Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2009
Alexandre de Rhodes
Một thời gian xôn xao về những nhân vật từng “cỏng rắn cắn gà nhà” hoặc “ “ áo chùng thâm che đậy mưu đồ xâm lược” đất nước ta, giờ đây, một lần nữa gợn sóng trên ngôn luận xã hội.
Tạp chí Văn nghệ số 69 bộ mới ngày 02/7/09; tạp chí Văn Hoá Phật Giáo, số 86, Tuổi trẻ online ngày 29/6/09 cũng như một số báo giấy, báo điện tử trong và ngoài nước rộ lên những phản hồi về vụ ông Phạm văn Hạng đã hoàn thành tượng Đắc Lộ nặng 43 tấn, bằng đá hoa cương trắng, để tại Thủ Dầu Một, nguyện hiến tặng Hà nội nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Lịch sự, chính quyền Hà Nội phúc đáp bằng văn thư, hứa sẽ cho đoàn vào thẩm định giá trị tác phẩm điêu khắc.
Nếu chỉ thuần hiến tặng thì chả có gì để nói, ý của tác giả nhấn mạnh là kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long. Nhưng, ai là con dân đất Việt đều biết, nhà nước kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long là kỷ niệm tưởng nhớ công lao Đức Thánh Vương Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, sau đổi tên là Thăng Long để đế nghiệp và dân tộc được trường lưu. Không những đó là một quyết định chiến lược, địa lợi mà còn là nơi phát triển văn hoá, kinh tế, chính trị trên vùng đất cao ráo, thông thoáng, không bị núi sông ngăn trở như Hoa Lư. Hoa Lư có địa thế giá trị của một quân thành nhờ núi non che chắn vào thời chiến, thì khi Lý Thái Tổ thống nhất đất nước, an cư lạc nghiệp cho bá dân, Đại La được chọn làm kinh thành là điều đắc địa.
Không những chiếu chỉ dời đô: Đầu năm 1010, vua Lý Thái Tổ hạ chiếu dời đô, có đoạn: “Thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ chầu, ở giữa nam, bắc, tây, đông, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng và bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật thịnh đạt, phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”. Mùa thu năm đó, vua cho dời đô từ Hoa Lư về và đổi gọi là Thăng Long.
(Theo Đại Việt sử kí toàn thư, tập I, Sđd, tr. 241)
Tuy là vua một nước của thể chế quân chủ phong kiến, nhưng vua biết lắng nghe ý kiến của quần thần và nhân dân khi nêu lên lý lẽ bất khả bác trong ý định dời đô:
Trong Chiếu dời đô do nhà vua tự viết để hỏi ý kiến quần thần, đã nói rõ việc dời đô là việc lớn không thể "theo ý riêng tự tiện chuyển dời", mà phải "tính kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo chí dân". Nhà vua chọn thành Ðại La với đủ các tiêu chí thủ đô của một quốc gia thống nhất và thịnh đạt “ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc, Ðông, Tây, tiện hình thế sông núi trước sau", là "thắng địa" "muôn vật rất phồn thịnh mà phong phú", "là chỗ hội tụ của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”.
Sau khi ổn định đế đô, Đức Thánh Vương cũng đã chấn chỉnh tổ chức hệ thống hành chánh như: Đứng đầu nhà nước là nhà vua, nắm quyền chính trị, luật pháp quân sự, nghi lễ, đối ngoại, xây dựng giáo dục, kiến trúc…Dưới vua là các Tể tướng, đại Thần. Các cơ quan pháp lý, hành chánh gồm: sảnh, viện, đài…Hạ tầng cơ sở về nông nghiệp, điền địa, thuỷ lợi có các quan bố phòng trách nhiệm.
Về địa giới, vua tổ chức Lộ, phủ, huyện, châu, hương, xã. Toàn quốc có 24 Lộ.Mỗi địa phận đều có quan trông nom như quan Lộ, quan Phủ, quan huyện, quan xã. Khu vực Vương thành chia làm hai – khu của vua quan và phố phường của nhân dân do quan Lưu thủ quản lý. Các sứ quân dấy loạn đều bị dẹp sạch để thống nhất nước nhà, đem lại an cư thịnh vượng cho bá tánh.
Về quân sự, vua chia làm hai lực lượng: Cấm binh, bảo vệ an ninh khu nội thành của vua quan, Lộ binh trấn giữ bờ cỏi. luân phiên canh gác xóm làng và canh tác nông nghiệp. Lúc an bình là thế, nhưng khi loạn lạc, vua, quan, vương hầu, quý tộc và nhân dân đều có quyền tuyển mộ quân binh để hợp lực cùng vua chống giặc, giữ an quê nhà.
Về luật pháp, tuy chưa hình thành một bộ luật chi tiết, nhưng nhà vua cố gắng thành công xây dựng các cơ sở Xã hội, chính trị, tư tưởng, giáo dục. Chính sách nhân đạo do thấm nhuần tinh thần Phật giáo, đã giúp nhà vua dành được cảm tình của nhân dân, vì vậy, Ngài được xem là vị vua nhân hậu, đồng thời mở đầu cho các trều đại nhà Lý kế tục theo tinh thần thân dân kết hợp với tôn kính Phật Pháp, làm nền tảng vững bền cho triều đại kéo dài suốt 215 năm, về sau, đã hình thành bộ luật Hình thư rõ ràng để cai trị đất nước được công minh hơn.( đó là bộ luật đầu tiên cấu thành văn bản của dân tộc ta, bước đầu của ngành lập pháp, cai trị bằng pháp luật ). Nhà nước triều đại Lý đã kết hợp Pháp trị với đức trị, đem lại sự gắn bó giữa nhân dân và nhà nước phong kiến quân chủ lúc bấy giờ, mà được coi là quân chủ theo tinh thần dân tộc. tránh được tình trạng quân chủ quan liêu chuyên chế theo mô thức nho học, từng đem đến nhiều áp bức cho dân lành. Vua cũng biết tiếp nhận ý nguyện của dân, bằng cách tạo nhiều phiên trạm ngoài thành để lắng nghe tiếng chuông kêu oan của dân chúng.
Về chính trị, vua đã gả các công chúa, thứ phi, gia tỳ cho các tù trưởng những bộ tộc miền núi. để trấn thủ ngoại biên. Tinh thần nhân ái, thương dân, dang tay kết nạp mọi thành phần, chủng tộc đã giúp triều Lý ổn định giang san. Thánh vương Lý Thái tổ là tiên đế, mở đầu cho các đời vua kế tục một sách lược củng cố xã tắc vững bền bằng cách thu phục nhân tâm, do lòng từ bi của đạo Phật, xây dựng trên nền tảng thôn ấp làng xã.
Về xã hội và nông nghiệp, các triều đại nhà Lý đã chẩn bần bố thí, giảm thuế, khuyến nông. Lấy nông nghiệp làm căn bản “dĩ nông vi bản” nhà vua còn giữ thông lệ cày ruộng tịch điền làm gương cho dân; khai hoang lập ruộng. Phát triển thủ công, tạo lập thị tứ, giao thương biên giới, lưu thông tiền tệ. chương trình dẫn thuỷ nhập điền… đã củng cố một xã hội phát triển phồn thịnh.
Về văn hoá, giáo dục, triều Lý cũng đã quan tâm phát triển giáo dục, mở mang văn hoá. 1070 lập Văn miếu, 1075 mở khoa thi, 1076 thành lập Quốc Tử giám; khuyến khích con dân lai kinh ứng thí. Một thời đại mà xã hội phát triển mọi mặt, kiến thức, đạo đức, kinh tế, chính trị…chính vì thế mà lòng dân đoàn kết trên dưới một lòng đã đẩy lui nhiều cuộc xâm lăng từ phương Bắc. Chưa có thời đại nào mà quốc gia Đại Việt được tôn trọng ngang hàng như một quốc gia độc lập có chủ quyền như các triều Lý. Là một Phật tử thuần thành, vua cho tu tạo chùa miếu, dùng đó làm cơ sở giáo dục quần chúng về văn hoá lẫn đạo đức.
Sau khi các triều đại nhà Lý phạt Tống bình Chiêm, các vua luôn giữ tình giao hảo bình đẳng với các lân bang, nhờ các quốc sư cố vấn giỏi, tạo uy thế cho Đại Việt trước mộng bá quyền phương Bắc; Tóm lại, mở đầu triều đại nhà Lý, Thánh vương Lý Thái Tổ đã biểu thị một phong cách lãnh đạo của đấng minh vương, giúp quốc gia phát triển vững mạnh về mọi mặt,sau khi thoát khỏi một ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Kéo dài sự thanh bình an lạc cho nhân dân qua nhiều thập kỷ.
Với công đức khai sơn lập nghiệp như thế, nhân dân ta luôn tri ân tiền nhân là điều tất nhiên. Qua thời gian Pháp xâm thực đất nước, dưới hai chế độ Cộng Hoà, công đức to lớn của tiền nhân vẫn chưa được ghi nhận đúng mức ngoài những con đường nhỏ hẹp mang tên, nằm lẫn khuất đâu đó trong các Thành phố sầm uất. Thế nhưng, nhà nước đương vì, tuy mang tiếng vô Thần, nhưng biết dành một nơi tôn quý nhất tại thủ đô để tri ân tiền nhân vào dịp 1.000 năm dời đô về Thăng Long. Đó là việc làm đúng và đáng trân trọng.
Alexandre de Rhodes mà lịch sử xôn xao công và tội, nếu gọi là chữ quốc ngữ dưới dạng La Tinh do công của Đắc Lộ, điều này các nhà nghiên cứu như Bùi Kha đã phủ nhận một cách xác đáng; Ngoài cái công ảo hoá đó, Đắc Lộ làm được gì cho dân tộc như một Pasteur, một Yersin…? Nếu bảo Đắc Lộ là nhà văn hoá Tôn giáo thì ngôn ngữ khiếm nhã trong phép giảng tám ngày đòi chém thằng Thích Ca thì loại văn hoá gì? Một giáo sĩ đi truyền đạo luôn triệt tiêu văn hoá và tôn giáo của một dân tộc , thì đó là loại văn hoá tôn giáo gì?
Không những tại Việt Nam đã có một thời bài xích các cố đạo mà trước đó họ cũng đã nâng đỡ các các cố đạo, ngay cả Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ…cũng đã chống báng vì sự ngạo mạn của các giáo sĩ xem thường phong tục, tập quán, tín ngưỡng của bản địa, muốn áp đặt văn hoá Thần học để khống chế tinh thần quần chúng, biến con người thành một sinh vật chỉ biết vâng lời các chủ chăn mà không cần đến lý trí phán đoán đúng sai.
Hơn 5 lần Alexandre de Rhodes bị chúa đàng trong - đàng ngoài trục xuất, và cũng nhiều lần trốn trở lại Việt Nam hoạt động bất hợp pháp, chứng tỏ một nhân cách thiếu nghiêm túc và bất khả tín. Những tàng thư minh chứng cầu viện ngoại binh và giáo sĩ đến chiếm đoạt đất nước ta mà Đắc Lộ đã khẩn cầu Pháp hoàng Louis IV. Đắc Lộ cũng báo cáo chi tiết về tình hình kinh tế, thương mãi, tôn giáo, chính trị, địa dư…của Việt Nam cho Pháp và các Giám mục của Giáo Hội Pháp. Hành động đó nếu không gọi là tình báo thì gọi là gì? Ý đồ chiếm đoạt một đất nước bằng quân sự và tình báo chả lẽ là có công với dân tộc Việt???
Hình ảnh một đấng minh Vương dầy công dựng nước như Lý Thái Tổ, một kẻ phạm tội với dân tộc Âu Lạc như Alexandre de Rhodes, chả lẽ tôn kính ngang nhau?
Ông Phạm Văn Hạng nghĩ gì khi đề nghị tặng tượng Đắc Lộ vào dịp kỷ niệm nhớ ơn tiền nhân của đất nước? Phải chăng đây là một sự biếm nhẽ khinh thường tổ tiên, hay là một thử thách trình độ nhận thức của các nhà lãnh đạo Hà Nội về lịch sử dân tộc?
Hình ảnh một Đắc Lộ được đưa lên báo giấy và báo điện tử, có đúng là thật ảnh của Đắc Lộ hay do tay nghề kém của tác giả mà biến tác phẩm điêu khắc thành một gương mặt quỷ??? Trên đầu Đắc Lộ tác giả vẽ mấy vần chữ ABC ý muốn nói Đắc Lộ là tổ khai sinh ra chữ quốc ngữ La Tinh hay ý muốn nói cái đầu đó chỉ là trình độ ABC??? Nếu cho đó là tổ khai sinh ra chữ quốc ngữ La Tinh, quả thật trình độ sử học của tác giả có vấn đề, cần học hỏi.
Và nếu tác giả chọn năm 2010, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long để hiến tặng nhà nước Việt Nam bức tượng Đắc Lộ, đó là một sự sỉ nhục dân tộc Việt và xem thường nhà nước Việt Nam, ngành khoa học lịch sử Việt Nam.
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, mọi người con dân đất Việt thể hiện sự tôn kính và ủng hộ bằng cánh hoa, nén nhang cũng là tấm lòng đối với tổ tiên tiền bối. Nếu tượng Đắc Lộ đúc bằng vàng khối mà dâng tặng vào dịp nầy cũng được xem là sự quái gở thế kỷ, chẳng khác nào kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh lại đem tặng quả bom hay con khỉ, đó là một phạm thượng không thể chấp nhận.
Sự phản hồi của nhiều người đã nói lên niềm phẩn uất trước thái độ khiếm nhã của Phạm văn Hạng, hãy chờ xem sự quyết định của UBND TP Hà Nội và ngành khoa học lịch sử Việt Nam.
MINH MẪN
01/8/09
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét