Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2010
HOẰNG PHÁP LỢI SINH
Hoằng Pháp thị gia vụ, đó là tiêu điểm cho ngành truyền giáo trong đạo Phật.Tại sao Hoằng Pháp lợi sanh? Đó là một mệnh đề hay hai mệnh đề: Hoằng pháp - Lợi sanh?
KINH TẾ:
Từ thời Đức Phật sanh tiền đến thế kỷ 15 sau Tây lịch, Ấn độ nói riêng và thế giới nói chung, tiềm năng kinh tế nằm trong lòng đất, đại dương còn dồi dào. Nông nghiệp chưa khai thác hết lợi tức của đất màu, ngư nghiệp chưa tận thu từ biển cả; Lâm nghiệp còn nhiều hứa hẹn từ núi rừng; Dân số còn quá thấp so với diện tích địa cầu. Đất hoang còn trống; nhu cầu tiện nghi chưa cao. Con người gắn liền với thiên nhiên và muôn thú. Chính vì thế kinh tế chưa phải là điều bận tâm của nhân loại.
Xã hội còn sinh hoạt đơn lẻ, kinh tế phần lớn tập trung vào doanh thương, các nhà buôn đường xa trao đổi hàng hóa xuyên qua biên giới. Các doanh nhân địa phương không phát triển mạnh như hiện nay, bởi lẽ, ngoài nông nghiệp truyền thống, các ngành nghề khác chưa phát triển quy mô, mức thu nhập người dân còn hạn chế, nhu cầu hưởng thụ không phổ biến. Tâm hồn con người giản dị và gần gũi với thiên nhiên; đạo đức nhân cách còn coi trọng; Người dân các nước châu Á có khuynh hướng sùng bái ngẫu tượng. Các tôn giáo cổ nặng về cúng tế, nhất là tại Ấn độ, chiếc nôi của các Thần linh, tạo cho quần chúng an phận, an phận kiếp người cũng như an phận giai cấp, đào sâu tính bất bình đẳng trong xã hội mà ngày nay vẫn còn một số quốc gia chưa xóa nhòa.
Chính những cám dỗ đời thường là một trong những lực kéo con người xa rời đạo đức xã hội và đạo đức tâm linh. Như vậy, nhu cầu chính yếu hiện nay không phải là Đạo đức tín ngưỡng mà là quyền lợi vật chất. Điều oái oăm, càng phát triển khoa học, nhu cầu càng tăng, kinh tế các quốc gia lâm vào khủng hoảng. Tuy GDP vững mạnh như Nhật Bản, thế mà qua cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới, năm 2009 tăng trưởng âm 4.3% và dự đoán 2010 sẽ tăng trưởng âm 1%. Mỹ giảm 5% năm 2008, thì Việt Nam tăng 0,3%. Phần lớn các quốc gia phải đối đầu với thiên tai, bạo động, xuất khẩu, biến đổi khí hậu cộng thêm khan hiếm dầu mỏ và ô nhiễm môi sinh.
Trước 1975, miền Nam, một gia đình năm sáu người con là chuyện thường, việc học hành và đời sống gia đình không bị khủng hoảng. Một người có thể làm nuôi sống nhiều miệng ăn. Bác phu cyclo làm vài cuốc, cất xe, về nhậu; nông dân làm một vụ mùa sống cả năm; thầy giáo nuôi nhiều con ăn học thành tài…thời chiến đã thế, nhưng lúc đất nước thanh bình, cuộc sống lại chật vật; không riêng tại quê nhà, một số quốc gia đang phát triển cũng chịu chung số phận, chạy nước rút để kịp theo các quốc gia công nghiệp tiến bộ. Dĩ nhiên dân số trên tinh cầu gia tăng, một số quốc gia chậm tiến không kiểm soát được sanh đẻ; đồng bào sắc tộc cũng không ít con trong một gia đình. Các gia đình Ấn, Nepal, châu Phi…và những quốc gia ảnh hưởng tôn giáo cấm ngừa và phá thai, không hạn chế việc sinh sản. Đồng bào miền cao của Việt Nam cũng thế, riêng các thị tứ Việt Nam, gia đình đông con lắm cũng từ bốn đến ba người, phần lớn là một hoặc hai theo lời kêu gọi của nhà nước.Việc dân số gia tăng và kinh tế mỗi ngày một hạn hẹp khi mà mọi tiềm năng đã bị tận dụng.
Thế giới dùng dầu hỏa làm nguồn nhiên liệu chính cho cơ giới và mọi sinh hoạt xã hội, các nước bắt đầu chạy đua khai thác, một số quốc gia có trữ lượng dầu khá lớn, liền bị các nước lớn chèn ép, tận thu hoặc khống chế, vì thế, dầu trở thành mục tiêu cho các quốc gia đánh giá sức mạnh về kinh tế của chính mình. Các quốc gia trên đà phát triển cần tiêu thụ lượng lớn dầu, đã làm nghiêng lệch cán cân phân bố trên thế giới về nguồn dầu, tạo khủng hoảng kinh tế và tài chính do giá dầu liên tục tăng nhanh và tác động thị trường trên nhiều mặt. Như năm 2004, giá dầu tăng trên 55 USD một thùng. Một khi dầu tăng thì vàng tăng, ngược lại có khi giá trị ngoại tệ như dollar lại giảm.Năm 2008, giá dầu tăng 147/USD/thùng, khủng hoảng tài chính, tín dụng đẩy nền kinh tế thế giới vào cơn suy thoái Tuy nhiên không hẳn giá nhiên liệu khủng hoảng nhất thiết phải kéo theo sự khủng hoảng mọi mặt, ví dụ năm 2006, mặc dù giá dầu liên tục biến động, kinh tế thế giới vẫn được phục hồi và tăng trưởng, châu Á trở thành biểu tượng trung tâm tăng trưởng kinh tế toàn cầu.Dầu hỏa trở thành nguồn nhiên liệu chính quyết định sự hưng vong của một quốc gia phát triển.
Những thế kỷ 19 trở về trước, kinh tế các quốc gia mạnh được đánh giá bởi thị phần thuộc địa chiếm được, nguồn giao thương hàng hóa và tăng gia sản xuất; Pháp là một trong những nước bành trướng thuộc địa mạnh nhất sau đệ nhị thế chiến. Sang thế kỷ 19, Pháp chiếm Algerie, chiếm Nam kỳ 1867-1874, sau đó Pháp chiếm Bắc kỳ năm 1884, Trung kỳ 1885 để lập chế độ bảo hộ, đặt chế độ bảo hộ Campuchea năm 1863 thành lập Liêng Bang Đông dương 1887. Trong hai thế kỷ 19-20, thuộc địa Pháp đứng sau đế quốc Anh. Diện tích thuộc địa Pháp chiếm 12.347.000km2, dân số thuộc quyền cai trị của Pháp là 2.543.000 người lúc bấy giờ.
Anh quốc cũng thống trị quần đảo Turks, Caicos, nam Georgia, nam Sandwich, quần đảo Pitcairn, Caymon, Falkland,, Montserrat, Hồngkông…
Trước và sau thế chiến, các cường quốc tìm thị trường bằng cách thống trị thuộc địa qua tôn giáo và vũ lực.
Mãi đến khi thế giới chia làm hai cực: Tư Bản và Cọng sản; Tư bản phát triển kinh tế theo hướng đại chúng, Cọng sản thiết lập kinh tế theo hướng tập trung. Lúc bấy giờ kinh tế trở thành trọng điểm phát triển xã hội; mọi ngành nghề theo đó phát triển, và nhu cầu hưởng thụ cũng gia tăng.
*
* *
HOẰNG PHÁP
Thưở sinh tiền, Đức Phật chú trọng đến tính giác ngộ và sự bình đẳng.xóa mọi giai cấp và hủ tục lỗi thời, đề cao mọi người đều có giá trị như nhau, kể cả phụ nữ và trẻ em. Chính vì thế, sau khi chứng ngộ, Đức Thích Ca thấy được tính bình đẳng trong mỗi chúng sanh, vì mê chấp mà có sai biệt nghiệp lực. Suốt 49 năm hoằng hóa, mục đích của Ngài khai thị cho mọi người thấy được khả năng trí tuệ của mình hầu chủ động trong cuộc sống.
Sinh hoạt thường ngày của Tăng đoàn, ngoài giờ hóa duyên, Thiền định, chư Tăng tỏa ra khắp nơi để hoằng truyền chính pháp. Đức Thế tôn từng bảo – vì lợi ích cho chúng sanh, quý thầy hãy đi khắp nơi, không đi hai người một chỗ…
Lợi sanh trong giai đoạn khởi phát truyền bá giáo pháp Đạo Phật là như vậy. Đức Phật muốn nhân loại khôi phục tánh giác để thấy được giá trị cao quý của kiếp người. Ngài bảo: "Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn".
Do giới Tăng lữ của Bà La Môn nắm địa vị tế lễ tín ngưỡng cấu kết với quan quyền, hoạch định ra giai cấp, chia xã hội làm nhiều thứ bậc ảo tưởng để thống trị xã hội. ( Rig Veda ghi rằng: tu sĩ Bà La Môn sinh ra từ miệng Thượng Đế, giới lãnh đạo và binh sĩ sinh ra từ đôi bàn tay Ngài, đôi chân sinh ra thương gia, hai bàn chân Ngài ranh ra tôi tớ cho xã hội.) Qua nhiều ngàn năm như thế, người dân Ấn tin rằng vị thế trong xã hội của mình đã được an bày, do đó, chấp nhận một cách an phận bởi truyền thống gia phong. Ngược lại, Trung Hoa cũng chia xã hội làm bốn giai cấp, nhưng giai cấp ở Trung Quốc không tùy thuộc giòng tộc mà tùy thuộc ngành nghề trong cuộc sống, Sĩ-Nông-Công-Thương. Khi mà kinh tế xã hội ổn định thì vị thế kẻ sĩ được đề cao tôn quý, lúc khủng hoảng gạo cơm thì: Nhất nông nhì sĩ ( nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ) Giai cấp trong xã hội Trung Quốc không cố định khi mức sống và ngành nghề đổi thay.
Do phân định giai cấp mà con người bị đóng khung, an phận trong giai cấp của mình, không có óc cầu tiến, vượt thoát! Trong xã hội tùy mỗi thời đại phát sanh thêm những ngành nghề khác nhau, cho dù lao động chân tay hay lao động trí thức, cho dù doanh thương hay giáo dục, tất cả đều có giá trị như nhau, không thể đề cao giai cấp nầy, liệt hạng giai cấp khác để phân hóa xã hội, tạo hận thù tranh đấu như bầy gà bôi mặt đá nhau.
Hoằng pháp vào thời Đức Phật hiện tiền đem lại lợi ích cho nhân sinh bằng cách khôi phục giá trị tuyệt đối đời người mà không còn tùy thuộc sâu nặng bởi Thần linh. Ấn Độ không có khuynh hướng hưởng thụ, xem cuộc sống là cỏi tạm, họ chú hướng về tâm linh, nhưng một loại tâm linh nô lệ hóa bởi tha lực. Đây là sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo tại Ấn. Có những người chưa nắm vững giáo lý đạo Phật, vội cho Đức Phật cóp nhặt tư tưởng của Bà La Môn giáo; nhưng xét kỷ, hai hệ tư tưởng hoàn toàn cách biệt; Vệ đà, một học thuyết hình thành khá sớm do nền văn minh của Aryans từ Trung Á truyền sang. Bấy giờ Vệ Đà có bốn lãnh vực: Rig Vệ Đà, đề cao sự hiểu biết, Yajur Veda chú trọng về tế tự, Samma Veda thiên về mật chú thi ca, và một loại Veda học giả chuyên nghiên cứu nội điển. Cho dù lãnh vực nào, người ta vẫn chấp nhận có một đấng sáng tạo. Người thờ lửa thì tin thần lửa lả chủ tể cuộc sống, đất, nước, gió cũng vậy đều là những vị thần chủ quản mà tín đồ tuyệt đối tin tưởng. Phật giáo không đề cập đến đấng hóa sinh, không chấp nhận bốn giai cấp mà những tôn giáo có trước đã phân định. Tính bình đẳng và tự giác của Phật giáo đã san bằng mọi bất công trong nền tín ngưỡng đương thời. Đây là nét cá biệt độc đáo từ tinh thần cách mạng của Đức Phật. Chính vì sự quan trọng cần phải giải phóng sự nô lệ đức tin để đưa con người lên vị trí chủ thể, Phật giáo xem việc Hoằng Pháp đem lại lợi ích cho nhân sinh là điều tối cần: HOẰNG PHÁP LỢI SINH
Qua nhiều thế kỷ, Phật giáo truyền sang nhiều quốc gia, trong đó có những quốc gia nặng về vật chất, lấy lợi nhuận làm cứu cánh, lấy hưởng thụ làm hạnh phúc, dùng tiện nghi làm thước đo sung túc, xem danh lợi địa vị khoa bảng làm thước đo thành đạt.Tiếp tục đẩy xa giá trị cơ bản của con người ra khỏi ý thức thăng hoa.Với kinh nghiệm thực dụng đó, các tôn giáo phương Tây, từ tổ chức nội bộ đến sinh hoạt cộng đồng tín hữu, đều liên kết vật chất song hành với đời sống tín ngưỡng. Một linh mục quản xứ được hưởng những quyền lợi như một cán bộ nhà nước, có cả chế độ hưu bổng do giáo hội quy định. Tín đồ có quyền làm giàu mà không mang mặc cảm tham đắm vật chất như một tín đồ Phật giáo. Giáo hội Kito có ngân hàng và tích lũy tài sản. Một tu sĩ cũng như tín đồ Kito giáo vừa có dức tin vừa có quyền hưởng thụ mọi phong phú vật chất. Thệ Phản giáo, sau khi tách khỏi Vatican, cải cách tín điều, phương pháp hành trì, kể cả phương pháp truyền bá. Mặc dù Anh Quốc xem như thủ phủ của Thệ Phản giáo, nhưng Mỹ là mãnh đất màu mỡ để trên 250 giáo phái Tin Lành song hành với quân đội phát triển đến các quốc gia tham chiến, như Vatican từng là bóng với hình bên quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Và sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt,từ 1990, Tin lành giáo ồ ạt xâm nhập một cách linh hoạt vào Việt Nam qua ngã Lao động xuất khẩu, những thuyền nhân và công nhân làm thuê các nước, đã được Tin Lành giúp đỡ bước đầu, biến họ thành những người truyền giáo đắc lực sau khi hồi hương. Dĩ nhiên vật chất là phương tiện dễ dàng cho việc cấy hạt giống đức tin vào cộng đồng nghèo khó. Ông bà thường bảo: Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Các công nhân trong nước, họ sẳn sàng hổ trợ thêm một suất tiền tương đương lương mỗi tháng nếu chấp nhận gia nhập Hội Thánh. Nơi miền cao, miền sâu và khu phố nghèo thiếu, họ luôn có mặt giúp đỡ vật chất. Ngay cả tu sĩ Phật giáo như Huệ Nhật, cũng do sự giúp đỡ bước đầu khi ra khỏi tù, Huệ Nhật đã biến thành Mục sư không cần đắn đo suy nghĩ, bởi vì , theo Huệ Nhật, ông ta đã được ơn kêu gọi của Chúa, nhưng thật ra đương sự đã được ơn chiếu cố bởi tài chánh đi trước! Tại Metro supermarket ở Q.12, một nhóm thanh niên công khai truyền bá đức tin giữa chợ, kèm theo những hứa hẹn về lợi dưỡng, họ ca ngợi Thượng đế một cách cuồng nhiệt. Họ có quyền quảng cáo tôn giáo của họ, cho dù quảng cáo theo cách mì ăn liền. Điều chúng ta muốn nói là họ rất thực dụng, vật chất và đức tin song hành, chứ không quá lý tưởng như Phật giáo, đem những giáo lý cao siêu nói với những người đang thiếu gạo cơm.
Như thế, các tôn giáo trong những quốc gia phát triển đã ý thức được tính thực dụng vào công cuộc truyền bá, họ đã thành công khá dễ dàng trong các quốc gia nghèo và trình độ thấp. Một số quần chúng Phật tử, cũng chấp nhận phương pháp nầy để gửi gấm niềm tin trong quyền lợi.
LỢI SINH HOẰNG PHÁP
Sau năm 1975, số lượng tín đồ Phật giáo không phát triển bao nhiêu nếu không nói bị thất thoát, Phật giáo không có bản thống kê hàng năm về số lượng tín đồ phát triển và tín đồ bỏ đạo, trong khi đó Thiên Chúa giáo tại Việt Nam tăng 5%, Tin Lành kể cả 20 giáo phái đang có mặt tăng 15%. Thiên Chua Giáo tuy phát triển chậm nhưng vững chắc. Tin Lành tuy ồ ạt phát triển nhưng căn bản giáo lý, tín điều không thấm sâu vào tín hữu; trong khi đó, ngành Hoằng pháp của GHPGVN sinh hoạt nặng về hình thức. Các khóa giảng sư và bồi dưỡng giảng sư thường làm theo quán tính, không đào sâu phương thức hoằng pháp, nghệ thuật hoằng pháp, đối tượng hoằng pháp và chỉ tiêu hoằng pháp. Những bài giảng chung chung giữa một đại chúng có quá nhiều trình độ khác nhau, chẳng khác nào vung vãi hạt giống trên thửa đất, có cả cỏ, đá, rác rếnh… không cần biết kết quả ra sao, để sau khi ra về, không ai còn nhớ được điều gì đã nghe. Vị giảng sư xem như đã hoàn thành nhiệm vụ Hoằng pháp.
Đã từ lâu, Phật giáo vẫn hoằng pháp theo kiểu truyền thống cầu may mà không nhắm đến hiệu quả cần phải đạt được. Ban Hoằng pháp nói chung và vị giảng sư nói riêng, chỉ thuyết giảng nơi nào đã có Phật tử và đạo tràng đó đã huy động Phật tử đến nghe. Với số Phật tử của một đạo tràng nào đó, không cần phải thuyết pháp theo lối chung chung mà phải có lớp bồi dưỡng giáo lý theo từng trình độ. Phật giáo chưa chủ động đi thẳng vào cộng đồng dân cư chưa hiểu đạo, cộng đồng như thế họ mới cần công tác hoằng pháp của các giảng sư; Phật tử các chùa họ chỉ cần những khóa tu và giáo lý căn bản.
Việc Hoằng pháp đến cộng đồng dân cư, hay nói cách khác, Phật giáo đi vào xã hội, không thể không chú ý đến những nhu cầu cần thiết của người dân. Nói như thế, có thể những vị bảo thủ cho rằng, Phật giáo là Phật giáo, không như các tôn giáo khác, không cần chiêu dụ. Đây là vấn đề đáp ứng nhu cầu, giải quyết những nhu cầu tối thiểu trước khi cho họ nghe giáo lý. Nghĩa là chúng ta phải đem đến vật chất lẫn tinh thần cho người nghe. Không ai có thể ngồi nghe pháp mà bụng đói và gia đình đang thiếu ăn.
Có vị lại hỏi – quý thầy đều sống nhờ vào sự cúng dường của bá tánh thì lấy đâu để quý thầy giúp đỡ những kẻ thiếu ăn? Chúng ta giúp cần câu chứ không chỉ cho con cá, nghĩa là, Phật giáo không chỉ biết đem lý thuyết đến cho người dân mà còn phải biết hòa nhập vào xã hội qua nhiều lĩnh vực cụ thể. Vệ sinh thường thức, kỷ thuật gieo trồng, kiến thức môi sinh, hạnh phúc hôn nhân, giáo dục trẻ con, kinh tế tài chánh, quản trị, tổ chức, huấn nghệ…Một quan niệm ăn sâu vào cộng đồng Phật giáo là người biết tu không cần làm giàu, không lo huởng thụ, không thiết vật chất, vì vậy họ bảo an bần lạc đạo!
Chúng ta phân biệt rõ hai lãnh vực, một bộ phận chuyên tu, không bận tâm đến vật chất để tâm hồn thanh thoát chú tâm vào đạo lực. Một bộ phần hoằng pháp, còn phải giao tiếp với xã hội, còn phải cần đến những phương tiện sống và phương tiện truyền bá, vì thế, bộ phận nầy phải trang bị kiến thức tổng quan cho một giảng sư, hoặc một chuyên viên mà không đòi hỏi ở một tu sĩ, có thể là một tín đồ, giúp giảng sư hổ trợ cho quần chúng những nhu cầu của họ. khuynh hướng xã hội của Hoằng pháp không phải là khuynh hướng đem của cải vật chất để lót đường cho việc truyền bá mà phải là khuynh hướng xây dựng xã hội song hành với việc pháp thí.
Gần đây, một nhóm độ 30 sinh viên và cựu sinh viên Vạn Hạnh, trẻ, khóa 5, khóa 6, thành lập nhóm hoằng pháp thiện nguyện, giúp một số chùa mở các khóa tu, hướng dẫn trẻ con sinh hoạt cộng đồng, tại một số vùng xa, các tỉnh lỵ. Nhóm nầy sinh hoạt theo nhiệt tâm của tuổi trẻ mà chưa có một phương án bảo vệ sự tồn tại độc lập vừa lâu vừa dài cho nhóm để không bị tùy thuộc vào kinh tế và bị chi phối bởi kinh phí mỗi lần công tác xa. Ngoài công việc tạo sinh khí cho những khóa tu hoặc sinh hoạt với trẻ con, nhóm nầy vẫn chưa giúp cho người dân về kiến thức phổ thông trong đời sống như vệ sinh, môi trường, hoặc khích lệ phát triển sinh kế; nhóm nầy cũng chỉ đến với cộng đồng phật tử có sẳn ở các chùa mà chưa chủ động đi thẳng vào quần chúng chưa có đạo; dẫu sao, với thiện chí của tuổi trẻ như thế, không được Giáo hội đào tạo cho nghiệp vụ hoằng pháp và hổ trợ phương tiện tài chánh, đã lăn xả vào đời, là một việc cần tán thán và còn cần phải bổ túc thêm những khiếm khuyết!
Sinh hoạt xã hội cũng như đề án kinh doanh của thế gian, trong một tổ chức, phải hướng đến mục đích, có chỉ tiêu và có thời hạn nhất định, để từ đó rút tỉa kinh nghiệm cho một chu kỳ mới, không thể làm có lệ, được chăng hay chớ. Xã hội ngày nay là xã hội cạnh tranh, kể cả tôn giáo, nếu thụ động là tự mình rút lui khỏi sân chơi, an phận là dẫm chân tại chỗ. An bần lạc đạo không có nghĩa mình phải nghèo mới sống vui với đạo. Đức Phật không cấm chúng ta làm giàu, chỉ cấm làm giàu bất chính thiếu đạo đức mà thôi. Và cấm hưởng thụ quá mức nhu cầu, vì cần phải chia xẻ với đồng loại. Nếu an phận và nghèo thì lấy gì bố thí giúp đỡ kẻ khốn cùng hoạn nạn tai ương? Tam thường bất túc là những nhu cầu của một hành giả không quá thừa mứa, vừa đủ hoặc thiếu chút ít để khỏi sanh tâm tham luyến chứ đâu phải không có quyền làm ra tiền. Làm giàu không có nghĩa không an bần. Làm giàu để có điều kiện giúp đỡ xã hội, an bần là kiểm soát nhu cầu cá nhân .
Chính vì thế, Hoằng pháp ngoài trang bị kiến thức giáo lý, trình độ và nghệ thuật diễn giảng trên pháp tòa, mà còn có nghệ thuật hòa nhập quần chúng, thích nghi với đối tượng, có nội dung thích ứng với đối tượng và lắng nghe nhu cầu cũng như tâm tư của đối tượng, điều nầy đòi hỏi người hoằng pháp phải có lý tưởng xã hội, và khi nhập cuộc hành sự, phải có định mức và thời lượng để đánh giá kết quả hầu rút kinh nghiệm cho việc làm tiếp theo, chứ không làm theo tùy hứng và vụ mùa.
Phật giáo ngày nay có khuynh hướng Từ Thiện xã hội rất cao, nếu Hoằng pháp biết kết hợp với các sinh hoạt Từ Thiện như thế, sẽ có kết quả tốt hơn. Các tôn giáo bạn cứu trợ thiên tai, bố thí chẩn bần, thường khoanh vùng, hạn chế trong giáo dân, ngược lại, với tinh thần từ bi của Phật giáo, các đoàn từ thiện vào bất cứ nơi nào có nhu cầu, không phân biệt lương giáo; Làm một cách vô tư để hoàn thành hạnh nguyện Bồ tát mà không cần biết kết quả thế nào. Dĩ nhiên cái nghèo cái đói là bệnh trầm kha, cứu trợ chỉ là giai đoạn nhất thời, công việc như thế chỉ là muối bỏ biển. Ích gì khi mỗi hộ được vài ký gạo và vài phẩm vật chi dụng trong ít hôm mà người nhận họ không cần biết của ai và họ có lợi ích gì sau những phẩm vật đó. Tôn giáo bạn có lý khi dùng những món quà cứu trợ làm điều kiện để truyền bá tín ngưỡng. Phật giáo không lợi dụng vật chất để khống chế tâm linh người thọ nhận; Người làm từ thiện quên rằng nếu món quà ít ỏi đến với một người, biết kèm theo lời khuyên về đạo đức, lợi ích đó lớn hơn và công việc từ thiện sẽ giá trị hơn. Lâu nay các đoàn từ thiện của Phật giáo làm công tác vãi thực phẩm xuống biển mà không cần biết dưới nước có những gì và loại thủy tộc nào cần thứ gì!
Làm phải biết mục đích và đối tượng, phải nắm được kết quả ít nhất trên 50%, không phải có lợi cho Phật giáo thêm được tín đồ mà có lợi cho người thọ nhận có thêm đạo đức, từ thiện như thế mới đủ ý nghĩa.
Đài Loan và Nam Triều Tiên, tu sĩ đã thực hiện và áp dụng được Lợi Sinh để Hoằng pháp. Phật giáo không chủ động đi tìm tín đồ nhưng khi trở thành tín đồ, người Phật tử không được các sư giúp gì về những mấu chốt trong cuộc sống ngoài lời khuyên từ bi, thương người, bố thí, nhẫn nhục…Một cặp hôn nhân trẻ cần sự hướng dẫn về bảo vệ hạnh phúc gia đình.; Một doanh nghiệp thành công cần sự giáo dục đạo đức nghiệp vụ; một thương gia cần sự cố vấn tính trung thực từ vị thầy; người làm kinh tế cần Phật giáo hổ trợ về kiến thức, kế hoạch và sự tương trợ trong cộng đồng Phật tử…Nghĩa là lý tưởng xã hội phải có trong lý tưởng hoằng pháp, bởi vì, Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác; Thế gian pháp tức là Phật pháp. Vì thế, không thể bảo người tu không dính vào đời sống thế gian, chỉ biết thọ nhận mà không lăn xả hy sinh. Chỉ thụ động mà không năng động. Tinh thần Phật giáo là tinh thần năng động chứ không thụ động.
Như vậy, Hoằng Pháp Lợi sinh của những thế kỷ kinh tế còn dồi dào, đất rộng người thưa, nhu cầu vật chất chưa cấp thiết. Ngày nay, mọi vấn vấn đề trong cuộc sống đều đảo ngược thì Lợi Sinh để Hoằng Pháp cũng là việc cần xét đến, nhất là tại xã hội còn nghèo như Việt Nam chúng ta, một sân chơi đang được cạnh tranh khá mạnh của những tổ chức tôn giáo khá vững và rất linh hoạt. Lợi sinh cả vật chất lẫn tâm linh.
MINH MẪN
30/01/10
Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010
XUÂN SÔNG HÀN
Ngoài phố, mọi người tất bật cho kịp chuyến xe về quê đón tết. Sân ga tàu hỏa đông kịt người, vé đăng ký trước cả tháng; Những người đến muộn phải lấy vé chợ đen cao gấp năm lần vé thường. Hường chạy sang bến xe miền Đông, chấp nhận ngồi trong ngăn hành lý, vẫn phải chờ sắp chỗ.
Hường cũng chả nôn nóng, đi để mà đi, nhìn lại quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, chắc gì về lại có ai nhận ra mình! Giòng họ bà con biết ai sống ai chết, ai ở ai đi khi đất nước trải qua một cơn binh biến; Nếu ở lại thành phố mà Hường từng trưởng thành, cũng chẳng biết nương vào đâu cho qua mấy ngày tết. Ba hôm trước, cầm tờ giấy ra trại, về ngã tư Hàng Xanh, đợi trời nhá nhem, Hường quẹo vào con hẽm sâu, chui nhanh vô căn nhà mà trước kia, ít khi Hường lai vãng; ngồi đợi thật lâu, hai ông bà chủ nhà mới về, Hường lên tiếng chào ba mẹ! Hai người không ngạc nhiên khi gặp lại Hường, mặc dù lâu lắm Hường không về, và ông bà cũng biết Hường bị bắt cải tạo vì một duyên cớ lãng nhách, phải đánh đổi trên 05 năm lao động nơi rừng núi hoang vu.
- Hạnh, lấy cơm nguội cho anh hai mầy ăn xong để nó còn đi tìm chỗ ngủ!
Chưa bao giờ, kể cả trước kia, Hường ngủ lại nhà cha mẹ mình, lần nầy, có lẽ vừa ra trại, ông bà biết không ai dám chứa, sợ ở lại nhà thêm một miệng ăn, thêm một phiền toái, bà nói:
- Ra tù, địa phương dòm ngó, không có hộ khẩu, nhà tao thuộc dạng “gia đình gương mẫu” trong khu phố, chưa ai than phiền gia đình nầy, đừng để liên lụy cho bầy em mầy về sau!
Hường định lấy tấm giấy Ra Trại đưa gia đình đi trình tạm trú, nhưng nghe bà nói thế, đứng lên, chào ba mẹ, lầm lủi bước ra khỏi khu xóm chật chội trong bóng đêm.
*
* *
Trong số khách đợi tàu xe, Giữa cảnh bon chen ô tạp, một góc sân, Hường bắt chợt một nhóm năm người, họ ngồi yên lặng, gương mặt thanh tú, nước da trắng mịn, ít nói chuyện, phong cách thanh thản. Trang phục cũng không giống người thường. Một góc tối bến xe hòa lẫn với sắc phục của họ, đã làm chìm khuất nhóm người như xã hội đang muốn quên họ. Hường lân la tiếp xúc, biết họ là những tu sĩ, trong buổi giao thời, việc đi lại khó khăn, họ không muốn chiếc áo dài của họ phải va chạm với xã hội, tạo sự lưu ý với những ai chưa thông cảm ; họ mặc đồ ngắn nhuộm màu măng cụt, trông giản dị.
- Thưa…quý vị đi về đâu? chả hiểu tại sao Hường không đủ can đảm dùng tiếng thầy hoặc sư để nói chuyện với họ; có lẽ trong thời đại mới đổi thay, mọi tập quán và ngôn ngữ cũ như có cái gì khó thích nghi; chả lẽ gọi họ là anh hoặc chị, có vẻ khiếm nhã. Văn hóa dân tộc thừa ngôn từ chỉ cho ngôi thứ, đâu chỉ có nghèo nàn trong hai chữ anh-chị. Trong trại giam, từ trẻ con phạm tội hình sự đến các bác, tuổi trên 70, họ vẫn được gọi bằng anh khi cán bộ gọi lên thẩm vấn; Hai tiếng anh-chị của ngôi thứ hai trở nên phổ biến trong xã hội đồng đẳng thay thế ông-bà-cô bác…cũng may, hai tiếng bố-mẹ vẫn còn được dùng đối với các đấng sinh thành.
- Dạ, chúng tôi về quê…một trong số tu sĩ ôn tồn đáp.
- Quý vị ở đâu mà về quê, nhà chùa cũng đoàn tụ gia đình để ăn tết? Hường vừa thấy mình hỏi những câu ngớ ngẩn khi biết sinh hoạt xã hội chưa vào nề nếp ổn định; Dân tộc nặng tính lễ tục, ba ngày Xuân, cho dù cuộc sống thế nào, con cháu cũng phải họp mặt đón ông bà, thăm thân nhân. Có những trường hợp ngoại lệ, như Hường.
- Dạ, chúng tôi không phải về quê ăn tết; chúng tôi ở Sài gòn, không có hộ khẩu, nay chùa này, mai chùa nọ lây lất để đi học. Mặc dù nước nhà thống nhất đã năm năm rồi, chúng tôi vẫn chưa xin nhập hộ khẩu được.Nếu bị bắt vì tội cư trú bất hợp pháp thì thầy trụ trì phải bị kiểm điểm và đóng phạt, vì thế, chúng tôi không thể có chỗ ở nhất định. Tết, trường nghỉ, chúng tôi phải về lại quê, có người về lại chùa tổ, có kẻ về với gia đình. Riêng thầy đây, - vị tu sĩ trẻ chỉ người ngồi cạnh, nói – không có gia đình mà cũng không có thầy tổ, thầy theo chúng tôi để tìm chút hương vị thiền môn của những ngày đầu Xuân ở quê mình.
Hường thắc mắc, một tu sĩ không có gia đình, cũng không có thầy tổ nghĩa là thế nào! Trong các trường cải tạo hay khám Chí hòa, Hường không ngạc nhiên có lắm mảnh đời bất hạnh, có những trẻ em bị thất lạc bố mẹ trong cuộc chiến, chúng sống bên lề xã hội, biến thành tội phạm vì ổ bánh mì để sống qua ngày, một tu sĩ mà không có thầy tổ là chuyện lạ.
- Vậy thầy ở đâu và xuất gia từ đâu? Hường lễ phép và thân thiện tìm hiểu.
- Mô Phật, chào em; Tôi được nhà chùa nuôi từ lúc ở bệnh viện, khi mẹ tôi qua đời bởi khó sanh. Nghe thầy tôi nói, bố tôi hy sinh trên chiến trường Hạ Lào cũng là lúc mẹ lâm bồn, không thân nhân, bệnh viện báo, nhà chùa xin bảo lãnh nuôi. Ngôi chùa thầy tôi ở ngọn đồi gần sông Thu Bồn, xa dân; trong trận chiến 1968, đạn pháo, không rõ của bên nào, làm sập chùa, thầy tôi và vài huynh đệ đã chết, tôi bị thương, hơn nửa năm chữa trị, trở về, tôi đành lang thang tá túc khắp nơi. Vào Sài gòn rất lâu, nhưng vì mình không có thầy tổ, đành nương tạm các chùa để học, ngày lễ ngày tết, họ kiểm soát chùa kỷ lắm, nên tháp tùng về tìm hương vị Xuân dưới mái chùa quê của quý thầy. -vị tu sĩ trẻ đưa ánh mắt vào cỏi mông lung, chậm rãi kể.
Nghe đến hương vị Xuân, Hường cảm thấy chua xót. Lần đầu tiên nằm trong xà lim, tiếng pháo rộn rã bên ngoài, đâu đó các phòng tập thể, một giọng hát lẻ loi u uẩn vọng qua các song sắt nhạc bản: Xuân nầy con không về. Anh em được thân nhân thăm nuôi, bày biện bánh trái, quây quần đón giao thừa; Hường nằm quay mặt vào vách nghe nỗi cô đơn thấm đẫm; bấy giờ Hường mới thấm thía kiếp mồ côi!
*
* *
Chợ đời hiện rõ nơi bến xe, sân ga, chen lấn, xô đẩy, không ai nhường ai; một người vừa ra khỏi hàng khi lấy được vé, giòng người liền đùn đẩy nhau tiến lên; ai đó chen vào, đã bị tiếng la ó mắng chưởi tục tĩu, xỉ vả ùa đến; kẻ xấu lợi dụng chen lấn móc túi; mùi ẩm mốc, mùi xăng nhớt, mùi thuốc lá, mùi hơi người, mùi gà vịt, tiếng máy nổ, tiếng gọi nhau, tiếng chó tiếng heo nằm trong giỏ; nhạc xập xình, đèn chiếu sáng, đèn màu khắp nơi như thước phim diễn tiến bất tận. Mỗi chuyến xe bán hơn phân nửa số vé, còn lại họ tuồn ra ngoài chợ đen.Hường nghĩ, cuộc đời là thế ư? Tuy phức tạp của cỏi ô trược, các tu sĩ ngồi chờ giờ khởi hành, trông họ vẫn an lạc, bình thản. Từ trong bến, một phụ nữ tay bế con, tay xách hành lý, lếch thếch, kêu gào khóc lóc, tìm đến người bảo vệ: Chú ơi, chú giúp con, bọn nó xách mất giỏ đồ của con, trong đó vé xe, thức ăn đi đường, quần áo quà cáp và giấy tờ…
Chị ta đang ngồi, đồ để dưới chân, người bên trái thúc cùi chỏ, chị vừa quay qua, thì kẻ khác kéo giỏ xách của chị chuyền tay đồng bọn; Hường biết rằng, người đàn bà, khốn khổ hiện trên nét mặt, sẽ không có cơ hội về quê trong lúc nầy, chàng vét cạn túi những đồng còn lại, đồng tiền do trại cấp cho về xe, chàng đưa cho người phụ nữ với những lời an ủi, các tu sĩ cũng góp thêm cho đủ vé; bà ta lại sắp hàng chờ đợi, có lẽ ngày hôm sau vé mới đến lượt bà.
*
* *
Các tu sĩ lên xe, chia tay Hường, chàng nhận được địa chỉ ngôi chùa quê ở Tam Kỳ, hy vọng mình sẽ tìm đến. Sáng hôm sau, chuyến xe nhét người như hủ mắm; những năm sau ngày nước nhà thống nhất, việc đi lại khó khăn, mọi người đều chấp nhận, cho dù phải đứng suốt đoạn đường gần ngàn cây số. Mọi người nôn nao phấn khởi về lại quê sau những năm tháng bon chen nơi xứ người, Hường không có cái tâm trạng đó, cũng chả biết sẽ về đâu. Trong phòng giam năm bảy chục người, nằm sắp lớp, trở đầu như cá mòi thì chuyến xe như thế nầy, tạm thời vài ngày cũng chả sao, miễn nhẹ cánh tự do là quý rồi!
Từ Hàm Thuận, Phan Rang cho đến Quảng Nam, hai bên quốc lộ dân cư vẫn còn lưa thưa, nhà cửa tuy có sơn phết đón xuân, nhưng không dấu được nét nghèo nàn; bên sau dãy nhà mặt đường quốc lộ là những mái tranh vách đất lụp xụp tăm tối; đàn ông vận áo dài khăn đóng đứng trước bàn thờ gia tiên, các bà mặc bộ lãnh đen, trẻ con quần áo sặc sỡ, chơi ngoài phố nhìn kẻ qua lại. Các cội mai già trong sân cũng cố xòe vài nụ vàng mừng Xuân, tất cả vẫn biểu hiện nét cơ cực của cuộc sống trên mãnh đất cằn cỗi. Hường xuống xe ở cầu Bà Rắn, thả bộ vào đường đê, tìm khu xóm còn ẩn hiện mường tượng trong trí nhớ từ thưở bé, hình như nhà cửa nhiều hơn lúc trước. Gia đình nào cũng có hoa quả trên bàn thờ.Tấm giấy màu đỏ, chữ đen, viết nguệch ngoạc dán hai bên cửa ra vào: Nghinh Xuân Tiếp Phúc, tấm khăn trải bàn có lẽ chỉ xử dụng vào những ngày tết nhất giổ chạp nên nếp gấp còn nguyên vẹn.Hầu như nhà cửa, trang trí, thờ phượng đều giống nhau. Giữa nhà là bàn thờ Phật, hai bên là tổ tiên, cửu huyền. ngay lối ra vào là cái bàn, bốn cái ghế. Bên phải là bộ ván ngựa, bên trái là bồ lúa. Hường rảo một vòng, không tìm thấy gương mặt nào quen thuộc ngày xưa, chàng cũng không dám hỏi, biết đâu người lạ mặt ở trong gia đình vào đầu năm mới, họ kiêng kỵ! Có gặp bà con, chàng cũng không dám nhìn, vì ở xa lâu ngày về chả lẽ chỉ có đôi tay trắng, đem thân đói rách vào nhà người ta, cuối năm sống bám!
Miền quê nghèo khổ như thế, bao năm xa xứ, cứ mãi ám ảnh chàng trong những giấc chiêm bao; ước ao được về nhìn lại quê mình, giờ đã toại nguyện, nhưng mọi sự đã đổi thay, Hường không dám nghĩ là sự thật. Một lần nữa, cảm giác hụt hẩng như người đã mất hẳn chỗ đứng trên quê hương mình, người chàng tợ chiếc bong bóng chập chờn giữa không trung, chưa biết về đâu, năm hết tết đến.
*
* *
Trời xế bóng, bụng đói cồn cào, Hường nhặt quả dưa hấu úng nằm cạnh bờ ruộng, cắn ngấu nghiến phần chưa thối, một cảm giác khoan khóai, mát ngọt chạy xuống cổ họng, tựa lưng vào gốc sầu đâu, ngồi nhìn áng mây lãng đãng không muốn bay, như chàng không buồn lê đôi chân mỏi nhừ, chúng cố níu ánh sáng mặt trời trước khi chìm vào bóng đêm; Đàng xa, in trên chân trời chiếc bóng người phụ nữ khập khểnh tay xách nách mang khó khăn đi trên bờ ruộng nhỏ hẹp, càng đến gần, Hường cảm giác như bà con quen thuộc trong làng quê của chàng. Người phụ nữ nhìn Hường, để xách đồ xuống, thở ra mệt nhọc.Mồ hôi dán sát những sợi tóc mai hai bên thái dương:
- Cậu đi đâu mà ngồi đây?
- Dạ, cô là…Hường ngần ngại không biết nói tiếp những gì, như sắp đuối vớ được phao
- Cậu quê ở đây? người phụ nữ nhìn Hường ngạc nhiên, cách trang phục của Hường cho người phụ nữ biết chàng không phải là cư dân thôn xóm nầy. đứa bé ngồi trong túi vải đeo trước ngực ngoẻo đầu ngủ ngon lành.
- Dạ, nhưng…Hường vẫn ấp úng. Từ trong xóm, vài tiếng pháo lẻ đì đùng như thúc hối người phụ nữ nhanh gót; tiếng nổ xé nát tâm hồn Hường.
- Cậu quên tôi rồi sao?
- Hường cố moi trí nhớ những hình ảnh bà con dòng họ khi còn bé, vẫn không nhớ nổi
- Cậu bà con với ai trong làng nầy?
- Dạ lâu lắm tôi không về, hình như tôi có người bà con tên Sở! Hường ngần ngại xác định.
- Đúng rồi, ông ta mất lâu lắm, con cháu tứ tán từ thời chiến tranh.
- Vậy cô là…
- Bây giờ cậu trú ở đâu? Nàng không trả lời câu Hường hỏi
- Dạ chưa biết.
Người phụ nữ nhìn Hường, đoán biết thanh niên nầy đang gặp khó khăn. Từ Sài gòn ra quê mà đi tay không, áo quần thiếu gọn gàng, đầu tóc như rối bù, mặt mày hốc hác…
- Mời cậu về nhà tôi nghỉ tạm.
Hường xách hộ giỏ đồ, bước theo sau người phụ nữ vào cuối làng.
Chui vào ngôi nhà ngói vách đất, nàng để giỏ đồ và đặt nhẹ em bé nằm trên bộ ván: - Thưa mẹ, con mới về, ba đi đâu hở mẹ, mấy em đâu?
Bà cụ ngồi trong góc tối nhai trầu bỏm bẻm, lấy tay dụi mắt nhìn ra cửa, tuy không nhìn rõ hình dáng con gái, qua giọng nói, bà lên tiếng:
- sao con về muộn vậy? ba con xuống cúng chùa rồi ra đình, sắp nhỏ đi chơi ngoài xóm. Con dắt đứa nào về nữa đó?
- Xe khó mua vé lắm mẹ. Cậu đây giùp tiền cho con mua vé, đồ của con bị chúng xách hết rồi, cuối năm mà vẫn còn xui. Nàng chép miệng. Nhà mình chưa sắm sửa gì hết vậy mẹ.?
- Tiền đâu mua sắm con, chờ con về mua đồ cúng và áo quần cho mấy em con đó. Bà cụ từ tốn nói.
Người phụ nữ như nghẹn, nước mắt thấm hai khóe, nói, con mất hết tiền và quà cáp, mẹ à.
Suốt một năm vào Thành phố làm thuê, bán mướn, gom góp ít tiền về làm quà tết cho bố mẹ, không ngờ cúng hết cho cô hồn sống. Nàng hơn Hường vài tuổi, tha phương cầu thực được ba năm, người chồng cùng đi với nàng, vào Nam làm thì ít, ăn chơi thì nhiều, vỡ nợ, bỏ nàng và con, trốn biệt.Hường áy náy khó xử, bỏ đi , chẳng biết đêm nay trú ở đâu, ở lại, thêm miệng ăn trong lúc gia cảnh nàng đang khốn cùng.
- Mẹ đi vay tạm ai đó, qua tết mình gửi trả. Nàng góp ý với mẹ
- Cuối năm rồi mượn được ai, họ còn phải lo cho gia đình đón tết; làng mình ai cũng nghèo hết con à. Bà cụ buồn bã đáp.
*
* *
Thế là Hường cũng tìm được đến chùa của quý thầy, nằm cuối đám ruộng khô nứt nẻ, bao quanh nhiều cây cao bóng mát, xa núi độ hai ngày đường bộ.Hòa Thượng trụ trì vóc dáng cao gầy, khỏe và có đôi mắt sáng, tuổi độ lục tuần; Trông nét từ bi mà Hường cảm nhận như một vị cha thân thiện. Quý thầy sau khi giới thiệu với Hòa Thượng, đưa Hường vào chánh điện lễ Phật, vòng quanh các tháp tổ, thăm viếng vườn tược. Hường tận hưởng một sinh khí thanh nhàn thoát tục giữa chốn hoang liêu nghèo khó.
- Hàng ngày quý thầy đi học ở Sài Gòn, ai giúp HT công việc đồng áng?
- Hòa Thượng tự làm, còn lo cung cấp cho chúng tôi ăn học nữa; ngài mới nhận hai chú điệu, phụ giúp quét dọn trong chùa và tưới cây, mót củi. Em không có gia đình, có muốn về ở với Hòa Thượng ? Một tu sĩ trẻ thăm dò Hường
Nghe hỏi, như đánh trúng yếu điểm, Hường ngần ngại đáp, - Thưa thầy, ở đây có bị khó dễ hộ khẩu không ạ?
- Em có giấy ra trại mà! Tạm trú thời gian rồi xin nhập khẩu. vị tu sĩ trấn an Hường.
Đêm đầu tiên sống với nhà chùa giữa ruộng vườn thanh vắng. Ngoài sân, quý thầy đẩy củi vào miệng bếp, cái nồi lớn và cao đầy nước nằm giữa ngọn lửa bập bùng, chờ những đòn bánh tét cho vào để ông táo, nồi nước và bánh cùng reo chào giờ giao thừa. Trên trời đầy sao nhấp nháy trêu cợt cỏi nhân sinh. Lần đầu tiên, Hường cảm nhận được sự thanh bình từ trong tâm mình. Gió núi, hương đồng nội, bầu trời đêm quyện lẫn nếp sinh hoạt thiền vị, tương phản hẳn sự nhộn nhịp ở phố phường; vắng mặt sự lừa đảo cướp giựt nhau để sống; không có cảnh nghèo đói lây lất và kẻ vung tiền qua cửa sổ trong các nhà hàng sang trọng
Hường ngây người, nghĩ đến vị tu sĩ mồ côi đang hòa nhập chúng, hay nghĩ đến thân phận mình. Hàng trăm con người lao xao trong bến xe, sân ga, là có hàng trăm mảnh đời khác nhau, có những bất hạnh khác nhau. Hường tuy là con đẻ, nhưng khi mang bầu, mẹ Hường bị bố ngờ là có thai bởi một người tình cũ của mẹ, vì thế, khi sinh ra, Hường thiếu tình thương của bố; để gia đình được êm ái, mẹ đành cho Hường làm con nuôi người khác, người mẹ nuôi mất lúc Hường hơn 10 tuổi. Hường phải vào trại mồ côi. Mẹ đẻ của Hường cũng thiếu sự mặn mà đối với Hường.Ra xã hội, Hường sống lây lất ở các vỉa hè, đánh giày, bán báo, tối về, trọ một ngôi chùa ở ngoại ô. 1975, Hường gần 18 tuổi, lúc mọi người xôn xao tán loạn, Hường giúp một số người thất lạc thân nhân, hoặc bị thương, vào tạm trú ở chùa, Hường nhặt được chiếc áo rằn ri còn mới, đôi giày lính và cái mũ. Lúc mặc vào để giúp tải thương và dọn dẹp đường phố, Hường cảm thấy hãnh diện và oai vệ của tuổi vừa mới lớn.Cán bộ xã gọi lên, tra vấn Hường, không hộ khẩu, không giấy tờ tùy thân, lý lịch không rõ ràng, đưa Hường về Chí Hòa, sau đó ra lao động tập trung cải tạo không thời hạn. Cuốn phim đời mình quay lại như quả đất đang quay lại chu kỳ 365 ngày, mọi người nhớ lại cội nguồn tiên tổ, Hường nhớ lại hơn 20 năm trôi qua trên cỏi đời, nó mỏng manh như ngọn cỏ giữa gió Xuân; Đời người vô nghĩa như mãnh giấy ra trại đang cầm trên tay; khi bị bắt, Hường không biết mình tội gì, khi thả ra, Hường không rõ mình cải tạo cái gì để được xác nhận cải tạo tốt. Cũng thế, khi đầu thai làm người, mình chưa hề được hỏi ý kiến, bước vào xã hội, mình không có quyền chọn lựa cuộc sống theo sở thích. Tất cả nằm trong quy luật sống cộng đồng, việc chọn cho mình một tương lai, còn tùy thuộc nhiều yếu tố tâm lý và xã hội, chưa hẳn theo đúng ý mình. Quan quyền, địa vị, dân giả, giàu nghèo…chúng làm thành một bức tranh xã hội; mạnh được yếu thua là định luật của mọi động vật thiếu căn bản tình thương và sự hiểu biết. Nhìn lên Đại điện, Hường cảm nhận một điều, nhang trầm quyện khói vẫn bay lên và bụi trần tục bên ngoài luôn chìm xuống. Hường suy gẫm để chọn cho mình một quyết định ngã rẽ cuộc đời.
*
* *
Trước khi quyết định có nên quay về với chùa núi, Hường được Hòa Thượng cho tiền vào lại Sài Gòn thăm những người quen biết hơn 5 năm về trước; Không vào ngay Sài Gòn, ra Đà Nẵng, Hường thả bộ dọc sông Hàn, nhìn qua núi Sơn Trà, ngọn núi vẫn xanh và trầm lắng như ngày nào; Thành phố đón Xuân có khác hơn thôn quê. Cư dân ăn mặc đẹp hơn, sang trọng hơn. Sinh hoạt chưa nhộn nhịp trở lại như thời chiến, nhưng sự sống vẫn ngấm ngầm phát triển. Đà Nẵng không xô bồ như Sài Gòn, cũng không trầm lắng như Huế, nó có nét thơ mộng riêng biệt. Về đêm, đèn mờ khắp phố phường xuất hiện, nhập nhòa ánh sáng dưới giòng nước xanh um. Hường chọn chiếc ghế đá ngả lưng nhìn bầu trời đang thở.Thoảng nghe tiếng người phụ nữ giọng quen thuộc, đang ngã giá cải cọ với người xe ôm, Hường nhổm dậy.
- Chị đi đâu vậy? Hường vụt miệng mà hôm qua còn gọi bằng cô, người xe ôm thấy có chàng thanh niên quen, can thiệp vào, ông ta nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, lên xe chạy vội.
- Sao cậu lại ra đây, có quen ai ngoài nầy? người phụ nữ ngạc nhiên hỏi
- Dạ không quen ai hết, em muốn đi chơi thăm Thành phố. Hường đáp
- Tôi định ra thăm bà con ở Đà Nẵng trước khi vào lại Sài gòn. Hay là cậu về với tôi. Tôi mướn nhà riêng tại Quận 8, có hai mẹ con thôi. Người phụ nữ đợi xem phản ứng của Hường. Nhìn chàng, người đàn bà biết là một thanh niên chất phác, độc thân, không có nét hư hỏng sa đọa.
Đang đứng trước ngã ba, về lại cuộc sống lang bạt, vào quy y chùa núi, hay chung sống với người đàn bà? Hường mời người phụ nữ ngồi. Hai người chìm vào im lặng.
- Cậu đừng ngại, tôi biết cậu đang cô thế và khó khăn. Người phụ nữ chân thật mời mọc.
- Chị cho tôi thời gian suy nghĩ. Hường miên man nghĩ ngợi. Lúc khốn đốn không nhà, được hai nơi mời mọc. Hẳn nhiên nhà chùa có cái tâm vô vị lợi. Người phụ nữ muốn giúp, lại có cái tâm nương tựa lẫn nhau. Dẫu sao, người nghèo dễ cảm thông và gần gũi nhau hơn. Kẻ giàu sang chắc gì giúp cho chàng bữa ăn trong lúc nầy; nhà giàu làm sao hiểu được tâm trạng kẻ không nhà trong những ngày đầu Xuân mà mọi gia đình đang đoàn tụ hạnh phúc! Không, mình không thể chọn nhà chùa làm chốn thoát thân, cũng không thể nương nhờ người phụ nữ đang cô thế. Với tuổi trẻ và thân hình toàn vẹn, mình phải vươn lên và giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình.
- Dạ, em sẽ nhờ chị giúp cho chỗ trú thân để tìm việc làm, em không hứa với chị bất cứ điều gì, sau nầy sẽ tính.
Đêm sông Hàn, đường vắng, từng luồng gió mang hơi nước phả vào ven bờ; đèn đường chập choạng ánh sáng, thỉnh thoảng, vài tia đèn xe hai bánh quét qua ghế đá. Hai người chìm sâu vào bóng đêm trong ngày đầu Xuân. Chỉ có hai người và giòng nước đang lặng lờ hòa cùng nhịp sống của vũ trụ. Hường móc túi, lấy ra tấm giấy phóng thích, châm lửa đốt, ngọn lửa lóe lên rồi chìm ngấm vào bóng đêm, như đời người, chợt xuất hiện vài mươi năm rồi đi vào dĩ vãng. Chàng phá lên cười, cầm tay người phụ nữ đi về phố vắng, mất hút trong đêm!
MINH MẪN
09/01/10