Hiệu đính: Luke Roberts và Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
PHẦN BA: PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ 21
Tôi
luôn nói với những ngưởi Tây Tạng cũng như người Trung Hoa và Nhật Bản,
và những người Ladakh và tất cả những Phật tử Himalaya - Tôi cũng đang
luôn nói với họ rằng bây giờ chúng ở trong thế kỷ 21, chúng ta phải là
những Phật tử của thế kỷ 21. Điều ấy có nghĩa là hãy có một kiến thức
toàn diện về nền giáo dục hiện đại, khoa học hiện đại, và tất cả những
thứ này, và cũng như việc sử dụng những phương tiện hiện đại, nhưng đồng
thời cũng phải có niềm tin vững vàng về những giáo huấn của Đức Phật về
lòng vị tha vô hạn, tâm bồ đề và quan điểm về sự liên hệ hổ tương,
duyên khởi. Thế thì quý vị có thể là một Phật tử chân thành và cũng
thuộc vào thế kỷ 21.
Mới
đây tôi ở Nabra [Ladakh], và dừng lại một con đường để dùng buổi trưa.
Một số người địa phương đến - một số người trong họ chúng tôi đã biết
nhau trong 20 hay 30 năm - và tôi đã cũng đã trò chuyện với họ. Tôi đã
nói với họ rằng chúng ta cần là những Phật tử của thế kỷ 21, và cũng như
là học vấn là rất, rất quan trọng. Rồi thì tôi hỏi họ, "Phật Giáo là
gì?" Và họ nói, " Buddham saranam gacchami. Dharmam saranam gacchami. Sangham saranam gacchami
" [Con quy y Phật, Pháp, và Tăng.] Đấy là Phật Giáo." Như vậy quá đơn
giản. Rồi thì tôi hỏi họ những gì là khác biệt giữa Đức Phật, chúa
Giê-su, nhà tiên tri Mô-ha-mét? Họ nói, "Không có gì khác biệt." Như vậy
là không đúng. Như được xem là những bậc thầy vĩ đại của nhân loại, các
ngài là giống nhau. Nhưng cho đến khi mà những giáo huấn của các ngài
được quan tâm đến, có một sự khác biệt lớn lao. Phật Giáo là vô thần[1].
Tôi hỏi quý vị một ngày nào đó Phật Giáo có là một hình thức của chủ
nghĩa vô thần hay không, và quý vị nói rằng chủ nghĩa vô thần có nghĩa
là "chống lại Thượng đế." Phật Giáo không chống lại Thượng đế - Phật
Giáo tôn trọng tất cả các tôn giáo - nhưng Phật Giáo là vô thần trong ý
nghĩa rằng không có một đấng tạo hóa, không có khái niệm về một đấng tạo
hóa. Cho nên về phía giáo lý, về phía triết lý, có những sự khác biệt
giữa Phật Giáo và những tôn giáo khác này, nhưng những người dân làng
này cảm thấy tất cả [các giáo chủ và tôn giáo] là giống nhau.
Điều
này nhắc tôi: Một lần nọ ở Tây Tạng, một lạt ma thuyết giảng, và thính
chúng hỏi vị ấy, "Ba Ngôi Tôn Quý ở đâu? Đức Phật ở chốn nào?" Và vị ấy
im lặng trong một lú, và rồi thì chỉ lên bầu trời và nói, "Ô, Đức Phật ở
trong một cung điện pha lê ở trong không trung, vây quanh bởi những hào
quang rực rở." Như vậy là không đúng. Đức Phật xét cho cùng ở trong tâm
thức của chúng ta - Phật tánh.
Vì
thế cho nên tôi muốn chia sẻ với quý vị rằng chúng ta phải đi đến căn
bản thật sự của Phật Pháp [giáo huấn của Đức Phật]. Giống như khi quý vị
có thức ăn chính - cơm hay bột, hay trong trường hợp của Tây Tạng là
tsampa - và rồi thì một ít rau cải. Những rau cải thật tươi ngon; chúng
là rất tốt. Nhưng nếu không có thức ăn chính, chỉ có một ít rau cải - ăn
một vài dĩa rau cải - không đủ. Và điều ấy là quan trọng để thấu hiểu.
