Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010
XUÂN SÔNG HÀN
Ngoài phố, mọi người tất bật cho kịp chuyến xe về quê đón tết. Sân ga tàu hỏa đông kịt người, vé đăng ký trước cả tháng; Những người đến muộn phải lấy vé chợ đen cao gấp năm lần vé thường. Hường chạy sang bến xe miền Đông, chấp nhận ngồi trong ngăn hành lý, vẫn phải chờ sắp chỗ.
Hường cũng chả nôn nóng, đi để mà đi, nhìn lại quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, chắc gì về lại có ai nhận ra mình! Giòng họ bà con biết ai sống ai chết, ai ở ai đi khi đất nước trải qua một cơn binh biến; Nếu ở lại thành phố mà Hường từng trưởng thành, cũng chẳng biết nương vào đâu cho qua mấy ngày tết. Ba hôm trước, cầm tờ giấy ra trại, về ngã tư Hàng Xanh, đợi trời nhá nhem, Hường quẹo vào con hẽm sâu, chui nhanh vô căn nhà mà trước kia, ít khi Hường lai vãng; ngồi đợi thật lâu, hai ông bà chủ nhà mới về, Hường lên tiếng chào ba mẹ! Hai người không ngạc nhiên khi gặp lại Hường, mặc dù lâu lắm Hường không về, và ông bà cũng biết Hường bị bắt cải tạo vì một duyên cớ lãng nhách, phải đánh đổi trên 05 năm lao động nơi rừng núi hoang vu.
- Hạnh, lấy cơm nguội cho anh hai mầy ăn xong để nó còn đi tìm chỗ ngủ!
Chưa bao giờ, kể cả trước kia, Hường ngủ lại nhà cha mẹ mình, lần nầy, có lẽ vừa ra trại, ông bà biết không ai dám chứa, sợ ở lại nhà thêm một miệng ăn, thêm một phiền toái, bà nói:
- Ra tù, địa phương dòm ngó, không có hộ khẩu, nhà tao thuộc dạng “gia đình gương mẫu” trong khu phố, chưa ai than phiền gia đình nầy, đừng để liên lụy cho bầy em mầy về sau!
Hường định lấy tấm giấy Ra Trại đưa gia đình đi trình tạm trú, nhưng nghe bà nói thế, đứng lên, chào ba mẹ, lầm lủi bước ra khỏi khu xóm chật chội trong bóng đêm.
*
* *
Trong số khách đợi tàu xe, Giữa cảnh bon chen ô tạp, một góc sân, Hường bắt chợt một nhóm năm người, họ ngồi yên lặng, gương mặt thanh tú, nước da trắng mịn, ít nói chuyện, phong cách thanh thản. Trang phục cũng không giống người thường. Một góc tối bến xe hòa lẫn với sắc phục của họ, đã làm chìm khuất nhóm người như xã hội đang muốn quên họ. Hường lân la tiếp xúc, biết họ là những tu sĩ, trong buổi giao thời, việc đi lại khó khăn, họ không muốn chiếc áo dài của họ phải va chạm với xã hội, tạo sự lưu ý với những ai chưa thông cảm ; họ mặc đồ ngắn nhuộm màu măng cụt, trông giản dị.
- Thưa…quý vị đi về đâu? chả hiểu tại sao Hường không đủ can đảm dùng tiếng thầy hoặc sư để nói chuyện với họ; có lẽ trong thời đại mới đổi thay, mọi tập quán và ngôn ngữ cũ như có cái gì khó thích nghi; chả lẽ gọi họ là anh hoặc chị, có vẻ khiếm nhã. Văn hóa dân tộc thừa ngôn từ chỉ cho ngôi thứ, đâu chỉ có nghèo nàn trong hai chữ anh-chị. Trong trại giam, từ trẻ con phạm tội hình sự đến các bác, tuổi trên 70, họ vẫn được gọi bằng anh khi cán bộ gọi lên thẩm vấn; Hai tiếng anh-chị của ngôi thứ hai trở nên phổ biến trong xã hội đồng đẳng thay thế ông-bà-cô bác…cũng may, hai tiếng bố-mẹ vẫn còn được dùng đối với các đấng sinh thành.
- Dạ, chúng tôi về quê…một trong số tu sĩ ôn tồn đáp.
- Quý vị ở đâu mà về quê, nhà chùa cũng đoàn tụ gia đình để ăn tết? Hường vừa thấy mình hỏi những câu ngớ ngẩn khi biết sinh hoạt xã hội chưa vào nề nếp ổn định; Dân tộc nặng tính lễ tục, ba ngày Xuân, cho dù cuộc sống thế nào, con cháu cũng phải họp mặt đón ông bà, thăm thân nhân. Có những trường hợp ngoại lệ, như Hường.
- Dạ, chúng tôi không phải về quê ăn tết; chúng tôi ở Sài gòn, không có hộ khẩu, nay chùa này, mai chùa nọ lây lất để đi học. Mặc dù nước nhà thống nhất đã năm năm rồi, chúng tôi vẫn chưa xin nhập hộ khẩu được.Nếu bị bắt vì tội cư trú bất hợp pháp thì thầy trụ trì phải bị kiểm điểm và đóng phạt, vì thế, chúng tôi không thể có chỗ ở nhất định. Tết, trường nghỉ, chúng tôi phải về lại quê, có người về lại chùa tổ, có kẻ về với gia đình. Riêng thầy đây, - vị tu sĩ trẻ chỉ người ngồi cạnh, nói – không có gia đình mà cũng không có thầy tổ, thầy theo chúng tôi để tìm chút hương vị thiền môn của những ngày đầu Xuân ở quê mình.
Hường thắc mắc, một tu sĩ không có gia đình, cũng không có thầy tổ nghĩa là thế nào! Trong các trường cải tạo hay khám Chí hòa, Hường không ngạc nhiên có lắm mảnh đời bất hạnh, có những trẻ em bị thất lạc bố mẹ trong cuộc chiến, chúng sống bên lề xã hội, biến thành tội phạm vì ổ bánh mì để sống qua ngày, một tu sĩ mà không có thầy tổ là chuyện lạ.
- Vậy thầy ở đâu và xuất gia từ đâu? Hường lễ phép và thân thiện tìm hiểu.
- Mô Phật, chào em; Tôi được nhà chùa nuôi từ lúc ở bệnh viện, khi mẹ tôi qua đời bởi khó sanh. Nghe thầy tôi nói, bố tôi hy sinh trên chiến trường Hạ Lào cũng là lúc mẹ lâm bồn, không thân nhân, bệnh viện báo, nhà chùa xin bảo lãnh nuôi. Ngôi chùa thầy tôi ở ngọn đồi gần sông Thu Bồn, xa dân; trong trận chiến 1968, đạn pháo, không rõ của bên nào, làm sập chùa, thầy tôi và vài huynh đệ đã chết, tôi bị thương, hơn nửa năm chữa trị, trở về, tôi đành lang thang tá túc khắp nơi. Vào Sài gòn rất lâu, nhưng vì mình không có thầy tổ, đành nương tạm các chùa để học, ngày lễ ngày tết, họ kiểm soát chùa kỷ lắm, nên tháp tùng về tìm hương vị Xuân dưới mái chùa quê của quý thầy. -vị tu sĩ trẻ đưa ánh mắt vào cỏi mông lung, chậm rãi kể.
Nghe đến hương vị Xuân, Hường cảm thấy chua xót. Lần đầu tiên nằm trong xà lim, tiếng pháo rộn rã bên ngoài, đâu đó các phòng tập thể, một giọng hát lẻ loi u uẩn vọng qua các song sắt nhạc bản: Xuân nầy con không về. Anh em được thân nhân thăm nuôi, bày biện bánh trái, quây quần đón giao thừa; Hường nằm quay mặt vào vách nghe nỗi cô đơn thấm đẫm; bấy giờ Hường mới thấm thía kiếp mồ côi!
*
* *
Chợ đời hiện rõ nơi bến xe, sân ga, chen lấn, xô đẩy, không ai nhường ai; một người vừa ra khỏi hàng khi lấy được vé, giòng người liền đùn đẩy nhau tiến lên; ai đó chen vào, đã bị tiếng la ó mắng chưởi tục tĩu, xỉ vả ùa đến; kẻ xấu lợi dụng chen lấn móc túi; mùi ẩm mốc, mùi xăng nhớt, mùi thuốc lá, mùi hơi người, mùi gà vịt, tiếng máy nổ, tiếng gọi nhau, tiếng chó tiếng heo nằm trong giỏ; nhạc xập xình, đèn chiếu sáng, đèn màu khắp nơi như thước phim diễn tiến bất tận. Mỗi chuyến xe bán hơn phân nửa số vé, còn lại họ tuồn ra ngoài chợ đen.Hường nghĩ, cuộc đời là thế ư? Tuy phức tạp của cỏi ô trược, các tu sĩ ngồi chờ giờ khởi hành, trông họ vẫn an lạc, bình thản. Từ trong bến, một phụ nữ tay bế con, tay xách hành lý, lếch thếch, kêu gào khóc lóc, tìm đến người bảo vệ: Chú ơi, chú giúp con, bọn nó xách mất giỏ đồ của con, trong đó vé xe, thức ăn đi đường, quần áo quà cáp và giấy tờ…
Chị ta đang ngồi, đồ để dưới chân, người bên trái thúc cùi chỏ, chị vừa quay qua, thì kẻ khác kéo giỏ xách của chị chuyền tay đồng bọn; Hường biết rằng, người đàn bà, khốn khổ hiện trên nét mặt, sẽ không có cơ hội về quê trong lúc nầy, chàng vét cạn túi những đồng còn lại, đồng tiền do trại cấp cho về xe, chàng đưa cho người phụ nữ với những lời an ủi, các tu sĩ cũng góp thêm cho đủ vé; bà ta lại sắp hàng chờ đợi, có lẽ ngày hôm sau vé mới đến lượt bà.
*
* *
Các tu sĩ lên xe, chia tay Hường, chàng nhận được địa chỉ ngôi chùa quê ở Tam Kỳ, hy vọng mình sẽ tìm đến. Sáng hôm sau, chuyến xe nhét người như hủ mắm; những năm sau ngày nước nhà thống nhất, việc đi lại khó khăn, mọi người đều chấp nhận, cho dù phải đứng suốt đoạn đường gần ngàn cây số. Mọi người nôn nao phấn khởi về lại quê sau những năm tháng bon chen nơi xứ người, Hường không có cái tâm trạng đó, cũng chả biết sẽ về đâu. Trong phòng giam năm bảy chục người, nằm sắp lớp, trở đầu như cá mòi thì chuyến xe như thế nầy, tạm thời vài ngày cũng chả sao, miễn nhẹ cánh tự do là quý rồi!
Từ Hàm Thuận, Phan Rang cho đến Quảng Nam, hai bên quốc lộ dân cư vẫn còn lưa thưa, nhà cửa tuy có sơn phết đón xuân, nhưng không dấu được nét nghèo nàn; bên sau dãy nhà mặt đường quốc lộ là những mái tranh vách đất lụp xụp tăm tối; đàn ông vận áo dài khăn đóng đứng trước bàn thờ gia tiên, các bà mặc bộ lãnh đen, trẻ con quần áo sặc sỡ, chơi ngoài phố nhìn kẻ qua lại. Các cội mai già trong sân cũng cố xòe vài nụ vàng mừng Xuân, tất cả vẫn biểu hiện nét cơ cực của cuộc sống trên mãnh đất cằn cỗi. Hường xuống xe ở cầu Bà Rắn, thả bộ vào đường đê, tìm khu xóm còn ẩn hiện mường tượng trong trí nhớ từ thưở bé, hình như nhà cửa nhiều hơn lúc trước. Gia đình nào cũng có hoa quả trên bàn thờ.Tấm giấy màu đỏ, chữ đen, viết nguệch ngoạc dán hai bên cửa ra vào: Nghinh Xuân Tiếp Phúc, tấm khăn trải bàn có lẽ chỉ xử dụng vào những ngày tết nhất giổ chạp nên nếp gấp còn nguyên vẹn.Hầu như nhà cửa, trang trí, thờ phượng đều giống nhau. Giữa nhà là bàn thờ Phật, hai bên là tổ tiên, cửu huyền. ngay lối ra vào là cái bàn, bốn cái ghế. Bên phải là bộ ván ngựa, bên trái là bồ lúa. Hường rảo một vòng, không tìm thấy gương mặt nào quen thuộc ngày xưa, chàng cũng không dám hỏi, biết đâu người lạ mặt ở trong gia đình vào đầu năm mới, họ kiêng kỵ! Có gặp bà con, chàng cũng không dám nhìn, vì ở xa lâu ngày về chả lẽ chỉ có đôi tay trắng, đem thân đói rách vào nhà người ta, cuối năm sống bám!
Miền quê nghèo khổ như thế, bao năm xa xứ, cứ mãi ám ảnh chàng trong những giấc chiêm bao; ước ao được về nhìn lại quê mình, giờ đã toại nguyện, nhưng mọi sự đã đổi thay, Hường không dám nghĩ là sự thật. Một lần nữa, cảm giác hụt hẩng như người đã mất hẳn chỗ đứng trên quê hương mình, người chàng tợ chiếc bong bóng chập chờn giữa không trung, chưa biết về đâu, năm hết tết đến.
*
* *
Trời xế bóng, bụng đói cồn cào, Hường nhặt quả dưa hấu úng nằm cạnh bờ ruộng, cắn ngấu nghiến phần chưa thối, một cảm giác khoan khóai, mát ngọt chạy xuống cổ họng, tựa lưng vào gốc sầu đâu, ngồi nhìn áng mây lãng đãng không muốn bay, như chàng không buồn lê đôi chân mỏi nhừ, chúng cố níu ánh sáng mặt trời trước khi chìm vào bóng đêm; Đàng xa, in trên chân trời chiếc bóng người phụ nữ khập khểnh tay xách nách mang khó khăn đi trên bờ ruộng nhỏ hẹp, càng đến gần, Hường cảm giác như bà con quen thuộc trong làng quê của chàng. Người phụ nữ nhìn Hường, để xách đồ xuống, thở ra mệt nhọc.Mồ hôi dán sát những sợi tóc mai hai bên thái dương:
- Cậu đi đâu mà ngồi đây?
- Dạ, cô là…Hường ngần ngại không biết nói tiếp những gì, như sắp đuối vớ được phao
- Cậu quê ở đây? người phụ nữ nhìn Hường ngạc nhiên, cách trang phục của Hường cho người phụ nữ biết chàng không phải là cư dân thôn xóm nầy. đứa bé ngồi trong túi vải đeo trước ngực ngoẻo đầu ngủ ngon lành.
- Dạ, nhưng…Hường vẫn ấp úng. Từ trong xóm, vài tiếng pháo lẻ đì đùng như thúc hối người phụ nữ nhanh gót; tiếng nổ xé nát tâm hồn Hường.
- Cậu quên tôi rồi sao?
- Hường cố moi trí nhớ những hình ảnh bà con dòng họ khi còn bé, vẫn không nhớ nổi
- Cậu bà con với ai trong làng nầy?
- Dạ lâu lắm tôi không về, hình như tôi có người bà con tên Sở! Hường ngần ngại xác định.
- Đúng rồi, ông ta mất lâu lắm, con cháu tứ tán từ thời chiến tranh.
- Vậy cô là…
- Bây giờ cậu trú ở đâu? Nàng không trả lời câu Hường hỏi
- Dạ chưa biết.
Người phụ nữ nhìn Hường, đoán biết thanh niên nầy đang gặp khó khăn. Từ Sài gòn ra quê mà đi tay không, áo quần thiếu gọn gàng, đầu tóc như rối bù, mặt mày hốc hác…
- Mời cậu về nhà tôi nghỉ tạm.
Hường xách hộ giỏ đồ, bước theo sau người phụ nữ vào cuối làng.
Chui vào ngôi nhà ngói vách đất, nàng để giỏ đồ và đặt nhẹ em bé nằm trên bộ ván: - Thưa mẹ, con mới về, ba đi đâu hở mẹ, mấy em đâu?
Bà cụ ngồi trong góc tối nhai trầu bỏm bẻm, lấy tay dụi mắt nhìn ra cửa, tuy không nhìn rõ hình dáng con gái, qua giọng nói, bà lên tiếng:
- sao con về muộn vậy? ba con xuống cúng chùa rồi ra đình, sắp nhỏ đi chơi ngoài xóm. Con dắt đứa nào về nữa đó?
- Xe khó mua vé lắm mẹ. Cậu đây giùp tiền cho con mua vé, đồ của con bị chúng xách hết rồi, cuối năm mà vẫn còn xui. Nàng chép miệng. Nhà mình chưa sắm sửa gì hết vậy mẹ.?
- Tiền đâu mua sắm con, chờ con về mua đồ cúng và áo quần cho mấy em con đó. Bà cụ từ tốn nói.
Người phụ nữ như nghẹn, nước mắt thấm hai khóe, nói, con mất hết tiền và quà cáp, mẹ à.
Suốt một năm vào Thành phố làm thuê, bán mướn, gom góp ít tiền về làm quà tết cho bố mẹ, không ngờ cúng hết cho cô hồn sống. Nàng hơn Hường vài tuổi, tha phương cầu thực được ba năm, người chồng cùng đi với nàng, vào Nam làm thì ít, ăn chơi thì nhiều, vỡ nợ, bỏ nàng và con, trốn biệt.Hường áy náy khó xử, bỏ đi , chẳng biết đêm nay trú ở đâu, ở lại, thêm miệng ăn trong lúc gia cảnh nàng đang khốn cùng.
- Mẹ đi vay tạm ai đó, qua tết mình gửi trả. Nàng góp ý với mẹ
- Cuối năm rồi mượn được ai, họ còn phải lo cho gia đình đón tết; làng mình ai cũng nghèo hết con à. Bà cụ buồn bã đáp.
*
* *
Thế là Hường cũng tìm được đến chùa của quý thầy, nằm cuối đám ruộng khô nứt nẻ, bao quanh nhiều cây cao bóng mát, xa núi độ hai ngày đường bộ.Hòa Thượng trụ trì vóc dáng cao gầy, khỏe và có đôi mắt sáng, tuổi độ lục tuần; Trông nét từ bi mà Hường cảm nhận như một vị cha thân thiện. Quý thầy sau khi giới thiệu với Hòa Thượng, đưa Hường vào chánh điện lễ Phật, vòng quanh các tháp tổ, thăm viếng vườn tược. Hường tận hưởng một sinh khí thanh nhàn thoát tục giữa chốn hoang liêu nghèo khó.
- Hàng ngày quý thầy đi học ở Sài Gòn, ai giúp HT công việc đồng áng?
- Hòa Thượng tự làm, còn lo cung cấp cho chúng tôi ăn học nữa; ngài mới nhận hai chú điệu, phụ giúp quét dọn trong chùa và tưới cây, mót củi. Em không có gia đình, có muốn về ở với Hòa Thượng ? Một tu sĩ trẻ thăm dò Hường
Nghe hỏi, như đánh trúng yếu điểm, Hường ngần ngại đáp, - Thưa thầy, ở đây có bị khó dễ hộ khẩu không ạ?
- Em có giấy ra trại mà! Tạm trú thời gian rồi xin nhập khẩu. vị tu sĩ trấn an Hường.
Đêm đầu tiên sống với nhà chùa giữa ruộng vườn thanh vắng. Ngoài sân, quý thầy đẩy củi vào miệng bếp, cái nồi lớn và cao đầy nước nằm giữa ngọn lửa bập bùng, chờ những đòn bánh tét cho vào để ông táo, nồi nước và bánh cùng reo chào giờ giao thừa. Trên trời đầy sao nhấp nháy trêu cợt cỏi nhân sinh. Lần đầu tiên, Hường cảm nhận được sự thanh bình từ trong tâm mình. Gió núi, hương đồng nội, bầu trời đêm quyện lẫn nếp sinh hoạt thiền vị, tương phản hẳn sự nhộn nhịp ở phố phường; vắng mặt sự lừa đảo cướp giựt nhau để sống; không có cảnh nghèo đói lây lất và kẻ vung tiền qua cửa sổ trong các nhà hàng sang trọng
Hường ngây người, nghĩ đến vị tu sĩ mồ côi đang hòa nhập chúng, hay nghĩ đến thân phận mình. Hàng trăm con người lao xao trong bến xe, sân ga, là có hàng trăm mảnh đời khác nhau, có những bất hạnh khác nhau. Hường tuy là con đẻ, nhưng khi mang bầu, mẹ Hường bị bố ngờ là có thai bởi một người tình cũ của mẹ, vì thế, khi sinh ra, Hường thiếu tình thương của bố; để gia đình được êm ái, mẹ đành cho Hường làm con nuôi người khác, người mẹ nuôi mất lúc Hường hơn 10 tuổi. Hường phải vào trại mồ côi. Mẹ đẻ của Hường cũng thiếu sự mặn mà đối với Hường.Ra xã hội, Hường sống lây lất ở các vỉa hè, đánh giày, bán báo, tối về, trọ một ngôi chùa ở ngoại ô. 1975, Hường gần 18 tuổi, lúc mọi người xôn xao tán loạn, Hường giúp một số người thất lạc thân nhân, hoặc bị thương, vào tạm trú ở chùa, Hường nhặt được chiếc áo rằn ri còn mới, đôi giày lính và cái mũ. Lúc mặc vào để giúp tải thương và dọn dẹp đường phố, Hường cảm thấy hãnh diện và oai vệ của tuổi vừa mới lớn.Cán bộ xã gọi lên, tra vấn Hường, không hộ khẩu, không giấy tờ tùy thân, lý lịch không rõ ràng, đưa Hường về Chí Hòa, sau đó ra lao động tập trung cải tạo không thời hạn. Cuốn phim đời mình quay lại như quả đất đang quay lại chu kỳ 365 ngày, mọi người nhớ lại cội nguồn tiên tổ, Hường nhớ lại hơn 20 năm trôi qua trên cỏi đời, nó mỏng manh như ngọn cỏ giữa gió Xuân; Đời người vô nghĩa như mãnh giấy ra trại đang cầm trên tay; khi bị bắt, Hường không biết mình tội gì, khi thả ra, Hường không rõ mình cải tạo cái gì để được xác nhận cải tạo tốt. Cũng thế, khi đầu thai làm người, mình chưa hề được hỏi ý kiến, bước vào xã hội, mình không có quyền chọn lựa cuộc sống theo sở thích. Tất cả nằm trong quy luật sống cộng đồng, việc chọn cho mình một tương lai, còn tùy thuộc nhiều yếu tố tâm lý và xã hội, chưa hẳn theo đúng ý mình. Quan quyền, địa vị, dân giả, giàu nghèo…chúng làm thành một bức tranh xã hội; mạnh được yếu thua là định luật của mọi động vật thiếu căn bản tình thương và sự hiểu biết. Nhìn lên Đại điện, Hường cảm nhận một điều, nhang trầm quyện khói vẫn bay lên và bụi trần tục bên ngoài luôn chìm xuống. Hường suy gẫm để chọn cho mình một quyết định ngã rẽ cuộc đời.
*
* *
Trước khi quyết định có nên quay về với chùa núi, Hường được Hòa Thượng cho tiền vào lại Sài Gòn thăm những người quen biết hơn 5 năm về trước; Không vào ngay Sài Gòn, ra Đà Nẵng, Hường thả bộ dọc sông Hàn, nhìn qua núi Sơn Trà, ngọn núi vẫn xanh và trầm lắng như ngày nào; Thành phố đón Xuân có khác hơn thôn quê. Cư dân ăn mặc đẹp hơn, sang trọng hơn. Sinh hoạt chưa nhộn nhịp trở lại như thời chiến, nhưng sự sống vẫn ngấm ngầm phát triển. Đà Nẵng không xô bồ như Sài Gòn, cũng không trầm lắng như Huế, nó có nét thơ mộng riêng biệt. Về đêm, đèn mờ khắp phố phường xuất hiện, nhập nhòa ánh sáng dưới giòng nước xanh um. Hường chọn chiếc ghế đá ngả lưng nhìn bầu trời đang thở.Thoảng nghe tiếng người phụ nữ giọng quen thuộc, đang ngã giá cải cọ với người xe ôm, Hường nhổm dậy.
- Chị đi đâu vậy? Hường vụt miệng mà hôm qua còn gọi bằng cô, người xe ôm thấy có chàng thanh niên quen, can thiệp vào, ông ta nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, lên xe chạy vội.
- Sao cậu lại ra đây, có quen ai ngoài nầy? người phụ nữ ngạc nhiên hỏi
- Dạ không quen ai hết, em muốn đi chơi thăm Thành phố. Hường đáp
- Tôi định ra thăm bà con ở Đà Nẵng trước khi vào lại Sài gòn. Hay là cậu về với tôi. Tôi mướn nhà riêng tại Quận 8, có hai mẹ con thôi. Người phụ nữ đợi xem phản ứng của Hường. Nhìn chàng, người đàn bà biết là một thanh niên chất phác, độc thân, không có nét hư hỏng sa đọa.
Đang đứng trước ngã ba, về lại cuộc sống lang bạt, vào quy y chùa núi, hay chung sống với người đàn bà? Hường mời người phụ nữ ngồi. Hai người chìm vào im lặng.
- Cậu đừng ngại, tôi biết cậu đang cô thế và khó khăn. Người phụ nữ chân thật mời mọc.
- Chị cho tôi thời gian suy nghĩ. Hường miên man nghĩ ngợi. Lúc khốn đốn không nhà, được hai nơi mời mọc. Hẳn nhiên nhà chùa có cái tâm vô vị lợi. Người phụ nữ muốn giúp, lại có cái tâm nương tựa lẫn nhau. Dẫu sao, người nghèo dễ cảm thông và gần gũi nhau hơn. Kẻ giàu sang chắc gì giúp cho chàng bữa ăn trong lúc nầy; nhà giàu làm sao hiểu được tâm trạng kẻ không nhà trong những ngày đầu Xuân mà mọi gia đình đang đoàn tụ hạnh phúc! Không, mình không thể chọn nhà chùa làm chốn thoát thân, cũng không thể nương nhờ người phụ nữ đang cô thế. Với tuổi trẻ và thân hình toàn vẹn, mình phải vươn lên và giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình.
- Dạ, em sẽ nhờ chị giúp cho chỗ trú thân để tìm việc làm, em không hứa với chị bất cứ điều gì, sau nầy sẽ tính.
Đêm sông Hàn, đường vắng, từng luồng gió mang hơi nước phả vào ven bờ; đèn đường chập choạng ánh sáng, thỉnh thoảng, vài tia đèn xe hai bánh quét qua ghế đá. Hai người chìm sâu vào bóng đêm trong ngày đầu Xuân. Chỉ có hai người và giòng nước đang lặng lờ hòa cùng nhịp sống của vũ trụ. Hường móc túi, lấy ra tấm giấy phóng thích, châm lửa đốt, ngọn lửa lóe lên rồi chìm ngấm vào bóng đêm, như đời người, chợt xuất hiện vài mươi năm rồi đi vào dĩ vãng. Chàng phá lên cười, cầm tay người phụ nữ đi về phố vắng, mất hút trong đêm!
MINH MẪN
09/01/10
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét