tỏa và nuôi sống mọi sinh vật, đang tiềm ẩn trong vạn loại. Đem hý luận mà bàn chuyện tâm linh thì muôn kiếp vẫn không có chỗ tột cùng; khoanh vùng trong một phạm vi để nói được mục đích của Tự Tánh Di Đà là nguồn cội của vạn pháp thì không cần thiết đề cập đến Tướng và dụng của tâm pháp.

Chuyên đề Tự Tánh Di Đà cũng không phải là chiếc chìa khóa hay công tắc giúp hành giả hoát nhiên khai ngộ, cũng không phải là bản đồ hướng dẫn, chỉ giúp học giả biết được quang năng tự tánh là pháp tánh thường hằng trong mỗi chúng ta. Và, trong lúc trà dư tửu hậu của tuổi xế chiều:”mua vui cũng được một vài trống canh”

Cẩn bái

MINH MAN

27/5/2012