Thân Chính Và Những Chi Nhánh Của Truyền Thống
Tôi
thường diễn tả Phật Giáo Tây Tạng như hiện thân thuần khiết của truyền
thống Na Lan Đà [trong ý nghĩa rằng nó thừa kế những giáo huấn của 17
đại đạo sư của Đại học tu viện Ấn Độ Na Lan Đà cổ truyền.] Đấy là điều
căn bản. tôi cũng giải thích đến những nhóm Phật tử, kể cả những người ở
Ladakh, về sự tương tự của thân cây và những chi nhánh khác nhau.
Truyền thống Na Lan Đà giống như thân cây. Rồi thì những truyền thống
của Tây Tạng như Nyingma, Sakya, Kaguy, Gelug, Kadam, Jonang - tất cả
giống như những chi nhánh.
Mới
đây tôi ở Trung tâm Dorzong, một trung tâm của Drugpa Kagyu. Những
rinpoche ở đấy thường có những chương trình học tập rất hoàn hảo, không
chỉ cho những tu sĩ của họ mà cả đến những học nhân cư sĩ Tây Tạng. Vì
thế tôi đã giải thích cho họ ở đấy về thân chính và những chi nhánh và
vấn đề, như sự thống nhất được quan tâm, Sakya, Nyingma, Kagyu, Gelug,
Kadam, và Jonang tất cả đều đi về gốc rể. Không có sự khác biệt. Nhưng
khi nhấn mạnh quá nhiều vào những cành lá, thế thì những sự khác biệt
nho nhỏ ở đây ở kia biểu hiện quá nhiều. Những chi nhánh này, là quan
trọng; một số điều đặc biệt là ở đấy, như Đại Toàn Thiện [dzogchen ] và Đại Thủ Ấn [mahamudra] và Sakya Tùng quả hướng nhân đạo [lamdray] và Hợp Nhất Tịnh Quang và Tánh không [seltong-zungjug].
Mỗi thứ là tốt đẹp, nhưng tất cả đều liên hệ với thân chính. Thật là
tốt đẹp khi những chức năng đặc biệt này đi đến đỉnh tri thức trọn vẹn
của giáo huấn căn bản của thân chính. Thế là hoàn toàn. Nhưng nếu quý vị
quên những giáo huấn căn bản và chỉ nắm giữ những chi nhánh này, như
vậy là không hoàn toàn, và cũng có hiểm họa của việc diễn giải sai lầm.
Cho
nên như vậy là thân chính, những đạo sư Na Lan Đà. Tôi thường diễn tả
17 đạo sư Na Lan Đà. Những luận điển của các ngài là những sự diễn giải
về căn bản của Phật Giáo. Những thứ khác là các chi nhánh.
Tầm Quan Trọng Của Sự Nghi Ngờ
Theo
thân chính - những giáo huấn Phật Giáo căn bản - sự nghi ngờ là rất cần
yếu. Bây giờ, tôi nghĩ và hy vọng tôi là một Phật tử, nhưng tôi không
còn bất cứ sự tin tưởng nào về Núi Tu Di. Hai chân lý và Bốn Chân Lý Cao
Quý là những giải thích thật sự về vũ trụ, cho những giải thiên hà và
Big Bang. Đấy là giáo huấn thật sự của Đức Phật và Phật Giáo.
Sự
trình bày của những kinh luận cổ điển được cấu trúc chung quanh 4 sự
đặt niềm tin vững vàng [tứ y: không đặt niềm tin vào con người, hãy đặt
nó vào sự giáo huấn; đừng đặt niềm tin vào lời nói của vị ấy, hãy đặt
niềm tin vào ý nghĩa của chúng;đừng đặt niềm tin vào ý nghĩa nông cạn
của chúng, hãy đặt niềm tin vào ý nghĩa tột cùng của nó, (để thấu hiểu
chúng) đừng đặt niềm tin vào thức phân biệt của quý vị, hãy đặt nó vào
sự tỉnh giác sâu xa của quý vị] Những kinh luận cổ điển đề cập rằng
những người xem thật sự của những sách vở này, những độc giả nghiêm túc
của chúng, phải có một thái độ nghi ngờ. Người ta cần khảo sát cho dù
nội dung của quyển sách là điều gì đó có liên hệ đến đời sống của họ hay
không. Chúng có lợi ích tạm thời là gì? Và về lâu dài, nó có lợi ích
gì? Độc giả nghiêm túc phải nhận thức rõ ràng về sự liên hệ của kinh
luận trước khi tuân theo lời dạy của nó.
Đấy
chính xác là sự tiếp cận của Na Lan Đà. Mọi người trong thính chúng
phải nghi ngờ. Nghi ngờ đem đến câu hỏi; câu hỏi đem đến sự khảo sát; sự
khảo sát đem đến những câu trả lời. Đấy là sự tiếp cận hợp lý duy nhất.
Phủ Nhận Những Niềm Tin Về Núi Tu Di Và Vị Trí Của Những Thế Giới Địa Ngục
Khi
tôi ở Sar Ashram 40 năm trước, trong một trường hợp tôi đã đề cập rằng,
"Đức Phật đã không đến hành tinh này để vẽ một bản đồ. Vì thế không
phải là vấn đề của Phật Giáo cho dù có Núi Tu Di hay không. Không hề
gì." Giống như thế. Cho nên chúng ta tự do phủ nhận sự giải thích của
Thế Thân [trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, kho tàng những đề tài đặc biệt
của tri thức] Chúng ta phải thực hiện một sự phân biệt giữa ý nghĩa
thông thường và biểu tượng. Trong Mật pháp Thời Luân, nó cũng đề cập
rằng Núi Tu Di và tất cả những thứ này tượng trưng thân thể con người,
từ đầu đến bàn chân. Có nhiều sự giải thích mật tông tương tự. Cho nên
những biểu tượng này có một ý nghĩa nào đó, một mục tiêu nào đó.
Và
về những địa ngục, khái niệm về địa ngục: tôi thấy rất khó để chấp nhận
những gì A tỳ Đạt ma Câu Xá luận của Thế Thân để cập: rằng 20 do tuần
[yojana] dưới Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) là 8 thế giới địa ngục khác
nhau. Do tuần dài hơn một cây số. Cho nên nếu quý vị đi sâu hơn và sâu
hơn, rồi thì chắc chắn rằng các địa ngục tồn tại ở Mỹ! Nhưng thật hổ
thẹn nếu nói rằng Mỹ là một địa ngục. Cho nên những thứ này thật không
khó để bác bỏ.
Có
ba cách để thấu hiểu mọi việc: qua nhận thức cảm giác, qua kết luận căn
cứ trên lý trí. Và qua việc dựa trên thẩm quyền của kinh điển. Điều ấy
có nghĩa là [trong trường hợp của kinh điển] dựa vào người thứ ba. Tôi
thường nói với mọi người rằng giống như ngày sinh của chúng ta: Chúng ta
không có cách nào để khảo sát ngày sinh thật sự của chúng ta thế nào.
Chúng ta phải dựa vào người thứ ba; thí dụ, mẹ của chúng ta. Và nhằm để
chấp nhận sự diễn giải của người thứ ba, trước nhất chúng ta phải chứng
tỏ người ấy là trung thực, đáng tin cậy, và có một tâm thức bình
thường. Cho nên chúng ta cần thử nghiệm một lãnh vực khác mà người thứ
ba đã đề cập, thứ nào đó mà chúng ta có thể khảo sát. Nếu chúng ta khảo
sát và thấy rằng nó là đúng, chúng ta biết người này là chân thật và
không có lý do gì để dối trá hay hay những thứ giả vờ như vậy. Thế thì
chúng ta có thể chấp nhận những tuyên bố khác của người ấy.
Cho
nên giống như thế, có thể có những hiện tượng huyền bí ngoài trình độ
thấu hiểu của chúng ta và chúng ta không có kinh nghiệm về vấn đề ấy.
Nếu có những người nói là họ thật sự trải nghiệm những hiện tượng này,
chúng ta có thể kiểm chứng những tác phẩm của họ và để thấy chúng đáng
tin cậy hay không liên hệ đến những điểm khác. Nếu như thế, chúng ta có
thể dựa vào sự giải thích của người thứ ba này về những thứ vượt ngoài
tầm lý trí của chúng ta. Chúng ta phải tiếp nhận loại tiếp cận thế này
với một số những sự giải thích trong kinh điển Phật Giáo.
Bây
giờ theo lượng [pramana] - lý luận và nhận thức học - [có những loại
chứng cứ và phủ nhận] Một loại phủ nhận liên hệ đến một hiện tượng phải
được quán sát, nhưng không thể]. Thí dụ, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận,
mặt trời và mặt trăng có cùng khoảng cách từ Trái Đất, và khi chúng xoay
quanh Núi Tu Di, thành ra ngày và đêm. Dường như chúng ta thật sự kinh
nghiệm bóng của Núi Tu Di [vào buổi tối], nhưng nếu chúng ta trải nghiệm
bóng của nó, thế thì chúng ta cũng phải có thể thấy ngọn núi. Vào thời
xưa ở Ấn Độ, Thế Thân không thể kiểm chứng để thấy có một ngọn Núi Tu
Di hay không. Nhưng bây giờ chúng ta có phi thuyền không gian, hay tàu
vũ trụ, vì thế chúng ta phải có thể thấy nó. Nếu Núi Tu Di hiện hữu, thì
chúng ta phải thấy nó. Nhưng vì chúng ta không thể thấy nó, cho nên
chúng ta có thể thấy rằng nó không tồn tại.
Thế
nên có những phủ nhận liên hệ đến việc không thể quán sát hiện tượng mà
quý vị đang cố gắng để chứng minh hay chỗ mà quý vị quán chiếu đối lập
với nó. Trần Na và Pháp Xứng đề cập rõ ràng về những thứ này trong
những luận điển của họ. Vì vậy việc sử dụng chính nhận thức luận Phật
Giáo, sự không hiện hữu của Núi Tu Di được chứng minh một cách dễ dàng.
Không có vấn đề gì trong việc phủ nhận những thứ này.
Một
lần nọ ở Nam Ấn, tại một cuộc tập hợp lớn của các tăng sĩ - tôi nghĩ
là hơn 10 nghìn tăng sĩ (tất cả những tăng sĩ của các tu viện chính tập
hợp ở đấy)- Tôi đã đề cập quan điểm của tôi về tầm quan trọng của khoa
học và rằng chúng ta phải học hỏi khoa học, khoa học hiện đại. Và rồi
tôi đã đề cập rằng tôi không tin tưởng về Núi Tu Di và tất cả những thứ
này. Sau đó tôi đã nói, "Ô, nhưng đừng xem tôi như một người theo chủ
thuyết hư vô." Ngày đầu tiên, sự giảng dạy của tôi nhiều hơn trong mối
liên hệ giữa khoa học Phật Giáo và khoa học phương Tây. Rồi thì ngày thứ
hai tôi đã giải thích về giáo lý nhà Phật. Thế nên, ngày đầu tiên tôi
đã có tính chất đổi mới trong sự giảng dạy của tôi, và ngày thứ hai là
giáo lý truyền thống hơn. Do thế, không có rắc rối gì trong việc phủ
nhận những thứ này.
Những Khả Năng Nguy Hiểm Của Sự Sùng Mộ Đạo Sư
Bây
giờ nếu chúng ta đi vào gốc rể, không có nhấn mạnh về tầm quan trọng
của sự sùng mộ. Nhưng nếu đi vào những chi nhánh, giống như đại thủ ấn
hay đại toàn thiện, thế thì bổn tôn du già (guru-yoga) là rất quan
trọng. Điều ấy thật sự đầu độc một số những lạt ma này, và sau đó những
trung tâm của họ có thể trở thành những giáo phái. Tại sao? Do bởi sự
lãng quên những giáo lý căn bản của Đạo Phật và chỉ tập trung vào những
thứ nhánh nhóc.
Giống
như Naropa, bổn sư là Marpa, vị thầy chính của dòng truyền thừa Kagyu.
Naropa là một trong những học giả lớn của Đại học Na Lan Đà. Rồi thì sau
này ngài thực tập Mật tông nhìn giống như một hành khất hay một thành
tựu giả. Naropa đúng là có khả năng thực tập những thứ này bởi vì ngài
đã học hỏi về tất cả những luận điển quan trọng có trong truyền thống Na
Lan Đà. Nhưng bây giờ một số hành giả ở phương Tây - cũng như trong
người Tây Tạng, trong những người Ladakh cũng thế - không biết đến nền
tảng của Phật Pháp, chỉ làm bất cứ điều gì đạo sư của họ nói mà thôi.
Ngay cả nếu đạo sư của họ nói, "Tây là đông," học nhân tin: "Ô, đấy là
phương đông." Như vậy là chống lại truyền thống Na Lan Đà.
Dĩ
nhiên, một người thật sự đầy đủ phẩm chất trong tri thức căn bản Phật
Giáo là khác với một lạt ma ngồi trên tòa cao - giống như tôi ngồi trên
một tòa cao - nhưng nhưng kinh nghiệm của người ấy thật rất giới hạn.
Bây giờ nhìn vào giống như tôi hơi có chút ganh tỵ với những lạt ma ấy!
Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, tôi nghĩ rằng họ không thích đáng, tri
thức đầy đủ, và họ chỉ nhấn mạnh đến chi nhánh của họ mà thôi. Như vậy
đã tạo nên nhiều sự thấu hiểu sai lầm. Điều ấy là quan trọng để thấu
hiểu.
Phật Giáo Thích ứng Với Phương Tây
Ý
tưởng về Phật Giáo phương Tây là hoàn toàn đúng, hoàn toàn đúng. Quý vị
biết rằng Phật Giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Rồi khi đến những vùng đất
khác nhau, nó trộn lẫn với những truyền thống văn hóa địa phương và trở
thành Phật Giáo Tây Tạng, Phật Giáo Trung Hoa, Phật Giáo Nhật Bản: như
thế.
Một số nhạc
cụ mà những tu viện Tây Tạng sử dụng không đến từ truyền thống Na La Đà,
mà đến từ phía Trung Hoa. Có một nhạc cụ gọi là gyaling, nghĩa là "sáo
Trung Hoa". Tức cười, có phải không? Thứ ấy không là một bộ phận của
Phật Giáo; đấy chỉ là một khía cạnh của văn hóa. Tương tự như ở cộng
đồng Phật Giáo phương Tây, quý vị có thể sử dụng những nhạc cụ hiện đại
và cầu nguyện trong giai điệu của âm nhạc phương Tây. Tốt thôi. Không hề
gì.
Nhưng cho
đến khi mà những ý tưởng của Bốn Chân Lý Cao Quý và lòng vị tha và tất
cả những thứ này được quan tâm: Quý vị thấy, Phật Giáo đối phó với những
cảm xúc, và cảm xúc ngày nay của loài người là giống với những cảm xúc
của con người 2600 năm trước. Cảm xúc của nhân loại đã giống như nhau
tôi nghĩ là trong 3 hay 4 nghìn năm qua và sẽ vẫn như vậy trong vài
nghìn năm tới nữa. Sau 10 nghìn hay 20 nghìn năm, một cấu trúc mới nào
đó của não bộ sẽ tiến hóa, và rồi thì có thể mọi thứ sẽ hơi khác biệt
một chút. Nhưng nói thế là quá xa phía trước. Không cần phải điều chỉnh
các giáo huấn cho thế hệ của chúng ta, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba -
đó là cùng não bộ và cùng những cảm xúc của con người. Quý vị có thể hỏi
những nhà khoa học về điều này, những nhà chuyên môn về não bộ, và họ
sẽ nói, "Ô, sẽ là cùng não bộ cho tối thiểu vài thế kỷ tới. Không có gì
thay đổi." Giống như thế. Cho nên giáo lý căn bản của Đạo Phật phải là
đáng tin cậy.
Một
lần ở Pháp, tôi đã đề cập với những người Tân Thời Đại (New Age) - quý
vị lấy điều gì đó nơi đây, điều gì đó nơi kia, điều gì đó nơi kia, và
kết quả cuối cùng là không đáng tin cậy. Như vậy là không tốt. Tôi nghĩ
chúng ta phải gìn giữ truyền thống Na La Đà chân thật. Đấy là quan
trọng. Nhưng những khía cạnh văn hóa có thể thay đổi.
Vấn Nạn Của Việc Hiểu Sai Những Giáo Lý Phát Triển
Bây
giờ tôi nghĩ có lẽ tôi có một phê phán xây dựng nào đó. Ở phương Tây,
tôi đã từng gặp một số người chỉ biết một chút ít, nhưng lại nghĩ: "Ô,
tôi có đầy đủ tri thức!" Sau đó, qua tri thức giới hạn thấu hiểu sai lạc
của họ, họ lại hình thành sự giảng dạy. Dĩ nhiên, trong những người Tây
Tạng cũng có việc này, đặc biệt những người không học hỏi nghiên cứu
những luận điển triết lý lớn này.
Có
một thí dụ mà tôi nghĩ tôi có thể chia sẻ với quý vị. Tôi đã thăm San
Francisco ngay sau một vụ động đất lớn. Tài xế của tôi vào lúc ấy không
phải từ Bộ Ngoại Giao. Đấy là một chiếc taxi tư nhân, và tài xế là một
thành viên của một trung tâm Phật Pháp, người thực hành Đại Toàn Thiện.
Tôi ngẫu nhiên hỏi ông ấy, "Khi trận động đất xảy ra, ông đã nghĩ gì?"
Và người ấy nói, "Ô, đấy là một cơ hội lớn để thực hành Đại Toàn Thiện,
bởi vì đấy là một cơn sốc, một cơn sốc lớn."
Nhưng
ở trong tình trạng của cơn sốc không có suy nghĩ nào - nếu ông ấy cảm
thấy đấy là một sự thực hành Đại Toàn Thiện chân thành, thế thì tôi nghĩ
thật quá dễ dàng: bị rung động và quý vị có thể thực hành Đại Toàn
Thiện! Đại Toàn Thiện không dễ dàng như thế. Chính tôi cũng từng thực
hành Đại Toàn Thiện. Ô, rất khó, rất khó khăn.
Có
châm ngôn rằng: "Một chút tri thức là một thứ nguy hiểm." Có một chút
sự thật ở đấy, cho nên hãy cẩn thận. Hãy học tập. Và đừng dựa vào sự
hướng dẫn của một lạt ma; hãy dựa vào những sách vở đáng tin cậy này.
Đấy là quan trọng. Đừng dựa vào lời nói của tôi. Hãy học hỏi những luận
điển đáng tin cậy này của Long Thọ, Thánh Thiên, tất cả những đạo sư
Phật Giáo này. Những giáo lý này đã từng được thể nghiệm qua hàng thế kỷ
bởi những học giả ấy. Tôn giả Vô Trước đã trước tác và tranh luận với
một số triết gia khác. Thí dụ, một tác phẩm nào đó của Long Thọ được
bình phẩm một ít bởi tôn giả Vô Trước; và rồi thì một đạo sư khác phân
tích và bình phẩm những tác phẩm của tôn giả Vô Trước. Những luận điển
lớn này được hình thành bởi những đạo sư này được nghiên cứu và kiểm tra
qua hàng thế kỷ, vì thế chúng thật sự đáng tin cậy.
Và
rồi thì có doha, những bài hát tâm linh [những bài hát tâm linh tự phát
của những vị chứng đạo sư]. Những hành giả độc đáo này, như Naropa hay
Tilopa, học hỏi hoàn hảo truyền thống Na Lan Đà. Rồi thì, qua thực hành,
các ngài từ bỏ hoàn toàn đời sống trần tục, kể của đời sống tu viện, và
sống hoàn toàn như những khất sĩ hay hành giả du già. Và rồi thì qua
những kinh nghiệm của chính mình, các ngài đã sáng tác những thi kệ này
tương ứng với sự thấu hiểu sâu xa và từ ngữ giản dị của các ngài. Thế
nên có một hiểm họa về sự thấu hiểu sai lạc những thứ này nếu một người
chỉ biết truyền thống căn bản [và không biết xa hơn].
Truyền
thống Nyingma diễn tả một hệ thống của 9 thừa [9 cổ xe]. Ba thừa đầu -
thanh văn thừa, duyên giác thừa, và Bồ tát thừa [ba kinh thừa] - căn cứ
chỉ trên sự thấu hiểu về Bốn Chân Lý Cao Quý. Và rồi thì ba thừa tiếp
theo - kriya, upa, và yoga [những thừa liên hệ đến ba lớp tantra ngoại] -
nhấn mạnh đến sự thanh tịnh. Và rồi thì ba thừa cuối cùng - maha, anu,
và ati [ba thừa liên hệ đến ba lớp tantra nội] - nhấn mạnh những sự thực
tập cho việc kiểm soát tâm thức.
Ý
nghĩa thật sự đằng sau ba thừa cuối cùng này là để cho phép cảm xúc
phát triển, và rồi thì, thay vì trở thành bị nô lệ bởi cảm xúc ấy, quý
tâm thức chính của quý vị có thể nhìn vào bản chất cứu kính của cảm xúc.
Đấy là tịnh quang. Cho nên trong ba thừa cuối cùng này, những cảm xúc
tàn phá không phải được xem như điều gì đó mà quý vị phải vượt thắng,
nhưng quý vị nhìn vào bản chất của những cảm xúc tàn phá này để thấy
thực tại. Cho nên đây là trên căn bản của kinh nghiệm sâu xa, và nó là
một loại thực hành rất khó khăn đối với những giai tầng trước. Vì vậy,
một số giáo huấn từ những hành giả ở trình độ cao cấp những người dã đi
qua những giai tầng này là khó khăn để thực hành trong trong trình độ
của chúng ta. 9 giai tầng này không dễ dàng.
Chúng Ta Nên Hành Động Nhân Danh Loài Người Hay Nhân Danh Phật Giáo?
Mới
đây tôi đã ở Patna, tiểu bang Bihar. Người ta thực hiện một công trình
xây dựng to lớn, một tịnh xá Phật Giáo, một ngôi chùa Phật Giáo. Họ
thỉnh cầu có một số xá lợi từ những quốc gia Phật Giáo khác nhau, và tôi
cũng đã cúng dường cho họ một số xá lợi. Tại buổi lễ ấy, vị thủ hiến
phát biểu rằng qua sự gia hộ của Đức Phật, tiểu bang Bihar sẽ phát triển
một cách nhanh chóng. Sau đó tôi nói với ông - vì tôi biết ông, và ông
là một người rất thân - "Nếu sự gia hộ của Đức Phật có thể giúp để phát
triển tiểu bang Bihar, nó đã phát triển lâu rồi, bởi vì sự gia hộ của
Đức Phật đã sẳn rồi. Cho đến khi một vị thủ hiến có hiệu lực đến, sự
phát triển sẽ không diễn ra. Sự gia hộ của Đức Phật phải qua hành động
của con người."
Cầu
nguyện không thật sự tác động, mặc dù lời cầu nguyện là điều gì đấy
rất dễ thương nhưng hành động lại là điều gì khác biệt, có phải không?
Kết quả thật sự đòi hỏi hành động. Đó là tại sao Phật Giáo nói, "Nghiệp,
nghiệp." Nghiệp hàm ý "hành động". Do vậy chúng ta phải hoạt động.
Hành
động phải được thực hiện với niềm tin: "Tôi là một trong gần 7 tỉ
người. Tôi có trách nhiệm để quan tâm nghiêm túc về sự cát tường của gần
7 tỉ người." Giống như thế. Khi chúng ta tiến hành cầu nguyện, chúng ta
luôn nói nó là cho tất cả chúng sanh. Không người Phật tử nào phát lời
cầu nguyện chỉ cho người Tây Tạng. Không bao giờ cầu nguyện cách ấy. Hay
chỉ cho thế giới này - có vô số thế giới, vô lượng chúng sanh. Và rồi
thì chúng ta phải thêm vào điều ấy; bằng khác đi sự cầu nguyện của chúng
ta trở thành đạo đức giả. Sự cầu nguyện trên căn bản của một cái
''chúng tôi'' lớn, nhưng với nghiệp thật sự của chúng ta - ''những hành
động'' thật sự của chúng ta - được căn cứ trên một cảm giác mạnh mẽ của
''chúng ta'' và ''họ'' là đạo đức giả.
Bây
giờ, hành động của chúng ta phải nên được hoàn tất nhân danh con người
hay nhân danh Phật Giáo? Nếu quý vị cố gắng để thúc đẩy những giá trị
căn bản của loài người trên căn bản của giáo lý Đạo Phật,thế thì nó trở
thành hạn hẹp và nó không thể phổ quát. Truyền thống nghìn năm tuổi của
Ấn Độ liên hệ đến sự đa nguyên trong tất cả mọi tôn giáo, và nó là thế
tục - không ưu tiên trên một tôn giáo đặc thù nào; tôn trọng mọi tôn
giáo. Bên cạnh những tôn giáo bản địa, tất cả mọi tôn giáo quan trọng
của thế giới cuối cùng được thiết lập tại Ấn Độ. Vì vậy trong hai nghìn
năm vừa qua, tất cả mọi truyền thống tôn giáo quan trọng của thế giới đã
chung sống với nhau trên xứ sở này. Cho nên một cách tự nhiên, do bởi
thực tế ấy, họ đã phát triển những nguyên tắc thế tục. Điều ấy là rất
tốt. Có rất nhiều tôn giáo quan trọng cho nên chúng ta không thể nhấn
mạnh trên niềm tin tôn giáo của chúng ta. Vì thế cho nên cách thực tiển,
thực tế duy nhất là không đụng chạm đến tôn giáo - đơn giản chỉ là
những nguyên tắc thế tục.
Tôi
là một Phật tử chí nguyện tròn vẹn. Nếu ai đấy cho thấy một sự thích
thú về Phật Giáo, đôi khi tôi cảm thấy hạnh phúc; nhưng tôi không bao
giờ có gắng tuyên truyền về Phật Giáo. Niềm tin tôn giáo là một vấn đề
cá nhân. Những nguyên tắc thế tục là vấn đề của toàn thể nhân loại. Cho
nên chúng ta, cộng đồng Phật Giáo - bên cạnh sự thực tập hàng ngày như
một Phật tử - nên suy nghĩ thêm về những dòng này.
Tôi
thật sự cảm kích việc làm của những anh chị em Ki Tô giáo. Tôi nghĩ họ
đã thực hiện sự cống hiến to lớn nhất cho giáo dục trên toàn hành tinh
này. Quý vị không thấy bất cứ tôn giáo nào làm việc ấy. Mới đây ở Ấn Độ
Tổ chức Ramakrishna đang làm việc gì đó [trong lãnh vực của giáo dục
tập trung], nhưng tất cả những nhóm tôn giáo khác vẫn khép kín trong đền
thờ của họ và để thu tiền. Quý vị, phải phải năng động trong việc thúc
đẩy cho một xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn. Trên cấp độ ấy, tôi nghĩ
những anh chị em Ki Tô giáo của chúng ta đã thực hiện một sự phục vụ
tuyệt vời cho nhân loại. Nhưng cùng lúc, họ cũng thực hiện hoạt động
truyền giáo, việc đổi đạo, và đó là một điều phức tạp.
Một
lần ở Salt Lake City, những người Mormon đã mời tôi vào tổng hành dinh
của họ. Tôi đã gặp lãnh đạo của họ, và rồi thì tôi đã diễn thuyết công
cộng ở đấy. Tôi đã đề cập rằng khi những người truyền giáo đi vào những
vùng nơi không có những tôn giáo cụ thể, thế thì thật tốt đẹp để biến
đổi những người ở đấy thành Ki Tô hữu. Khi không có triết lý cụ thể nào ở
đấy, thì rất tốt. Nhưng trong những vùng đã có những niềm tin tôn giáo
cụ thể, sự đổi đạo tạo ra những sự xung đột và rắc rối.
Đôi
khi họ cung cấp tiền bạc khi họ tiến hành những sự cải đạo. Khi mỗi sự
đổi đạo xảy ra, họ cho 15 đô la. Những người Mông Cổ rất tài tình về
điều này; họ trải qua sự đổi đạo mỗi năm, và vì thế mỗi năm họ nhận
được 15 đô la.
Ẩn Tâm Lộ Friday, December 19, 2014
[1] Phật Giáo là vô thần trong ý nghĩa rằng không có một đấng tạo hóa, không có khái niệm về một đấng tạo hóa.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét