Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010
KÍNH GỬI GIÁO HOÀNG BENEDICT XVI
Kính thưa ngài,
Tôi là một công dân VN, một tín đồ Phật Giáo, xin trang trọng kính đến ngài một tâm thư, mong rằng, nơi đây, giúp ngài một ít suy nghĩ về phong cách tồn tại tôn giáo của ngài giữa lòng dân tộc chúng tôi, qua gần 6 thế kỷ, vẫn như còn lạ lẩm với bản chất hiếu hòa của dân tộc VIỆT..
Thưa ngài, gần một năm, kể từ sự cố chùa Hiển Quang bị đốt vào 01 giờ sáng ngày 06/5/2006 , tại Thành Phố Hồ Chí Minh, nằm ngay trong lòng giáo xứ Vinh Sơn của ngài, sau khi có tranh chấp vấn đề dựng bảng chùa. ( gọi là tranh chấp, thực ra chùa xin phép giáo xứ dựng bảng bên dưới cổng Vinh Sơn, ba lần đổi ý, giáo xứ không chấp thuận, nhà chùa bèn dời vào trong cách cổng hơn 06 mét. Đêm đó bảng còn để trong chùa, chuẩn bị ngày hôm sau dựng, bị đốt cháy, lan ra 7 chiếc xe gắn máy và một số thiệt hại vật chất trong chùa, rất may, chưa có thiệt hại nhân mạng ngòai ni sư bị chấn thương, vì điện cúp khi bắt đầu phát hỏa ). Đến nay, vì sự đòan kết tôn giáo trong xã hội, nhà nước VN đã im lặng và có những văn bản điều tra, kết luận giám định mang tính áp áp đặt của chính quyền thành phố và địa phương; Chúng tôi thông cảm phản ứng thận trọng nhưng thiếu khôn ngoan của một số cán bộ chức quyền lúng túng trước biến cố đột ngột và nhạy cảm đó:
1/ chính quyền Thành Phố HCM muốn giải quyết êm thắm để tránh bất hòa hai tôn giáo, thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự của một cá nhân phá họai, sau đó nhà chùa sẳn sàng bãi nại, mọi sự thuận buồm xuôi gió hơn, nhà nước VN cũng thể hiện được tính nghiêm minh của luật pháp, PG cũng thỏa dạ, Kito giáo cũng phải kiêng dè chính phủ và tôn trọng PG nhưng cảnh sát điều tra, được lịnh bóp méo việc giám định mà chứng tích và phương tiện phá họai vẫn còn rõ ràng, cảnh sát đã thu giữ.
2/ Hậu quả tính áp đặt đó, tuy bề mặt im lìm, nhưng sự bất mãn từ PG, sự khinh lờn luật pháp từ Kito giáo, sự khiếp nhược của nhà nước trước cơn sốt, đều là những đợt sóng ngầm âm ỉ chờ cơ bộc phát.
3/ chính quyeàn ñòa phöông, ngoøai vaên baûn giaùm ñònh, coøn göûi thoâng baùo ñeán chuøa: KHOÂNG KHÔÛI TOÁ VUÏ AÙN HÌNH SÖÏ, khuyeân PG khoâng laøm oàn aøo, caùn boä ñi caùc chuøa giaûi th1ch leäch laïc söï vieäc. Moät soá loa phoùng thanh caùc quaän huyeän ven ñoâ leân aùn vuï phanh phui ñoát chuøa.
4/ L.M và các soeur tại giáo xứ đến thăm, tuyệt nhiên không đặt vấn đề sự cố và việc chấp thuận cho chùa dựng bảng hay không.
5/ Như vậy, PG chúng tôi, dù ở thể chế nào cũng đều bị o ép, một phần do tinh thần ôn hòa, một phần do cấp lãnh đạo chúng tôi không thể hiện được tính bản lĩnh. Nó không có một phản ứng cực đoan như các tôn giáo Thần Học, nhưng tinh thần nhu hòa đó đã từng đánh trả ngọai xâm một cách quyết liệt khi tổ quốc lâm nguy, và nếu cần phải hy sinh bất bạo động như đã từng dưới chế độ nhà Ngô, một chế độ do chính GH các ngài chọn lựa, người PG chúng tôi không từ nan ( nghĩa là với tôn giáo Thần Học dùng xương máu kẻ khác để bảo vệ quyền lợi của mình, PG chúng tôi dùng ngay sự sống của mình để cảnh tỉnh lương tâm kẻ khác ). Chúng tôi có quyền phản kháng trước sự xúc phạm của bất cứ ai dù nhân danh tôn giáo hay quyền lực nào, nhưng đất nươc chúng tôi đã rách nát, nhân dân chúng tôi quá đau khổ vì chiến tranh, ngày nay là cơ hội để dân tộc chúng tôi xây dựng cơ đồ, con em chúng tôi được hưởng thái bình, đời sống người dân cần nâng cấp ngang bằng với các dân tộc trong khu vực, vì thế, PG chúng tôi, vì quyền lợi của dân tộc, phải chấp nhận thiệt thòi
Thưa Giáo Hòang, chúng tôi biết rằng sự giáo dục để trở thành một tu sĩ Kito giáo, ra lãnh đạo giáo xứ, giáo khu, giáo phận, hay lãnh trách nhiệm của GH giao phó, ngòai chương trình giáo dục Thần Học cũng phải qua giáo trình tâm lý đạo đức xã hội, và giao tế. Thế nhưng, với sự cố ấy, chúng tôi rất ngạc nhiên trước thái độ im lặng của LM chánh xứ, Hội Đồng Giáo Xứ hay Hội Đồng Giám Mục VN một sự kiện ngay trong giáo xứ mình, ít nhiều liên can đến việc dựng bảng chùa PG. Không ai bảo quý ngài phải nhận trách nhiệm, nhưng không ai ngăn cấm các ngài có thái độ giao hảo sơ đẳng bằng những câu nói vừa lòng PG khi Giáo xứ không muốn chùa dựng bảng, bằng cớ các ngài đã cho người đến nhờ bà chủ tịch Mặt Trận Phường 3 thương lượng bồi hòan tiền làm bảng chùa.( đấy là chưa nói đến vấn đề các ngài dùng quyền hạn nào ngăn cấm PG dựng bảng )
Thưa ngài, chúng tôi không ngạc nhiên một hành động trịch thượng bạo động như thế, vì xuyên suốt lịch sử có mặt trên đất nước nầy, Kito giáo cũng lắm phen làm đổ máu người Việt chúng tôi, cướp đọat tài sản và cơ sở tôn giáo chúng tôi; Cấu kết với thực dân cướp nước, giết hại đồng bào chúng tôi; Giáo sĩ, linh mục cao ngạo xem thường các tín ngưỡng khác, các ngài từng xem chúng tôi là tà ma ngọai đạo, chỉ có Kito giáo là chân chánh; Alexandre de Rhodes đã khiếm nhã khi nói đến Tam giáo của chúng tôi, gọi Giáo chủ chúng tôi là mọi ! Giáo Hòang Pius XII đòi thả bom nguyên tử xuống tiêu diệt dân tộc chúng tôi như từng tiêu diệt Hiroshima, Nagazaki; Giáo HòangPie IX gửi giám mục, giáo sĩ theo gót chân xâm lược Pháp sang khống chế và truyền đạo trên đất nước bé nhỏ chúng tôi; Trước 1975, tu sĩ PG bị thủ tiêu, tín đồ PG bị hành hung, một số LM quá khích đưa con chiên từ Hố Nai về đâm chém Phật tử, ném lựu đạn vào cơ sở PG tại Sài Gòn.
Thưa ngài, Hội Thánh của ngài nghĩ gì khi con Chúa làm đổ máu nhân dân Việt Nam trong quá trình chống ngọai xâm, giành độc lập. LM chỉ huy đạo quân Kito giáo tiêu diệt những người yêu nước, LM Lê Hữu Từ lợi dụng chức cố vấn cho Hồ Chí Minh mua vũ khí trang bị cho Bùi Chu Phát Diệm giết hại người lương, trong đó có PG chúng tôi! Thay vì GH các ngài đứng về phía nhân dân chống lại kẻ xâm lược, quý vị lại tiếp tay cho đế quốc triệt tiêu vua chúa và nhân dân VN!
Nhân lọai cũng khốn đốn và bỏ mạng hàng chục triệu người từ khi Kito giáo vinh danh Thượng đế, khoa học cũng bị hạn chế, các khoa học gia bị hành quyết vì đi ngược lại Thánh kinh của quý ngài;
Một phần văn hóa nhân lọai đã bị xóa dấu khi các ngài cải đạo; Nhân lọai đang khủng hỏang lương thực, các dân tộc Châu Phi đói ăn cũng do sự chống dối kế họach hóa Gia Đình của quý ngài, dẫn đến nạn nhân mãn; ( nhưng trớ trêu, quý vị có phần hùn trong các công ty dược sản xuất thuốc ngừa thai và bao cao su! )
Ngòai chủng tộc Do Thái bị hy sinh dưới tay Hitler có sự tiếp tay của GH ngài, vì các ngài xem Do Thái là tội phạm giết Chúa, sau đó, vàng bạc tư trang của nạn nhân đều chảy về ngân khố Hội Thánh, và, sau đệ nhị thế chiến tới nay, những nguồn tiền bất minh đều được tẩy rửa trên 20 quốc gia trước khi nhập kho nước Chúa.
Chúng tôi cũng không ngạc nhiên trước mỹ từ nhân ái của quý ngài đối với nhân lọai, nhưng thử ghép hình ảnh một Giáo Hòang, một Hồng y, một Linh mục béo phì đứng cạnh trẻ em Phi châu đói ăn, cái đầu lâu được gắn trên bộ xương cách trí, bụng ưởng da hóp, tay chân khẳng khiu, thua con vật nuôi trong gia đình giàu có; con người tự hỏi : đâu là công bằng của Thượng Đế đối với con cái của ngài
Thưa ngài, với lời lẽ bác ái và Chúa lòng lành vô cùng, GH các ngài thừa sức chia sớt vật chất cho lục địa đen đói khổ đó; Đời sống mỗi tu sĩ quý ngài chỉ cần tiết chế khẩu phần sang trọng hàng ngày, sẽ có bao nhiêu người được no dạ; và số tiền hàng trăm triệu USD bồi thường nạn tu sĩ lạm dụng tình dục trẻ em, sẽ nhiều ý nghĩa hơn khi giúp nạn nhân thiên tai, HIV/AID...
Và hằng ngày trên thế giới xẩy ra nạn bạo hành, chém giết vì quyền lợi của Kito giáo; giữa Tin Lành và Roma, giữa Roma và Hồi giáo, tất cả đều thờ chung một cha, cac ngài trả lời thế nào về tình thương của Thượng Đế mà các ngài luôn xưng tán?
Vì vậy, làm sao chúng tôi tin được lời thú tội của JP2, đại diện Hội Thánh xin sám hối nhân lọai trước các núi tội do Vatican tạo ra; ( Xin lỗi nhé !Nhân danh Chúa của chúng tôi, chúng tôi đã nô lệ hóa các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã giết các người. Xin lỗi nhé! Chúng tôi đã chia rẽ, xâu xé, tàn phá quốc gia của các người.. Bây giờ các người có thể tin tưởng chúng tôi được rồi, Sorry! In the name of our God, we enslaved you. Sorry! We killed you. Sorry! We screwed up your country. You can trust us now. “ A freethinker on Vietnet” Và gần đây, khi Hồng Y Crescenzio Sepe, tổng Bộ Trưởng Truyền Bá Đức Tin sang VN tuyên bố những lời lẽ mang tính xã giao , khuyên giáo hữu hòa nhập và tôn trọng tập quán tín ngưỡng của người dân sở tại, không ngòai mục đích trấn an chúng tôi, để che đậy những thủ thuật bành trướng qua nhiều hình thức: mua chuộc, khuyến dụ, cưỡng chế hôn nhân, khen thưởng lập công cho những tín hữu nào dụ thêm người vào đạo, giúp đỡ kẻ khó,tống táng ma chay...mà những thế kỷ trước GH đã dùng tòa án dị giáo bạo hành, đàn áp, cưỡng bức...thưa ngài, ngòai những tôn gíao thần học, các tôn giáo Châu Á chỉ phát triển bằng đạo đức tự thân và rao giảng hợp lý , không hề dùng thủ đọan để kiếm thêm tín đồ! Và quan trọng hơn, những tôn giáo đó lấy con người làm đối tượng để xây dựng cuộc sống, giải quyết những bất tòan trong xã hội chứ không dùng con người như một phương tiện để bành trướng một thế lực đã lấy Thượng Đế làm tấm bình phong!
Và thưa ngài, tu sĩ các ngài bảo tín đồ trung thành với quốc gia sở tại, tại sao họ chỉ biết có Tòa Thánh Vatican, họ chỉ mơ ước về hầu cạnh Chúa mà không quan tâm đến lịch sử của một dân tộc từ đó đã cưu mang họ. ( trước khi cải đạo, họ thuần túy là một công dân yêu nước ) Phải chăng lời lẽ giáo dục công dân đó chỉ để che đậy một lối giáo dục phi nhân, vô tổ quốc, chỉ có hội Thánh là duy nhất trên cỏi sống nầy? Các ngài có một phương cách giáo dục mà tín đồ không thể nghĩ khác lời phán của các đấng bề trên: Thánh Ignatius of Loyola (1491 – 1536 ) ( người sáng lập dòng Tên, Xin đọc bài về thánh Phanxico Xavie trong phần phụ lục : “ Chúng ta phải luôn luôn sẳn sàng tin rằng trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phjẩm trong Giáo Hội quyết định như vậy” ( We should always be disposed to believe that which appears white is really black. If the hierarchy of the Church so decides “}
Để vấn đề được chính xác hơn, chúng ta nên nghe lời phát biểu của Linh mục Trịnh Văn Phát: "Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau nầy, phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi giúp địa phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi không có tự do lựa chọn, tôi đã được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội” (Tập san Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt - Liên Lạc, số 2 tháng 7 năm 1995 trang 72. Nhóm Úc Châu thực hiện, dẫn theo Lê Trọng Văn trong tác phẩm “Việt Nam những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 20", Hoa Kỳ, 1997, trang VIII).(NTT BK)
Riêng ngài, Giáo Hội ngài muốn được bang giao với VN và các nước CS, thế nhưng ngài đã đứng dưới màu cờ mà nhà nước VN không chấp nhận, vào dịp Đại Hội Thanh niên Công giáo tại Đức. Ngài có quyền đứng dưới bất cứ màu cờ nào, nhưng cùng một lúc chìa tay cho cả hai kẻ thù của nhau, phải chăng đó là thái độ thách thức xỏ lá? Mục đích bang giao để lợi gì cho đối tác ngòai việc bảo vệ và bành trướng thế lực của Vatican!
Các ngài sẽ thành công trong việc thiết lập bang giao với VN, bởi lẽ, các ngài có tiền, có quyền, có thế lực, trong lúc VN chúng tôi nghèo, chậm tiến, bị các quốc gia chủ lực o ép, dùng tôn giáo làm điều kiện tiên quyết để chấp nhận việc hội nhập thế giới; Nhưng thưa ngài, nguyên tắc là thế, lòng dân thì sao? 83,7 triệu dân VN, các ngài có 7 triệu, cọng thêm 10 triệu người chấp thuận vì không am tường sự thật của Vatican, còn lại 66,7 triệu , chắc gì đồng thuận; trong đó dân tộc chúng tôi có những tôn giáo nội sinh như Hòa Hảo, Cao Đài là những tín ngưỡng tràn đầy nhiệt huyết với dân tộc, không chấp nhận vọng ngọai, thử nghĩ cái gì sẽ xẩy ra một khi các ngài khống chế dân tộc chúng tôi bằng tín ngưỡng và thủ đọan không thích hợp?
Ngài cũng thừa hiểu tại sao cái nôi của Kito giáo trước đây, bây giờ chối bỏ Chúa, thậm chí gây khó` khăn cho hội Thánh các ngài. Ý là quốc gia cưu mang Vatican, thế mà lọai trừ ảnh hưởng GH ra khỏi nhà nước và chính trị. Hiến pháp 1917 của Mễ Tây Cơ đặt giáo hội Công-giáo ra ngoài vòng pháp luật, mặc dầu 80% dân Mễ theo Công-giáo. Giáo-hội Công giáo Mễ bị truất hữu tài sản, linh mục và bà xơ bị cấm không được dạy học, không được nuôi trẻ, không có quyền bầu cử, ứng cử, ra đường không được mặc áo dòng...Sở dĩ hiến pháp phải buộc chặt tay họ như thế vì sợ họ bán nước cho ngoại bang như họ đã từng làm trong quá khứ. (NTT BK)
Ngay cả đến ngày nay mà nhân loại vẫn còn đặt mình trong tình trạng báo động về Ki-tô-giáo (Công-giáo và Tin-Lành). Thật vậy, quốc hội Nga ngày 22.7.1997 thông qua một dự luật với đa số tuyệt đối “Cấm Tin Lành và Công-giáo truyền đạo tại Nga, ngoại trừ Hồi, Do Thái, Phật và Chính-thống-giáo” (It pleges respect for Islam, Judaism, Buddhism, and the nation’s largest faith, Russian Orthodoxy. LA Times, Wed. July 23, 1997).(BK)
Thưa ngài, tại sao có sự đố kỵ từ ngòai Giáo Hội?
Bởi vì: Giáo Hòang Gregory VII đốt thư viện Apollo chứa đầy kiến thức cổ xưa. Hòang đế Theodosius đốt sạch 27.000 tài liệu học về phái huyền bí...Đòan Thập tự quân đốt tất cả sách vở mà họ có thể kiếm được, kể cả những nguyên bản Thánh Thư Do Thái. Năm 1233, những tác phẩm của Maimonides ( một triết gia xuất sắc của Do Thái, 1135 –1204; TCN } bị đốt đi cùng với 12.000 cuốn của kinh Talmud. 1244, 18.000 cuốn sách đủ lọai bị hủy. Hồng Y Ximenes đã đốt 80.000 bản văn của A Rập. Ở Tân thế giới, tòan bộ kiến thức cổ xưa bị Kito giáo Tây Ban Nha phá hủy cùng với đền đài chứa đựng những kiến thức nầy...( Pope Gregory VII burned the Apollo library filled with ancient lore. Emperor Theodosius had 27,000 schools of the Mysteries paprus rolls burned,..the Crusaders burned all the books they could find, including original Hebrew scrolls. In 1233 the works of Maimonides were burned along with twelve thousand volumes of the Talmud. In 1244 eighteen thousand books of various kind were destroyed.Cardinal Ximenes “delivered to the flames in the square of Granada eighty thousand Arabic manuscripts.” On finding similar lore in the New World, the Spanish Christians destroyed it and the temples that contained it...)
Các ngài đã xúi dục chém giết, xem như một vinh hạnh mà Hồi giáo ngày nay gọi là thánh tử đạo. Thánh Bernard đã bảo: “Những lính chiến Kito phải tiến hành cuộc chiến tranh của Chúa Kito mà không sợ phạm tội giết kẻ thù hay sợ bị kẻ thù giết, vì khi họ giết hay bị giết, họ không phạm tội ác nào, vì tất cả là để cho sự vinh quang của họ. Nếu họ giết, đó là cho sự lợi lộc của Chúa; Nếu họ chết, đó là cho sự lợi lộc của chính họ
..................
Không riêng VN, Nhật Bản, Trung Quốc đã trục xuất tu sĩ quý ngài , ngay trên đất Pháp, thế kỷ 18 cũng đã trục xuất bốn ngàn tu sĩ dòng Jesuit về tội phá họai an ninh quốc gia.
Và thời kỳ mà GH các ngài thống trị Âu Châu được gọi là thời kỳ đen tối của nhân lọai , vì thế, ngay nội bộ Vatican, không thiếu những tu sĩ có lương tri đã phản kháng GH, chấp nhận lên giàn hỏa, và gần đây, một trong những Linh Mục của tòa Thánh, Ernie Bringas đã viết:
“ Kito giáo đã để lại dấu vết kinh hòang, khổ sở và chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm máu. Và những hiện tượng tàn ác, lố bịch trong sử sách là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn, đã được gây ra dưới cái ảo tưởng ( đôi khi là cai cớ ): đó là sự hướng dẫn của Thượng Đế.”
Christianity has felt an appalling trail of misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And the cruel, grotesque events they record are prime examples of misguided faith, perpetrated under the delusion ( sometimes pretext ) of divine guidance.
Chính những độc đóan bạo hành của Vatican mà Luther, 1517, tại Wittenberg, Đức, nổi lọan chốnglại quý ngài, đẻ ra Thệ Phản giáo, chia rẽ châu Âu suốt 30 năm, đến 1648 mới tạm lắng, vì vậy sau nhiều thế kỷ sa đọa của các đời Giáo Hòang, buộc Hội Thánh phải lột xác qua công đồng Trent 1545 –1563 để chấn chỉnh và tồn tại.
Thưa ngài, chuyện Hội Thánh của ngài còn quá nhiều vấn đề đối với nhân lọai để nói; nơi đây tôi chỉ khái lược, vậy tạm đặt vấn đề: Vatican đã làm được gì cho nhân lọai ngòai một Thiên đường hoang tưởng? Ngòai bành trướng thế lực để chức sắc cầm quyền các ngài hưởng thụ một cuộc sống vương giả?
Đại tư tưởng gia Voltaire (1694-1778) đã nhận định “Suốt 17 thế kỷ qua, Công-giáo và Tin Lành chẳng làm nên tích sự gì, chỉ có hại mà thôi.
Lời tâm sự của giám mục Anh Giáo Desmond Tutu, người Phi Châu, được giải thưởng hòa bình Nobel năm 1984, như sau:
“Lúc người da trắng đến, chúng tôi có đất đai, họ có cuốn Thánh Kinh.
Chúng tôi tin tưởng họ, nhắm mắt lại và cầu nguyện với cuốn Thánh Kinh trong tay.
Lúc mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh Kinh, còn họ có tất cả đất đai của chúng tôi..”
(We have our lands and they came with their Bible.
We believe in them and we pray with the Bible in our hands and our eyes closed.
When we open our eyes, we have the Bible and they have our lands).
Khi bang giao với VN, các ngài đóng góp được gì cho một dân tộc mà thừa sai của quý ngài từng nợ máu với dân tộc nầy? Không kể đến những món tiền lót đường qua tay những kẻ biến chất.
Chả lẽ các ngài thay đổi thái độ truyền giáo từ bạo lực sang thủ đọan, ngòai ra không dung hợp được tính nhu hòa của dân tộc chúng tôi ?
Phần lớn tín đồ quý ngài luôn hận thù dân tộc VN nói chung , PG nói riêng một cách vô lý; chả lẽ kẻ dến sau ở chung một nhà, muốn chống đối, lọai trừ người ở trước ?
Ngài nghĩ thế nào, nếu hành động Kito giáo VN đối với Hồi giáo, Tin Lành giáo như đã đối với PG, cái gì sẽ xẩy ra?
Ngòai động thái đem lại bất an cho mọi xã hội, các ngài không có một phương cách hòa bình hơn sao, để mọi tôn giáo chung sống an lành?
CS sau một thế kỷ có quan điểm khắc khe về tôn giáo, giờ đây đã chấp nhận sự tồn tại của tôn giáo là thực thể tất yếu lâu dài, vì đó là nhu cầu tinh thần, nhu cầu tâm linh song song với vật chất. Một cuộc sống luôn có hai mặt, không thể chọn hoặc tâm linh hoặc duy vật, đó là đôi chân của cuộc sống, dĩ nhiên, tín ngưỡng tùy thuộc trình độ quần chúng, tồn tại lâu dài hay chỉ là món giải trí nhất thời; Ngài cũng thừa hiểu tại sao Tây phương ngày nay đa phần bỏ đạo ? Vì trình độ và mức sống nhân dân đủ để không cần một Thiên đường, một Thượng đế viễn vông. Nhân dân chúng tôi tuy nghèo, một số hồ hởi đến với Chúa vì túi tiền qúy ngài khá lớn và lời húa hẹn khá hấp dẫn, đa số còn dè dặt phương cách chào hàng của quý ngài, vì chúng tôi có quá nhiều kinh nghiệm thương đau bởi quảng cáo.
Quý ngài đã thấy thái độ nhân lọai ngày nay đối với quý ngài, kể cả các khoa học gia; Các ngài cũng xét lại cái thật lòng của GH quý ngài đối với nhân lọai, trong đó có các nước chậm tiến như chúng tôi. Các nước Tây phương hiện nay chỉ bắt tay với Vatican ngòai cấu kết chính trị và tài chánh, họ cũng chả ưu đãi gì với một tôn giáo đã từng cản bước tiến và gây thương đau cho họ suốt 17 thế kỷ. Cường quốc chỉ lợi dụng vì các ngài có dân số đông nhất hành tinh.
Tư Bản và CS không còn ranh giới và không còn là vấn đề; ngày nay kinh tế quyết định số phận của từng quốc gia, tư bản biết lợi dụng tôn giáo để bành trướng thị trường, các ngài là tôn giáo duy nhất biết lợi dụng chính trị để bành trướng thế lực, vì vậy đã đẻ ra bạo động Hồi Giáo như quá khứ GH chuyên quyền đã sản sanh ra Tư sản và CS. Tóm lại, ngày nào thế lực quý ngài còn tồn tại, thế giới nầy luôn bất an, vì luôn xuất hiện những lực lượng đối kháng.
Có những con người, có những quốc gia, có những tổ chứ`c tồn tại và phát triển nhờ ngu dân và chiến tranh, trong đó có Kito giáo
Các ngài có thể dùng tiền lót đường để triệt tiêu PG và phá họai tổ quốc VN, bật đèn xanh cho tín hữu đánh phá PG, nhưng thưa ngài, dân trí nhân lọai ngày càng phát triển, ngài trả lời thế nào khi :
Albert Einstein, nhà khoa học lừng danh quy y PG? Một con người nghệ sĩ và đa cảm, luôn vác cây đàn violen, ngực đeo tượng Phật, đã bỏ Chúa và rất nhiều nhà trí thức hành xử theo lương tâm mình. Hiện nay Liên Hiệp Quốc đã chọn PG là tôn giáo mang lại hòa bình cho nhân lọai, họ tự động đứng ra tổ chức mừng lể Phật Đản?
Một nhà Chùa bị đốt chả thấm vào đâu khi các nhà Chùa bị chiếm đọat biến thành nhà Chúa; Chả lẽ thời đại văn minh mà thái độ bán khai vẫn còn tồn tại? Cái im lặng của các ngài trước biến cố nầy như cái im lặng của Hội Đồng Giám Mục VN trước tội phạm của GH đối với nhân dân VN, điều nầy nói lên lương tâm và thực chất của một tôn giáo Thần quyền mà các ngài đang dùng để nuôi thân!
MINH MẪN
18/4/06
Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2010
VỊNH CÁI TRỐNG
TUY KHÔNG MÀ CÓ - CÓ MÀ KHÔNG
KHÔNG RUỘT, AI HAY LẠI CÓ LÒNG
ĐỂ VẬY IM HƠI CHÌM KHÍ PHÁCH
GIÓNG LÊN VANG TIẾNG NỔI OAI PHONG
CHIÊU NGHINH CHÁNH ĐẠO - AN TRĂM HỌ
GIẢI TÁN TÀ MA SẠCH MẢY LÔNG
KIM CỔ QUAN DÂN ĐỀU BIẾT TIẾNG
MẤY HỒI TRIỆU LỆNH ĐÃ GHI CÔNG
HUỲNH Y LÃO ĐẠO
Thứ Tư, 10 tháng 11, 2010
LŨ LỤT QUÊ HƯƠNG
Đã hơn một tháng đi qua mà tàn tích cơn lũ thế kỷ vẫn chưa nhạt nhòa trong kinh hãi của người dân xứ Quảng; Quảng Bình là một trong những tỉnh chịu thiệt hại nặng về người và của trong cơn lũ năm 2010.
Các phương tiện truyền thông đã kịp thời đem đến cho người dân trong và ngoài nước những thông tin quan trọng về cơn lũ mà quê hương ta mỗi năm đều phải đón nhận sự thịnh nộ của thiên nhiên; chính vì thế, các đoàn cứu trợ từ phía Nam, do các chùa và mạnh thường quân liên tục chuyển hàng ra tiếp tế. Ngoài nhà nước, Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, các hệ phái, các đoàn thể tư nhân, một số cá nhân các tu sĩ, Phật tử cũng đứng ra vận động quyên góp và đích thân vượt trên ngàn km đến với đồng bào bất hạnh vùng cao phía Bắc Trung bộ. Chùa Quang Minh, ngôi chùa nhỏ trong hẽm quận Phú Nhuận, thầy Nguyên Mãn cũng kết hợp với nhóm từ thiện Minh Tâm, gia đình Tâm Giao, BS Bùi Quốc Thái, LS Đỗ Quang Thuần, Đạo diễn Hoàng Thiên, nhóm những người bạn trẻ của Diệp…tổng cộng 25 nguời, đáp máy bay ra Quảng Bình. Ngay cả nhóm Thiện nguyện của người Khiếm Thị Hốc Môn, cũng trích quỷ năm triệu ( 5.000.000 đ) yểm trợ lũ lụt mà tuần trước đó không lâu, họ cũng đã trích quỹ để giúp hai bệnh nhân nặng đi chữa trị. Có lâm vào hoạn nạn mới thấy được tấm lòng đồng bào ruột thịt đến với nhau. Có những gia đình ở Sài gòn, lao động cơ bắp nuôi một bầy con, thế mà vẫn chung tay bằng những món tiền khiêm tốn nhiều vất vả để chia xẻ niềm đau mất mát của những gia đình kém may mắn đó.
Quảng Bình là tỉnh nằm cực Bắc Trung Bộ Việt Nam; Tuy có nhiều ưu thế của thiên nhiên, có động Phong Nha – Kẻ Bàng nằm trong danh sách thắng cảnh thế giới. Diện tích Quảng Bình không lớn lắm ( 8065 km2 và dân số chỉ 850.000 người ). Biên giới phía Tây 201,87km tiếp giáp Lào, phía Đông giáp biển chạy dài 117, km. Độ dốc của đất nghiêng từ Tây sang Đông. Có bến cảng và cơ sở công nghiệp, nhưng cuộc sống người dân vẫn chưa được sung túc lắm. Như một số vùng xa của phía Bắc, Quảng Bình chỉ có một Tổ đình và hai ngôi chùa nhỏ mà 98% không phải Phật tử. Giáo dân Kito chiếm 30% dân số, vì thế, hình ảnh tu sĩ Phật giáo trở thành ngộ nghĩnh lạ mắt mà họ gọi bằng anh, bằng chị khi tiêp xúc.Chính vì thế cơm chay trở thành khan hiếm.
Quảng Bình có nhiều núi, nhất là núi đá vôi, để cement được sản xuất theo công nghệ giây chuyền đã một số núi bị san bằng, biến màu xanh của thiên nhiên thành vùng đất nham nhúa như cơ thể đầy thẹo. Có hai huyện miền núi là Tuyên Hóa và Minh Hóa, nơi cư trú của tộc Khùa, Mã Liềng, Rũc, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem…Nếu vùng thấp bị lụt thi miền cao bị lũ sau những trận mưa thác đổ. Cây rừng bị phá hủy, núi không giữ được nước, chính vì thế, trong nháy mắt cơn lũ dâng nhanh đến độ người dân chỉ kịp thoát thân trên nóc nhà. Có nơi nước lên cao hơn ba mét; gia súc và tài sản theo lũ chảy ra biển. Một số cư dân gần những hang núi, họ chen chúc nhau trốn tránh sự giận dữ của lũ, nhưng phải chịu những cơn rét từ đá núi phủ vậy và cái đói cũng theo lũ dâng cao từng giờ. Nhà nước kịp thời tiếp tế cầm hơi cho nạn nhân bằng mì gói; việc tiếp tế khi lũ đang có mặt cũng không phải dễ dàng; ca nô không đến gần, vì tạo những con sóng xô dạt nạn nhân đang ngất nghểu trên nóc nhà không chỗ đeo bám, hoặc các sườn núi lởm chởm cây đá ngầm dưới mặt nước. Gạo lúc bấy giờ là loại lương thực chưa cần thiết, bởi lẽ nồi niêu son chảo bị bà Thủy tiếp thu, giữa màn trời chiếu nước cũng không có chỗ cho ông bà Táo ngự tọa.
Đoàn vừa đáp xuống sân bay Đồng Hới lúc 13.giờ rưỡi chiều thứ bảy, nhóm từ thiện hội ý tại phòng chờ của sân bay, chia làm hai đoàn, một đi xã Tân Trạch và một đi xã Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch. Lũ đến từ ngày 30/9 đến 10/11/2010 có 20 người chết và 5 người mất tích. Huyện có 42 ngàn hộ thì trên 26 ngàn hộ đã bị ngập úng. 30 xã bị thiệt hại nặng, ước tính của địa phương cho biết, tổn thất 500 tỷ đồng VN. 13 trạm y tế không đủ thiết bị. 137 hộ bị sập hoàn toàn, nhà nước hỗ trợ 14 triệu mỗi hộ và các mạnh thường quân, các đoàn từ thiện liên tục tiếp cứu. Có những vùng mất trắng hoa màu lẫn hạt giống. Địa phương xuất quỹ giúp giống thì ít nữa bốn tháng sau mới có thu hoạch nếu lũ không tái xuất hiện. Bà con được chính quyền và các nơi cứu đói sau lũ cũng chỉ độ ba tháng, thời gian còn lại chờ thu hoạch mùa màng thì tự họ phải kiếm sống khá vất vả.
Mặc dù thầy Nguyên Mãn đã liên lạc với địa phương trước, nhưng khi đoàn đến cứu trợ, người dân vẫn không có phiếu nhận quà, cán bộ xã đọc danh sách từng người đến lãnh mà chỉ có địa phương mới biết ai có quà hay không được quà; Đoàn đi Tân Trạch cách 70 km từ huyện Bố Trạch, nhưng mãi đến 12 giờ khuya mới về đến khách sạn, vì đường quá xấu, có lẽ đây là xã nghèo nhất nước mà đồng bào sắc tộc lưu trú lâu đời. Chính sự nhiệt tình với đồng bào ruột thịt mà cả hai đoàn nhịn ăn suốt ngày để lao vào các xã khi rời khỏi sân bay. Ngày hôm sau đoàn đi Tuyên Hóa, một huyện nằm phía Tây Bắc thuộc vùng núi; nơi đây, đoàn không tiếp xúc được với nạn nhân, cán bộ xã đến nhận quà, vì từ cầu Minh Cân đến xã Ngư Hóa gần 20km sông nước, chính quyền không có phương tiện đưa đoàn đến. Nơi đây 130 phần quà gồm gạo, mỗi phần gồm chăn mền và tiền trị giá hơn 300 ngàn đồng, được thông qua cán bộ xã.
Xã Nam Hóa cách Đồng Hới 100km thuộc Tây Bắc Trung bộ; có 541 hộ, gồm 1984 nhân khẩu. 100 phần quà đến với đồng bào tại đây. Với số lượng nạn nhân thiên tai và món quà khiêm tốn đó, chính quyền địa phương phải phân vùng luân phiên để nhận mỗi khi có đoàn từ thiện đến. Tuy Nam Hóa là vùng gò đồi, thế mà phải hứng chịu cơn lũ lịch sử của hàng thập kỷ qua. Xã Sơn Hóa cũng có 170 phần quà cho 900 hộ dân và 3.955 nhân khẩu.
Trong hai ngày, đoàn tiếp cứu 4 xã, gồm 400 phần quà. Tuy là hạt muối bỏ biển, nhưng cũng thể hiện được tinh thần máu chảy ruột mềm, lá lành đùm lá rách; Những người khuyết tật như nhóm Thiện nguyện Khiếm thị Hốc Môn còn bỏ ra số tiền khá lớn so với mức thu nhập mỗi ngày chỉ vài mươi ngàn của họ, chứng tỏ lòng nhân của người Việt vẫn chưa vơi cạn. Trên quốc lộ 1A, mỗi ngày có nhiều đoàn xe cứu trợ đổ ra phía Bắc, nhất là các đoan xe của Phật giáo, họ không phân biệt Lương giáo, ủy lạo vô tư, ngược lại họ gặp không ít khó khăn khi vào một số vùng Giáo xứ mà 36 bao đồ đã bị vứt xuống sông cũng như nhiều phức tạp đố kỵ khác. Hậu quả sau cơn lũ khó mà khắc phục cấp thời; cứu trợ chỉ là tạm thời. Khi mà sinh hoạt của người dân trở lại bình thường cũng là lúc mùa mưa lũ năm kế tiếp tái diễn. Năm qua thiệt hại nặng ở Tây nguyên, năm nay đặc biệt Quảng Nam Đà Nẵng và Huế được an bình; Tình trạng đất nước hàng năm phải đối diện với bão, lũ, lụt thì khó mà cư dân miền Trung tích lũy.
*
* *
Đoàn trở vào Quảng Trị, thăm Lao Bảo, đường 9 Nam Lào để nhìn biên giới Lào Việt; cửa khẩu nơi đây, việc giao thông hàng hóa chưa sung túc như Mộc Bài; cư dân thưa thớt. Tám giờ tối đoàn đến Huế, 14 người ngồi trên ghe bập bềnh sông nước để nghe giọng hò sông Hương núi Ngự của các nghệ sĩ kinh thành. Cho dủ thời chiến hay lúc bão lũ, Huế vẫn không dấu được nét kiêu sa lãng mạn; nước sông Hương vẫn không vội vả và người dân vẫn thong thả đi về. 5 giờ chiều tiển một số người về lại phố thị bon chen ở miền Nam, thầy Nguyên Mãn quay lại Quảng Trị dẫn chương trình đặt đá xây dựng chùa Phước Bảo ở Lao Bảo do thầy Từ Luận trụ trì. Dự Đại tường của cố HT trưởng BTS Quảng Trị và kỵ nhật của HT Phó BTTPG QT. Thầy sẽ đi thăm những gia đình có thân nhân mất trong cơn lũ và tặng cho 5 gia đình nhiệt tình cứu 300 người trong tay bà Thủy, mỗi hộ 3 triệu đồng.
Ngoài nguyên nhân khai thác rừng bừa bãi, xây dựng thủy điện, còn phải kể đến cách sống của thế hệ hiện nay. Ngày càng bạo động từ gia đình đến học đường và xã hội; sát hại sinh vật, triệt phá thú hoang quý hiếm, phá hoại môi sinh; đạo đức xuống cấp, giáo dục bất cập, thiếu sự gắn bó tình người và bất chấp thiệt hại chung quanh khi cái lợi cám dỗ cá nhân. Một xã hội mà tội phạm nhan nhãn, làm ăn bất chánh tồn tại và lòng người phẩn uất mất hết niềm tin; những nhà đạo đức luôn gặp rắc rối thì điều tất yếu tác động đến thiên nhiên và xã hội, hậu quả đó là thiên tai. Còn đâu bốn ngàn năm Văn Hiến mà cha ông một thời thể hiện nếp sống văn hóa, một nếp văn hóa đặc thù của Việt tộc chỉ còn trên sử sách. Văn hóa giao tiếp, văn hóa ẩm thực,..thể hiện nền tảng tương lai của một dân tộc.
Đã đến lúc cần xây dựng lại nền tảng đạo đức của một dân tộc thì xã hội mới có cơ may thăng tiến, lúc đó, người dân ý thức bảo vệ trái đất xanh, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên để đẩy lùi thiên tai luôn đe dọa. Hiện tại, dân tộc ta vẫn là bạn thân của lũ lut hàng năm!
MINH MẪN
08/11/2010
Thứ Ba, 2 tháng 11, 2010
DẤU YÊU CON VIỆT
Khi mà thế giới lâm vào thời đại bạo động, loạn lạc, lòng ao ước một bình an cho cuộc sống quả là điều cần thiết và hiếm hoi. Tôn giáo tạo sự bất an thì xã hội cần pháp luật đem đến ổn định. Xã hội thác loạn thì con người cần đến tôn giáo như một liều thuốc an thần.
Thế kỷ 21 là thế kỷ mang mầm móng bạo động trên toàn thế giới. Ranh giới hai cực Lạnh và Nóng không còn thì cũng khó mà có một ranh giới rõ ràng giữa mầm móng bất mãn của ý thức hệ Tôn giáo và chính trị, chính vì thế, Mỹ không có một giới tuyến rõ ràng của đối tượng Hồi giáo cực đoan như đối tượng Cọng Sản và Tự do trước kia; không chỉ có Mỹ là đối tượng của những cực đoan đó, mà lục địa Âu Châu và thế giới Tư bản trở thành kẻ thù của Thần giáo cực đoan, từng gieo rắc tang thương cho nhân loại. Chính vì thế mà Phật giáo được tôn vinh là tôn giáo biểu tượng cho Hòa bình, được Liên Hiệp Quốc chấp nhận.
Những Tôn giáo Thần học không đáp ứng được nhu cầu tâm linh khi trình độ dân trí chuyển hóa, xã hội cưu mang nó cũng lâm vào bế tắt; thì giá trị tồn tại của chúng đếm ngược theo chiều kim đồng hồ. Tuy nhiên Châu Á đã có những Tôn giáo mang tính Nhân bản như Đạo Phật, mang tính xã hội như Khổng giáo, mang tính siêu nhiên như Lão học; một giai đoạn nào đó cũng đã góp phần ổn định xã hội, an bình cuộc sống trong thời quân chủ Phong kiến hoặc giai đoạn quá độ chuyển hóa ý hệ.
Ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã có dấu hiệu phát triển hệ phái Tâm linh. Thế kỷ 19, đầu bán thế kỷ XX một số danh Tăng cao đức Phật giáo trên thế giới, ( trong đó, Nhật Bản, Việt Nam, Đài Loan, Tây Tạng ) thâm nhập vào xã hội phương Tây bằng con đường văn hóa giáo dục và bây giờ tiếp theo là tín ngưỡng tâm linh. Trước khi xóa lằn ranh chiến tranh lạnh và đóng cửa ý hệ thế giới, các hệ phái tâm linh cũng đã kịp thời cắm rễ vào mãnh đất trời Tây. Tuy nhiên, thế vào chiến tranh lạnh lại là đại họa Tôn giáo cực đoan, một loại chiến tranh mới phát xuất từ tôn giáo, đã làm, không những Mỹ, mà các nước Tư Bản phải e ngại. Hầu hết, ngày nay các quốc gia Âu châu đang là mục tiêu của những tổ chức cực đoan như thế. Trước kia, mafia của xã hội đen một thời khuynh loát xã hội, nhưng mang tính địa phương - khu vực, giờ đây, cuộc sống thực dụng phương Tây bị xem là sản phẩm của ma quỷ, cám dỗ loài người, những người cực đoan khoác áo Tôn giáo tự cho mình có quyền thế Thiên hành Đạo, trừng phạt xã hội tiến bộ khoa học vật chất, dưới danh nghĩa diệt trừ cái xấu, cái ác để tôn vinh quyền năng Thượng đế. Oái oăm thay, Tôn giáo là nguồn bình an giải thoát cho loài người, cho nhân loại, thì những thành phần cực đoan của Tôn giáo lại lấy con người làm vật hy sinh để giải quyết quan điểm hận thù. Vào thời đại đen tối của Âu châu, nguyên nhân xuất phát từ Tôn giáo đã đành, thời đại nhân loại tiến vào kỷ nguyên rực rỡ khoa học, cũng chính tôn giáo tạo bất an cho nhân loại. Vì thế, cuộc khủng hoảng toàn cầu không những về tài chánh, về kinh tế, về chính trị, mà còn cả an ninh Tôn giáo!
May thay, trong bối cảnh tòan cầu hóa, các nước du nhập cái xấu lẫn cái tốt. Những quốc gia có truyền thống văn hóa Tôn giáo Tâm linh lâu đời cũng bị pha loãng khi văn minh vật chất và văn hóa thực dụng pha trộn; đồng thời, các nước phương Tây có dịp nếm thử hương vị Tâm linh của Tôn giáo phương Đông, có dịp để so sánh, chọn lựa hầu vun bồi cho nhu cầu ngoài vật chất. Rất nhiều đại gia, lắm kẻ thừa mứa vật chất đã thất vọng khi tâm hồn không thỏa mãn với nếp sống thực dụng; họ cảm thấy trống trãi cô đơn và bế tắt giữa khối tiện nghi vô nghĩa. Chính vì thế, vào thập niên 1970, khi các Lạt Ma du nhập vào Pháp, quần chúng sẵn sàng dang tay đón nhận một cách thích thú như món ăn lạ miệng vừa lòng, và rồi tới Anh, Mỹ, Úc, Canada…! Đồng thời tại Pháp, Thiền sư Nhất Hạnh cũng sáng lập Làng Mai vào năm 1982, còn gọi là Đạo Tràng Mai Thôn; một pháp môn triển khai từ kinh điển cơ bản của Nikaya, quán niệm hơi thở, thích ứng với hiện trạng xã hội công nghiệp phương Tây gọi là Hiện Pháp Lạc Trú, đã giúp nhiều tình cảnh phân hóa trong xã hội và gia đình, tạo cho nhiều người từng bị cuốn hút theo nếp sống công nghiệp; giờ đây có cuộc sống an lạc, pháp môn Làng Mai không những nẩy nở tại các nước Âu châu, còn lan sang Úc, Mỹ, Phi và Á châu nữa.
*
* *
Hòa Thượng Tiến sĩ Thích Thiên Ân là vị tu sĩ Phật giáo Việt Nam đầu tiên làm Viện trưởng Viện Đại học Đông phương tại Mỹ, vào thập niên 1960, cũng đã giúp cho giới trí thức Âu Mỹ tiếp cận Phật giáo. Cùng thời có Suzuki và nhiều thức giả của một số nước. Phật giáo đi vào các tầng lớp xã hội qua bản chất tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo, việc đó cũng có nghĩa tôn giáo nầy thay thế tôn giáo khác như thay đổi món ăn trong thực đơn hàng ngày. Nếu thế, ngày nào đó Phật giáo cũng sẽ là món ăn nhàm chán theo thời gian. Cho dù Phật giáo mang mầu sắc Mật giáo, Tịnh độ, Thiền học có những thể nghiệm và hiệu quả cấp thời mà không giải quyết được những tệ nạn xã hội và bế tắt cuộc sống trên một diện rộng của nhân loại, thì sớm muộn, Phật giáo cũng chung số phận hẩm hiu theo thời gian!
Hình như trong sự dọ dẫm bước đầu thâm nhập vào nếp sống phương Tây, chắt lọc những ưu khuyết của các tôn giáo sở tại, một hình thái Phật giáo mới ra đời. Hình thức là một Tôn giáo, nhưng sở hành lại là nghệ thuật sống mang tính chuyển hóa tâm lý cơ bản và hoá giải những bất toại trong cuộc sống bằng những thao tác đơn giản và cụ thể nhất; vốn sẵn có mà con người lãng quên, đó là theo dỏi hơi thở. Đạo Tràng Mai Thôn sớm phát triển rất nhanh trong vòng 10 năm trở lại trên toàn thế giới; các nước tiến bộ đã đích thân mời Làng Mai đến giảng dạy cho nhân viên cán bộ nhà nước, như lớp tu tập cho Cảnh sát Mỹ, Quốc Hội Ấn, Doanh nhân Thái. Indonesia là quốc gia Hồi giáo, cũng đã tiếp đón Làng Mai một cách trang trọng, ( trong buổi nói chuyện công cộng với chủ đề: Peace is every step. Đa số là thanh niên nam nữ Hồi giáo; vé vào cửa từ 10 USD đến 100 USD, quần chúng được xem truyền hình bên ngoài. Trong số bốn ngàn người tham dự, có cả các tướng lãnh, Bộ trưởng, hơn 50 vị sư Nam Bắc Tông, đại diện chính quyền; Ban tổ chức là người Hồi, chu đáo đến độ phân phối cho quần chúng năm loại đậu, gạo, sách của Làng Mai bằng chữ Indonesia, chiếu, quạt và những vật dụng cần thiết,…đựng trong túi vải in logo Làng Mai để quần chúng cúng dường khi Tăng đoàn đi khất thực. Tuy Phật giáo tại Indonesia chỉ bằng 5% dân số, đa phần người Hoa; thế nhưng tâm đạo cũng đủ thể hiện một cách xuất sắc qua việc tiếp đón, có cả sự ủng hộ của Hồi giáo ). Singapore cũng muốn đem pháp quán niệm của Làng Mai vào chương trình giáo dục học đường, ông Bộ trưởng giáo dục Ng Eng Hen nhờ HT Quang Minh Sơn thỉnh ý, mời Thiền sư về lại Singapore vào năm 2011. Nhưng chương trình Hoằng pháp đã sắp sẵn, ông Bộ trưởng giáo dục lại thỉnh cầu vào năm 2012 với sự khẩn thiết.
Thái Lan là quốc gia thuần túy Phật giáo Nam tông, cũng đã hoan hỷ đón nhận Làng Mai một cách trang trọng không kém Indonesia và trường Đại học Phật giáo Vua MahaChualalongkorn sẽ ký hợp đồng để cùng chia xẻ pháp tu với cộng đồng tu sĩ Phật giáo Thái. Một số quốc gia yêu cầu Làng Mai mỗi năm mở khóa tu giúp xây dựng nền tảng đạo đức và chuyển hóa bế tắt của xã hội họ. Nhưng hiện nay làng Mai chưa đủ Giáo thọ cư sĩ cũng như xuất sĩ đáp ứng theo yêu cầu.
*
* *
Sau những chuyến Hoằng pháp tại Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, thì Thái Lan trở thành mãnh đất lành cho Làng Mai nẩy lộc. Sau buổi nói chuyện với Doanh nhân Thái, họ đã phát tâm cúng dường số tiền bằng một phần ba của khu đất đang cần mua để xây dựng Trung Tâm tu học Đông Nam Á với diện tích 14 ha trên lưng núi cách Thù đô Bangkok gần hai trăm km. Một số tu sinh Bát Nhã về lưu trú tại mãnh đất của vị Tướng cảnh sát Thái hồi hưu. Quý ni trẻ sống trong dãy lều nilon dưới các táng cây xoài, tự do xử dụng những lợi tức trong vườn, được sự giúp đỡ tận tình của người không phải đồng bào ruột thịt của mình. Các ni trẻ trên dưới 20, kể lại những hoạn nạn trong đời tu với nụ cười thật hồn nhiên lạ lùng, ánh mắt thật trong sáng. Cuộc sống của quý tu sĩ nơi đây quá ư đơn giản, vì xa chợ và không có quần chúng Phật tử Việt Nam; nhưng họ cảm thấy rất an bình.
Các quốc gia chưa có Phật giáo, mời Làng Mai về giáo hóa quần chúng đã đành, Thái Lan chọn Phật giáo làm quốc đạo.( Phật giáo du nhập vào Thái vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên, do giáo đoàn Asoka, người con trai của Asoka, là Tỳ kheo dẫn đầu ). Từ năm 1350 đến 1782, trãi qua ba đời vua mộ đạo, chấn hưng và phát triển Phật giáo đến ngày nay. Chính truyền thống tín ngưỡng khép kín trong tu viện, biến tinh thần xã hội của Phật giáo như khô héo và quần chúng chỉ biết cúng dường, tôn kính mà không được thừa hưởng lạc pháp của Đức Phật. Vì thế, Hiện Pháp Lạc Trú làm mới lại truyền thống tín ngưỡng dân tộc Thái, đó là lý do Phật giáo và nhà nước Thái ân cần đón tiếp Làng Mai; dành một vùng đất cho Làng Mai làm Trung tâm tu học. Cũng như Đức quốc nhường cho Làng Mai cơ sở Tổng hành dinh quân đội trước đây, để làm Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu vào những năm trước. Dĩ nhiên bước đầu, chư Tăng Nam tông cảm thấy xa lạ với Tăng đoàn áo nâu, cơm ngày ba bữa trong khi các sư Thái không ăn buổi chiều và người tu không nên hát hò, một sinh hoạt hoàn toàn mới từ Tăng thân Làng Mai, nhưng các quốc gia Phật giáo khác chấp nhận thì tại sao mình lại không, phải chắng đây là yếu tố để họ mở rộng vòng tay tiếp nhận các Tăng ni trẻ Bát Nhã?. Từ Sài gòn đến Thái cũng bằng từ Sài gòn ra Hà nội, nghĩa là không xa Việt Nam lắm, cuộc sống trước 1975 cũng không hơn miền Nam Việt Nam; thế mà bây giờ là một trong những quốc gia có cuộc sống ổn định và nếp sống văn minh, ý thức, tự giác khá cao. Cung cách giao tiếp tế nhị, nhiệt tình và dễ thương. Mỗi năm hàng triệu lượt khách du lịch đến Thái, do vậy, lợi tức thu nhập du lịch gấp 7 lần Việt Nam. Mặc dù Thái luôn có biến động chính trị, nhưng quyền lợi đất nước được dân Thái tôn trọng, vì thế, kinh tế vẫn phát triển đều đặn. Du khách rất hài lòng tính hiếu khách và sự tử tế của người Thái,
*
* *
Từ 11/10/2010 đến ngày 01/11/2010, khóa tu dành cho người xuất gia tại Pak Chong, pháp thoại công cộng tại Thammasat University Bangkok. Một khóa tu cho doanh nhân tại Phu Khao Ngam resort, Nakhon Nayok, rồi pháp thoại tại Đại học Phật giáo Mahachualalongkorn Rajavdayalai , Wang Noi, Ayutthaya; khóa tu cho Phật tử mà đa phần thanh niên và một số người nước ngoài tham dự tại Wang Ree Resort, Nakhon Nayok với chủ đề: Peaceful Mind, Open Heart ( Tâm bình an, trái tim mở rộng). Tinh thần tu tập của thanh niên nam nữ Thái và người nước ngoài rất nghiêm túc và chí thành.
15 ngày Hoằng pháp tại Thái và 4 ngày sau cùng nghỉ ngơi, Phật tử Việt Nam trên 300 người tham dự, được diễm phúc đón nhận lòng ưu ái của Thiền sư luôn chiếu cố, thăm hỏi, động viên và khích lệ tu tập. Sáng 29/10.
tại Pakchong, nơi Tăng ni trẻ lưu trú trong các túp lều vải, Thiền sư ngồi chuyện trò dưới khóm cây. Các Tăng ni hát cúng dường những nhạc bản thiền ca thật dễ thương và ý tưởng trong sáng, mang tên các loại cây được gắn cho khi xuất gia như cây: Hướng Dương, Hồng Giòn, Hải Đường, Trầm Hương, Lê….Đặc biệt gây nhiều xúc động nhất là bài Bát Nhã Thân Yêu, sống trên đất Thái, tu trên xứ người mà tập thể Tăng ni, Phật tử cứ nghĩ là đang ở Bát Nhã; huong vị và kỷ niệm về Bát Nhã vẫn chưa nhạt nhòa trong con tim của tu sinh và tín đồ Làng Mai. Khi đoàn xe vừa đến Thiền đường, một cảnh sát bước ra chận lại, cả xe nhốn nháo, một người lên tiếng, quý vị yên tâm, đây là đất Thái, mọi người cười ồ chửa thẹn, hóa ra đó là cảnh sát gác an ninh cho khu vực của Tăng ni Việt Nam, hướng dẫn xe dừng trước khi vào khu vực.
Đất nước Thái nhiều thế kỷ được thanh bình nhờ uy đức của vua Thái, các bậc chân sư đạo hạnh và là dân tộc hiếu hòa, chứ không vì lý do trung lập, vì Cambodia trước kia vẫn là quốc gia trung lập. Người dân Thái cũng hiền hòa và môi trường sinh thái được bảo vệ cẩn mật.Thú rừng và gia súc thong dong, thân thiện. Rừng nguyên sinh và nùi đồi cây cối xanh tươi lộ nét trù phú sung túc của một quốc gia; Tuy thỉnh thoảng miền Nam Thái có khủng bố và chính trị biến động; nhưng nhìn chung đất nước vẫn tươi đẹp, hiền hòa và dễ mến.Tuy là một quốc gia không là con Rồng châu Á, nhưng là mãnh đất mà du khách các quốc gia Châu Âu ưa thích. Vua Thái từng mời Giáo Hoàng thăm viếng và phát triển Kito giáo. Giờ đây, một hình thái mới của Phật giáo trong thời đại mới hiện nay, được phát triển tại Thái cũng là việc đương nhiên và là diễm phúc cho quốc gia Thái, dân tộc Thái để giải quyết nhiều vấn nạn xã hội mà thế giới hiện nay đang cần đến Phật giáo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma có tầm vóc quốc tế về một trường phái Mật giáo Tây Tạng cho cộng đồng tu sĩ, thì Thiền sư Nhất Hạnh có một uy tín nhất định cho việc hóa giải mọi bế tắt truyền thông giữa con người với con người, giữa con người và thiên nhiên, giữa tâm lý và nếp sống công nghiệp. Nếu Tây Tạng hãnh diện một Đức Đạt Lai Lạt Ma thì Việt Nam sao lại không với một Thiền sư cảm hóa được nhiều sắc dân, quốc tịch và tín ngưỡng khác nhau trên thế giới về với Đạo Phật?. Phải chăng đó là nét Dấu Yêu của người con Việt, nhưng người Việt chúng ta chưa thoát khỏi nghiệp lực để tận hưởng suối nguồn tươi mát của Đạo Phật nhập thế?.
MINH MẪN
28/10/2010