Thứ Tư, 29 tháng 4, 2009
PHẬT NGỌC CHO HÒA BÌNH THẾ GIỚI
Phật Ngọc, như mọi người được biết, sau khi xuất xưởng tại Thái, với sự chỉ huy trực tiếp của các Lạt Ma, chịu trách nhiệm bởi chủ nhân xưởng điêu khắc, và giám sát thường xuyên của ông Ian Green, Việt Nam là nước đầu tiên vinh hạnh được triển lãm. Chủ nhân Tượng Phật Ngọc nói: Việt Nam xứng đáng là nước đầu tiên đăng ký triển lãm Phật Ngọc, các bạn vốn hiền hậu, hiếu khách và có một tinh thần tín ngưỡng sùng kính, nhân dịp triển lãm tại Đà Nẳng, điểm dừng đầu tiên tại Việt Nam, chúng tôi được tham dự lễ Hội Quan Âm tại Ngũ Hành Sơn, một lễ hội truyền thống của quý vị, thể hiện nét văn hóa đặc thù…chúng tôi rất mãn nguyện và hãnh diện!
Vâng, dưới mắt của một Phật tử nước ngòai, lễ hội Quan Âm trùng vào dịp triển lãm Phật Ngọc đã tạo một không khí sôi động, khẳng định một niềm tin truyền thống vững chắc đối với Phật giáo, đồng thời thể hiện một sự cởi mở mà đất nước đang hội nhập tòan cầu; Tiếp theo, Đànẳng, Bà Rịa, Sài gòn, Hốc Môn, lượng người từ ngày đầu đến ngày cuối không hề suy giảm, trung bình mỗi ngày trên 20 ngàn lượt người chiêm bái, đủ mọi thành phần trong xã hội; vào giờ nghỉ, có cả công nhân, cán bộ, bộ đội mang hương hoa dâng lên tôn tượng, tất cả chắp tay trước ngực, cúi đầu, vì không có chỗ để lễ lạy; Riêng chùa Hoằng Pháp, tổ chức rất chu đáo, không có cảnh chen lấn như các nơi trước, dòng người sắp hàng theo sự hướng dẫn, vì thế, ai cũng có dịp đến gần tôn tượng để chiêm ngưỡng! Ngày khai Tượng cũng như đêm kết thúc, Hoằng Pháp đã tạo cho quần chúng có một ấn tượng đẹp về cách tổ chức rất nghệ thuật và chu đáo. Trong nước, quần chúng mãn nguyện khi được chiêm bái tôn tượng, chủ nhân tôn tượng và một số ngọai kiều cũng tỏ ra hài lòng đối với Phật giáo Việt Nam, quần chúng Việt Nam và chính quyền Việt Nam, vì họ không hề gặp một sự khó khăn nào.
Ian Green là chủ nhân bỏ hàng triệu dollar để mua khối ngọc thạch Nephrite, được mệnh danh là “ polar pride” và công thợ của những nghệ nhân đến từ các nước Phật giáo Nam truyền; lại hợp duyên với ông Vanit Yotharvvrt, người giám sát điêu khắc tôn tượng, họ đã thành công mỹ mãn với khối ngọc thạch giá trị nhất tinh cầu để hoàn tất một báu vật vô giá thế kỷ. Với công đức to lớn đó, được quần chúng Việt Nam đáp lại bằng lòng nhiệt thành và sự tôn kính, với sự tận tình của công an, dân quân địa phương, giúp cho một lễ hội tầm vóc quốc gia như thế, không có một sự cố đáng tiếc nào xẩy ra!
Nhưng, trong thời gian Phật Ngọc còn ở chùa Hoằng Pháp, thầy trụ trì chùa Vạn An, Thích Chơn Tài, hướng dẫn quần chúng làm đường, trang trí để nghinh đón tôn tượng, liên tục bị công an Đồng Tháp mỗi ngày triệu tập làm áp lực phải đưa tôn tượng về chùa Tỉnh hội theo lời xúi dục của Tỉnh Triệt, vì Vạn An là ngôi chùa hẻo lánh nằm trong sâu; Qua sự phân tích về thủ tục hành chánh cũng như đóng Bảo hiểm mỗi khi di chuyển, chính quyền Đồng Tháp và Tỉnh triệt thấy không thể kham, bèn đề nghị cho để thêm các thùng công đức, cuối cùng, qua văn bản cuộc họp giữa BTS PG tỉnh Đồng Tháp do Tỉnh Triệt thao túng, chính quyền , và chùa Vạn An đã quyết định một số chi tiết, mà quan trọng nhất vẫn là lợi nhuận từ sự cúng dường của bá tánh, buộc phải chia đôi, một nửa là chùa Vạn An, một nửa thuộc BTS và chính quyền. Sở dĩ chùa Vạn An được phân nửa là mọi chi phí trước, trong và sau thời gian triển lãm Phật ngọc đều do chùa Vạn An đảm trách. Như vậy phân nửa kia, có lẽ do công lao của BTS hợp tác với địa phương để buổi lễ được hòan mãn.
TP Đà Nẵng, Bà Rịa, chùa Phổ Quang và cả Hoằng Pháp, không những hoan hỷ trong việc triển lãm tôn tượng, còn bố thí cúng dường, đãi ăn cho quần chúng mà không nghĩ đến lợi nhuận, và chính quyền những nơi đó họ không hề lợi dụng tình thế để kiếm ăn, mặc dù họ có thể, ví dụ giữ xe hay bán tranh ảnh, hòan tòan họ để cho dân tự do sinh họat, có lẽ duy nhất, Đồng Tháp là tỉnh làm chuyện ngược ngạo, xem quyền lợi vật chất lớn hơn cả danh dự của quốc gia và của dân tộc. Ví thử ông bà Ian Green và những ngọai kiều khác biết chuyện nầy, họ sẽ nghĩ gì những lọai thầy tu và cán bộ tham ăn vớ vẩn như thế. Vì thể diện của dân tộc, không nói ra, đồng nghĩa bao che cho những thành phần xấu buôn thần hại nước; Đồng Tháp cũng là tỉnh duy nhất lật đổ BTS PG đương nhiệm để lập BTS mới do những kẻ mặc áo nhà tu lòng đầy tham dục điều hành, họ không cần biết luật lệ, Hiến chương là gì, miễn những kẻ xấu cấu kết với nhau để hưởng lợi; chuyện lợi dụng Phật ngọc để thu vén ăn chia của Đồng Tháp là một hành động không thể chấp nhận, họ đã xem thường đức tin quần chúng, thiếu tôn trọng nhà tỷ phú Ian Green đã dám hy sinh của cải mục đích tạo Tôn tượng cho nhân loại chiêm ngưỡng, và nhất là sĩ diện của một quốc gia đang trên đường hội nhập!
Với cuộc sống nghèo khó của quần chúng miền Tây VN, với kinh tế suy thóai, tài chánh khó khăn hiện nay, nhân dân đến cúng được bao nhiêu một người? giả thử hai tuần triển lãm, độ một trăm ngàn lượt người tham gia, không hẳn số người đó đều có khả năng cúng dường. Nếu 50 ngàn người cúng, mỗi người 5ngàn đồng thì cũng chỉ được 250 triệu đồng. theo văn bản thống nhất của ba bên họp thì sẽ cúng lại cho ông bà Ian Green 100 triệu tượng trưng, phụ vào chi phí vận chuyển, thế thì 150 triệu còn lại chia đôi, chùa Vạn An làm được gì đủ chi phí suốt hai tuần, trong khi 75 triệu bên kia chỉ đủ vài chầu nhậu, nghĩa là hưởng thụ trên đồng tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân nghèo khổ; họ thắt lưng buộc bụng vì đức tin chứ đâu để cho kẻ tham lam hưởng thụ?
Đất nước mình tuy nghèo, nhân dân ta vẫn giàu lòng từ và phong phú đức tin. Dân tộc ta thừa tự trọng và lòng yêu nước, rất tiếc đất mẹ đã sản sinh ra những đứa con luôn bán gia sản của mẹ mà ăn, kể cả thánh thần và dân tộc, xem nhẹ sĩ diện của quốc gia; Và thời đại đã biến chất một số tu sĩ sẳn sàng đi bằng đầu gối trước thế lực và tiền bạc, nhưng vênh mặt với tín đồ, xa hoa trên sự khổ đau của người dân, họ nhấn chìm phẩm giá của Đạo Phật và những bậc chân tu. Họ đánh bóng Đức Phật để rồi đem bán đức Phật.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn tin vào hồn thiêng sông núi, Việt Nam ta ngày một thăng tiến và hòan thiện. Phật giáo ngày một sáng ngời khi mà Tăng Ni trẻ ngày càng có kiến thức và có nhân cách đạo đức hơn;
Những cán bộ, những tu sĩ thóai hóa như thế, chỉ là hiện tượng trong thời kỳ quá độ để chuyển mình cho một dân tộc tươi sáng, cụ thể là khối ngọc thạch đã trở thành Phật Ngọc thế kỷ mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên vinh hạnh được nghinh đón khắp ba miền.
Hình trên : Ông Ian Green, chủ nhân tôn tượng Phật ngọc
MINH MẪN 29/4/09
Thứ Ba, 28 tháng 4, 2009
Kính Gửi UBND Q.8 (BTG-ANNINH-TTVH )
Thưa quý Ban ngành,
Tôi Minh Mẫn, xin gửi đến quý ban ngành chức năng những việc sau đây:
Tội được nghe thầy Tâm Bình, trụ trì chùa Kim Liên, thuộc địa bàn quản lý của quý vị báo cáo quý vị lập Biên bản việc phổ biến tập Hiện Trạng VN, Quá Khứ và Tương Lai của tôi, với lý do: - không có giấy phép – không ghi số lượng in ấn…gây mất đoàn kết tôn giáo.và muốn tịch thu.
Thưa quý vị, quyển sách khi đến tay quý vị, sau hơn một năm in thành sách, sau mấy năm đã phổ biến trên mạng Internet, nghĩa là quý vị không có cơ hội tìm đọc, dĩ nhiên Sở và Bộ Công An không hề bỏ sót những tư liệu mang tính nhạy cảm như vậy, và nó vẫn tồn tại trong các cơ cấu từ trung ương trở xuống, từ trí thức đến quần chúng bình dân hiếu đọc mà không hề bị các cơ quan thẩm quyền gây khó dể, ngoại trừ quý vị, điều đó xác định tính đúng đắn, trung thực, và giá trị đóng góp của người dân ở một góc độ khách quan,yêu nước và có trách nhiệm hổ trợ cho nhà nước thấy cả bề trái của những tôn giáo có ý đồ xé nát quê hương như đã từng!
Thưa quý vị, vị trí lãnh đạo, nhà nước kêu gọi đoàn kết là đúng, nhưng đoàn kết không có nghĩa chiêu nạp mọi ý đồ xấu, âm mưu lật đổ chế độ, tiếp tay làm nội gián cho ngoại bang mà nhân dân đã đổ máu xương cùng với đảng hơn 30 năm mới giành được độc lập; Giờ đây, đảng xây dựng và phát triển quê hương, người dân không những tiếp tay với nhà nước để phát triển kinh tế, còn phải phát hiện những âm mưu đen tối trong xã hội và trên văn hóa, tôn giáo mà đảng và nhà nước chưa biết đến. Cái lợi không chỉ kẻ khác mang tiền cho mình mà còn cái quan trọng hơn, là có người dám vạch cho mình thấy được âm mưu đen tối của kẻ khác.Tiền mang đến đôi khi có dụng ý xấu, nhưng ý mang đến luôn là điều cần thiết. Cho dù điều người dân góp ý, nhà nước đã rõ, không vì thế mà lời góp ý đó vô nghĩa hoặc là bị chụp mũ cho ý đồ xấu.
Tôi thông cảm trình độ, chức năng hạn chế của quý vị, không có dịp tiếp cận những điều thâm cung bí sử của các tôn giáo khéo che đậy bởi nét hào nhoáng bên ngoài, hay là quý vị cũng muốn che đậy những điều xấu đến khi ung nhọt bể bạt, tôi e rằng lúc ấy khó mà cứu vãng, không những sinh mạng một chế độ mà cả một dân tộc trong bể máu hàng ngày ta thấy trên màn ảnh nhỏ. Quý vị hãy thương con em mình chứ dừng nghĩ đến bảo vệ ngôi vị của mình hiện tại.
Với sự cảnh giác và tinh thần trách nhiệm, nếu có, của quý vị, đó là điều đáng ca ngợi, nhưng nếu khôn ngoan hơn, quý vị trình lên cấp trên, có thẩm quyền quyết định, quý vị không nên đòi tịch thu, lập biên bản khi mà quý vị chưa rõ sự lợi hại của quyển sách. Quý vị không thể xét đoán giá trị cuốn sách trên bình diện tiêu cực, trên nguyên tắc pháp lý, vì có những cái phải vượt ra ngoài khuôn khổ quy định mới đem lại lợc ích thực tiển.
Nhưng dẫu sao, tôi vẫn thông cảm thiện chí của quý vị đối với nghiệp vụ và trách nhiệm. Quý vị cũng nên thông cảm cho một thiện ý của người dân trước sự tồn vong của một dân tộc, mà nhân danh tôn giáo đã đẻ ra một Dega đòi lập quốc gia tự trị quý vị đã thấy.vì tranh chấp vị thế của giáo xứ, chùa Hiển Quang bị đốt khi muốn dựng bảng! Và tôi hy vọng, quý vị chịu khó đọc sách, học hỏi thêm để có tầm nhìn thoáng hơn khi còn là cán bộ quản lý đất nước nầy. Chúc quý vị hoàn thành tốt mọi trách nhiệm một cách linh động.
MINH MẪN
14/5/06
PNTR và CPC
PNTR vaø CPC
John Hanfort, đại sứ lưu động về tôn giáo của Mỹ lại đến VN, và Michael Marine, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Hoa kỳ tại VN, cùng làm việc với ông thứ trưởng Bộ Công An VN.
Mỗi bước chân ông John là một sự theo dõi chặt chẽ của những tổ chức chống đối VN ở trong và ngoài nước. Khi chưa đặt chân đến VN, trong Liên tôn chống Cộng, UB Nhân Quyền, các Linh Mục hoạt đầu chính trị, các sư và thành phần thất sủng lưu vong có nhiều động thái để Mỹ quan tâm đúng mức đối với vấn đề vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo tại VN. Ngay cả Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn cũng xôn xao hội họp vì chuyến đi nầy.Một Hồng y Đặc trách vùng Đông Nam Á xem lại hồ sơ báo cáo của Hội Đồng Giám Mục VN, và Hội Thánh Baptist thế giới, có chi nhánh hoạt động tại VN cùng những hội Thánh Tin Lành khác hoạt động vùng cao, đều đúc kết hồ sơ mấy tháng trước, chuẩn bị cho chuyến quan sát của Thái thú cờ Hoa.
Phần lớn những Việt kiều lưu vong đều mỏi mệt bởi sự tác động chính trị của những người sống bằng nghề kêu gọi, kích động…Trước đây các sư thuộc GHTN ở hải ngoại cũng sốt sắng năng nổ lớn tiếng chống báng VN, một phần vì cuộc sống, nhờ sự tài trợ của các tổ chức đó, để có tiền đóng thuế và trả nợ ngân hàng, một phần, nhờ nhiệt tình với GHTN để đón nhận sự đền ơn của những tín đồ thiếu thông tin về PG và tổ quốc. Và những hoạt động chính trị như thế tại xứ người đôi khi cũng nói lên được tính hiệu quả bởi sự quan tâm của những nghị sĩ Mỹ trong mùa tranh cử, nhưng rồi đâu cũng vào đó, vì qưyền lợi của nưốc Mỹ quan trọng hơn yêu sách của nhóm người ăn nhờ ở đậu trong nhà họ. Hiện nay, phần lớn các sư thuộc GHTN tại hải ngoại đã yểu xìu, không còn hung hăng như trước, một phần do nội bộ PG hải ngoại chia năm xẻ bảy, một phần thấy được cái thực lực của GHTN chỉ còn là danh, và mất chính nghĩa; nhưng vẫn có một vài vị chưa lắng được tâm sân, cũng vì những đấng lãnh đạo trong nước chưa chịu bó tay quy hàng!
Các ngài lớn tiếng kêu gọi Mỹ bãi bỏ quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn ( PNTR ) đối với VN.
Đối với Mỹ cũng như bất cứ quốc gia nào, không thể làm tùy hứng, mọi vấn đề, nhất là đối với quốc tế, thuộc diện quốc sách, được đưa ra, không đơn thuần là một vấn đề duy nhất đó, mà còn liên hệ đến những vấn đề quan trọng khác; Vấn đề duyệt xét quy chế quan hệ thương mãi bình thường vĩnh viễn cũng thế, tuy là hoạt động thường niên của Quốc Hội Hoa Kỳ, nhưng là vấn đề tuỳ thuộc sách lược và tình hình từng giai đoạn lịch sử của Mỹ đối với từng quốc gia. VN đang trong giai đoạn cuối để vào WTO, khi mà Mỹ đã hợp tác với VN trên nhiều lãnh vực. Những tai tiếng của VN trên trường quốc tế đã giảm, những tiến bộ rõ nét của VN đối với trong và ngoài nước cũng được thế giới xác nhận, thì sự xác nhận của John Hanfort về sự cải thiện tình hình tự do tôn giáo tại VN cũng không có chi là quá đáng, tuy nhiên, vẫn không thiếu kẻ quá khích la ó, chưởi rủa TT Pháp Châu nói lên thực tế khi về VN. TT nói đúng cái thấy và biết của mình về tình hình tôn giáo từ Nam chí Bắc, ngược lại những thành phần quá khích phủ bác bằng những luận điệu hàm hồ thiếu văn hoá, sai sự thật, vì những người như vậy không chịu về VN để thấy tận mắt sự đổi thay, hoặc những người còn trong nước, vẫn nhìn đời bằng cái tâm hận thù, một khi hận thù thì làm sao nhìn nhận được cái đúng, cái thật; Những hiện tượng tiêu cực trong xã hội là điều tất yếu của bất cứ đất nước nào trong quá trình chuyển biến, ngay cả những quốc gia ổn định, vẫn có những tiêu cực hằng ngày, thế thì không nên nhìn VN bằng tâm thiếu trung thực. Kẻ bên ngoài có cái nhìn thiếu chính đáng vì nhiều lý do, nhưng cùng một dân tộc, hơn một phần tư thế kỷ cầm quyền , ổn định và phát triển đất nước, điều đó nói lên chính nghĩa mà thế giới đành phải chấp nhận, thế mà những người con đất Việt lại muốn xáo trộn sự bình yên của cả một dân tộc, không làm được gì suốt thời gian dài đó, tại sao vẫn mang thân Bọ Hung nhắm mắt lủi vào, không phải là vũng phân mà là vách sắt. Ích gì và lợi gì cho đất nước khi mà các nước trong khu vực đua nhau phát triển, nhất là Trung Quốc, một chàng khổng lồ phát triển mau lẹ, thích ứng kịp thời đại, chính mình lại muốn dân tộc mình phải lùi lại kỷ nguyên bán khai? Xáo trộn, dẫm chân trại chỗ có nghĩa đi lùi lại lịch sử. Chỉ có kẻ quấy rối vô trách nhiệm mới làm chuyện đó; Nhưng tiếc thay, trong số nầy có cả những vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, mang danh trí thức và đạo đức, ngăn cản các nước quan hệ với VN, muốn VN vẫn nằm trong danh sách các quốc gia đáng quan tâm. Bao cái muốn ngược lại lợi ích dân tộc đều thất bại, giờ đây, lời tuyên bố của vị Đại sứ lưu động tôn giáo của Mỹ xác định thêm một thất bại của những kẻ manh tâm phá hoại tổ quốc.
VN có tiến bộ có nghĩa là có tự do tôn giáo do nhiều người về nước xác nhận, trong đó có TT Pháp Châu, sự xác quyết của John Hanfort chỉ là sự xác quyết những xác nhận khách quan kia là đúng sự thật, cũng có nghĩa xác quyết VN sẽ thoát khỏi danh sách các nước đáng quan tâm ( CPC ). Vậy những ai manh tâm cản trở quyền lợi dân tộc, chống đối PNTR để làm gì, vì ai ?
Một khi Mỹ cần VN làm thế chân vạc cho vùng Thái Bình dương, có thể Mỹ không đặt nặng quyền lợi kinh tế tại VN, nhưng an ninh chính trị khu vực, bảo đảm kinh tế lâu dài, là cần thiết đối với một cường quốc như Mỹ, vì vậy, dù có ai chống đối, yêu sách, Mỹ vẫn quan tâm thế bá chủ của mình chứ không vì tiếng dế lẻ loi vô nghĩa đó.
Để thắt chặt tay với VN, Mỹ phải dọn đường cho VN hoà nhập thế giới, đương nhiên VN cũng phải chứng tỏ sự tiến bộ, cởi mở của mình, điều nầy đã được minh chứng, những kẻ hận thù chống đối sẽ đi về đâu giữa lòng dân tộc nầy???
PHƯƠNG BỐI ĐẠI GIỚI ĐÀN
Sáng ngày 10/3/07 nhằm ngày 21 tháng giêng năm Đinh Hợi, Giới Đàn Phương Bối được khai tại tu viện Bát Nhã theo chương trình đã hoạch định.
Qua năm ngày khóa tu cho cư sĩ, tiếp đến là khoá tu cho tu sĩ vừa hoàn mãn vào ngày 9/3, lượng số tu sĩ tham dự trên 1.200 người, dĩ nhiên ít hơn khóa cư sĩ, nhưng chư Tăng chư ni vân tập tham gia, đã khép mình trong thiền quy một cách tự nguyện, tự giác, vì thế không khí tu viện trong những ngày qua mang đậm sắc thái tín ngưỡng tôn giáo mà không bị pha tạp những thô tháo đời thường..
7giờ sáng, tất cả hội chúng vân tập về chánh điện làm lễ bái Phật thỉnh sư; sau nghi thức, Thiền sư cùng chư tôn giáo phẩm, chư tăng ni, phật tử thong dong thiền hành nghinh rước giới bản Ba La Đề Mộc Xoa, theo vòng đai tu viện Bát Nhã để vào Thiền đường Cánh Đại Bàng. Đoàn người kéo dài, tuy không như khóa tu cư sĩ hàng cây số, sáng nay, thấp thoáng hình bóng chư tôn đức, các giới tử, các Phật tử và khách tham quan rãi bước chân thảnh thơi trên lối mòn sỏi đá.
Trời trong xanh không một gợn mây, gió núi thoang thoảng mùi nhựa thông, mùi chè lá và cỏ cây ẩm mục; Một số Phật tử tham dự thọ giới Tiếp Hiện, từ các tỉnh xa xôi, đến Bảo Lộc, nghĩ lại khách sạn, để vào tu viện thật sớm, chư Tăng ni tham dự khóa tu hôm rồi, một vài vị lưu lại, các giới tử Sa Di, Tiếp Hiện cũng đã đến tu viện trước một hôm để Ban tổ chức hướng dẫn nghi cách. Thập sư tăng và ni cũng có mặt tại Bát Nhã.
Lễ khai đàn và cung an chức sự bắt đầu…
Sau lể khai đàn, sư ông và chư tôn túc về hậu liêu nghỉ ngơi, ban tổ chức do thầy Pháp Ấn, Tăng thân Làng Mai sắp xếp nghi thức hành lễ, vị trí giới tử và chư Tăng ni Hộ Đàn. 9 giờ 30, tất cả đều vân tập và ổn định tại Thiền đường; sự hiện diện hàng trăm vị có mặt; những bóng y vàng và màu lam khói của áo tràng ngồi chìm sâu trong Thiền đường trên 2000 m2 như những búc tượng, bốn bề gió chui qua các cửa kiến làm thông thoáng hơn bên trong Thiền đường; Cái nắng hanh và gió hiu hiu làm sống lại cảnh núi đồi các trại học tập hay vùng Kinh tế mới, xa dân cư, xa phố thị, xa cuộc sống đời thường.
Sa Di thọ giới 54 vị
Sa Di ni 92 vị
Số lượng Tỳ kheo, Sa Di thọ giới Tiếp Hiện là 99 vị
Cư sĩ giới Tiếp Hiện 66 vị
Số lượng giới tử Bếp Lửa Hồng và Diệu Nghiêm thọ giới Tiếp Hiện là 93 vị.
Hồi chuông thong thả rải vào không gian tĩnh lặng cứ như vào chốn hoang dã, đại chúng nghiêm trang chấp tay đứng hai hàng để nghinh thỉnh Thiền sư và Tam sư Thất chứng đăng lâm Đại Đàn, vài phút trầm lặng lại tiếp tục trôi qua, sau đó Thiền sư xướng niệm danh hiệu đức Bổn sư, và rồi nghi thức khai đàn, do giới sư đại diện làm tác pháp Yết Ma thỉnh vấn đại chúng; Sư ông xướng đảnh lễ công ơn cha mẹ, ân Tam Bảo trong 10 phương, mang ơn Thiện hữu tri thức, đảnh lễ thầy bạn, mang ân cây cỏ đất đá, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo trong 10 phương; Tất cả giới tử quỳ xuống chấp tay búp sen lắng nghe Sư Ông diễn xuớng 10 giới Sa Di , Sa Di Ni. Cứ mỗi giới khi tuyên xướng, sư ông đều hỏi: giới tử có tiếp nhận,học hỏi và hành trì được không! giới tử đồng đáp: Dạ thưa có ; cứ thế mà lượt qua 10 giới, sư ông diễn đạt rõ ràng và sâu lắng giới luật mang tính đạo đức bản thân và căn bản hoà bình cho cuộc sống, mang tính cập nhật của giới luật với cuộc sống thực dụng hiện nay!
Sư ông nhắc cùng đại chúng, thời giờ thấp thoáng qua mau như thoi đưa, hãy tinh cần tu tập để khỏi uổng mất đời người. Tất cả giới tử nghe chuông đồng quỳ lạy tạ ân Tam Bảo vừa được tiếp nhận gíới luật quý báu của người tu. Mọi người lắng lòng như hòa tan vào không khí tươi mát của đất trời và nhẹ tênh bởi sự thanh khiết của giới hạnh. Lần lượt giới tử quỳ xuống, đưa đôi tay, cúi đầu tiếp nhận y do Chư tôn ban tặng:
Đẹp thay áo giải thoát
Áo ruộng phước nhiệm mầu,
con cúi đầu tiếp nhận,
nguyện đời đời mang theo,
Đại chúng đọc theo lời xứong của Sư Ông ba lần, đoạn kinh tụng hồi hướng được ngân vang. Sư ông thay mặt Thập sư, chúc mừng tân Sa Di, Sa Di Ni vừa tiếp nhận giới luật và Y pháp.
Vào lúc 14 giờ cùng ngày, đại chúng vân tập trở lại Thiền đường tiến hành lễ Thức Xoa Ma Na của Sa Di Ni. Giới tử Sa Di, tăng Ni gần 400 vị;
Một Ni Sư trong Thất chứng, mở đầu cho buổi truyền giới Sa Di Ni bằng lời niêm hương tác bạch Tam Bảo, phát nguyện và đảnh lễ mười phương chư Phật;
Lời xướng của Ni Sư chủ lễ ngân vang, chìm khuất giữa đất trời tĩnh mịch, ngoài sân, mặt trời cũng mất dấu, để lại một ánh sáng mát dịu phủ trùm trên các đồi chè thoai thoải. Một Ni sư đại diện làm lễ tác pháp.Sư Ông lập lại nghi thức tri ân cha me, Tam Bảo, quốc vương thủy thổ, thầy bạn và vạn loài như lúc sáng. Các giới Thức Xoa được tuyên xướng theo nghi thức thọ Sa Di lúc sáng.
Sư Ông cùng đại chúng đọc lời phát nguyện và hồi hướng .
Giới Đàn tặng chư vị tân Sa Di, Sa Di Ni bộ luật nghi.
Để tiếp theo buổi truyền giới Tiếp Hiện, Đại chúng tạm lui về an nghỉ, Sau 3 giờ lễ truyền giới Tiếp Hiện cho Tu Sĩ lẫn cư sĩ sẽ tiếp diễn.
Thiền sư Nhất Hạnh đăng lâm Giới Đàn, làm lễ Tác pháp Yết Ma để truyền thụ 14 giới Tiếp Hiện.. Giọng từ hòa xứ Huế, Thiền sư tuyên đọc từng tên các giới tử như mềm mại của án mây bạc làm dịu cái nắng bất thường của cao nguyên; Có lẽ giọng Thiền sư yếu hơn lần về chuyến trước, sư ông đã 82 tuổi mà vẫn không an nghỉ, vẫn vân du hoằng hóa thế giới.
Chư tôn giáo phẩm ngồi hai hàng cùng chư hội chúng hướng mặt nhau, riêng các giới tử hướng về Đức Bổn sư, lần lượt từng người đứng lên chắp tay khi nghe tên mình được đọc kèm theo pháp danh.
Sư ông ba lần xướng cho giới tử đảnh lễ Tam bảo đền ơn cha mẹ, sư trưởng giáo huấn, bằng hữu Thiện tri thức, vạn loài chúng sanh và môi trường sống, xin đảnh lễ khắp 10 phương. Tất cả đều quỳ, chấp tay lắng nghe. Sư ông giải thích và khuyến nhủ giới tử hãy lấy hạnh Bồ Tát để giúp đỡ chúng sanh.
Giới thứ nhất , giới tử không cố chấp vào bất cứ học thuyết chủ nghĩa nào, dù là Phật giáo, để thấu đạt trí tuệ.
Giới thứ hai của Tiếp Hiện ….
Giới thứ ba, không ép buộc bất cứ ai phải tin theo mình, phải tôn trọng niểm tin của kẻ khác,và tìm cách giúp cho họ hiểu được chân lý thoát cố chấp
Giới thư tư của Tiếp hiện, cảm nhận khổ đau của kẻ khác, tự nguyện đến với họ bằng mọi phương tiện để giúp họ thoát khô đau.
Giới thứ năm: y thức được hạnh phúc không đạt được bằng tiền bạc địa vị danh lợi mà phải bằng quán chiếu tu tập
Giới thứ sáu ý thức được rằng sân hận oán thù đem lại đau khổ cho nhau, con phải ý thức quán chiếu, tập luyện mỗi khi cơn sân hận oán thù khởi lên bằng cách quán chiếu hơi thở, thiền hành và nhìn người bằng con mắt từ bi để cảm thông.
Giới thứ bảy Ý thức được rằng sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, con phải tập sống trong hiện tại, không để quá khứ và tương lai lôi kéo. Con nguyện sống trong hiện thực để có an lạc
Giới thứ tám, ý thức được rằng sự khó khăn truyền thông giữa người và người, con nguyện im lặng không phán xét để tạo cảm thông cho tập thể.
Giới thứ chín, ý thức lời nói tạo ra khổ đau hay hạnh phúc cho kẻ khác, con nguyện nói lên sự thật, và không nói những gì mình chưa biết rõ.
Giới thứ 10, Ý thức rằng bản chất tập thể, là tổ chức tu học, con nguyện nói lên sự thật để tập thể góp phần lợi ích cho xã hội, không dùng tập thể để làm việc sai quấy.
Giới 11, Sinh môi là môi trường sống, con không làm những chuyện thiệt hại chung, cần phải bảo vệ.
Giới 12, ý thức được….
Giới 13, ý thức trộm cắp..
Giới 14 là giới tà dâm đối với người tại gia và đoạn dâm đối với tu sĩ xúât gia, con nguyện giữ để bao vệ hạnh phúc gia đình và sự trong sạch của người xuất gia, vì thân xác là ngôi đền thờ tâm linh của những người có chí nguyện thoát ly tam giới.
Sau khi nguyện thọ trì 14 giới Tiếp Hiện, đại chúng thành tâm đảnh lễ và tụng hồi hướng.Thiền sư, chư Tôn đức hộ đàn và các giới tử đồng xướng tụng 4 hoằng thệ nguyện..
Sau đó, sư ông và chư tôn đức đi dạo suối, giải khuây, chuẩn bị cho chuyến Cổ Phật Khất Thực vào ngày mai.
Buổi lể kết thúc vào lúc 4giờ 30.
MINH MẪN
10/3/07
PHẬT TỬ XÃ BOMBO
- Tại sao Phật tử chúng tôi thực hiện đúng bảy bước do Tỉnh Hội Bình Phước nêu ra, đã được chính quyền xã Bombo chấp thuận được thành lập Ban Hộ tự và xây chùa, mà Hoà Thượng Trưởng BTS vẫn không giải quyết?
- Chúng tôi là những công dân tứ xứ, kể cả người sắc tộc tại địa phương , sống bằng nương rẫy, muốn có một ngôi chùa để lễ bái mà Giáo Hội tỉnh không chấp thuận?
- Mỗi tháng chúng tôi phải đi chùa cách xã chúng tôi phải vài mươi cây số, đã có người bị tử nạn giao thông, chúng tôi thiết tha đươc có ngôi chùa tại xã để không mất thời gian đi lại, đó là nguyện vọng hợp lý mà Hoà Thượng Trưởng BTS không duyệt xét? Đã hơn hai năm rồi. Tại sao chúng tôi không có quyền phục vụ tín ngưỡng tại địa phương mình???
………………………………..
Những tiếng than vãn đầy bức xúc của người Phật tử xã Bom Bo, huyện Bù Đăng, mỗi khi có ai đó trong Phật giáo từ Thành Phố về, nghe thật não nề, đáng thương .
Có đến chứng kiến tận mắt cuộc sống của người dân tha phương, mới thấy tấm lòng của họ, những người vì cuộc sống phải bỏ xứ ra đi, Bắc có, Huế có, Quảng có, miền Tây Nam bộ cũng có, về đây, không những bám vào mãnh đất đỏ nắng bụi mưa lầy của miền cao, mà còn cố bám niềm tin mà ông bà cha mẹ họ đã lưu truyền, để nơi hiu quạnh, họ vẫn ước mong có một ngôi chùa, hoặc một Niệm Phật đường, sau những ngày giờ lao động vất vả.
Đã bao năm qua, những ai muốn đi chùa, phải vượt vài mươi cây số trên quốc lộ 14 để về Bù Na, hoặc trên 60 km để đến Đồng Phú. Một tháng bốn lần đều như thế. Người sắc tộc họ đi trước một ngày để phụ thầy công quả quét dọn lau chùi; những ai không có xe gắn máy thì họ đi xe đạp. Vào vụ mùa, họ thu hoạch càphê, thế mà vẫn nghỉ công để đến chùa. Hai năm nay, Phật tử xã Bom Bo phấn khởi khi gom góp đủ tiền mua khoảnh đất để mong cất được ngôi chùa cấp bốn đơn sơ thờ Phật và quần chúng khỏi phải đi quá xa; sau khi chính quyền xã hướng dẫn thủ tục và Ban Trị Sự Tỉnh đưa ra 7 bước để hợp thức hoá Ban Hộ tự tiến đến xây chùa, Phật tử phải vất vả dẹp bỏ công ăn việc làm để làm đơn, mỗi lần đi lại gần trăm cây số, xuống tỉnh hội.Quý Phật tử trong Ban Hộ tự cho biết:
Chúng tôi đến chùa Tỉnh Hội ở Đồng Phú, mặc áo Tràng, quỳ trước mặt thầy, đưa đơn xin lập chùa, thầy không nhận, ngoảnh mặt làm ngơ; quỳ như thế cả hai giờ đồng hồ, khi thầy bảo đứng lên lấy gói thuốc cho thầy, chúng tôi choáng váng ngã nhào; Thầy lại xua đuổi chúng tôi như đuổi tà; để phong bì cúng dường thì thầy bảo chúng tôi hối lộ. Sau khi thất vọng, chúng tôi ra về, gặp một tu sĩ ở trong chùa, họ bảo: quý vị phải cúng từ ba triệu trở lên thầy mới nhận. Chúng tôi là những nông dân tay lấm chân bùn, gom góp mỗi người một tí, lấy đâu ra số tiền như vậy!
Ban Hộ tự dự kiến lập chùa tại xã Bom Bo đã hai năm, gửi đơn hơn hai tháng, mọi sinh hoạt của Phật tử xã nhà đều được Hoà Thượng BTS nắm rõ, nhưng trách nhiệm của một vị lãnh đạo Giáo Hội, đáng ra phải khuyến khich, nâng đỡ quần chúng, ngược lại gây khó quần chúng.
Trực tiếp đến tham vấn Hoà Thượng về tình hình hình sinh hoạt Phật giáo tỉnh nhà, thầy không nắm vững số lượng chùa và tu sĩ, nhưng điều mà thầy nắm vững nhất là bất cứ chùa nào đã có, muốn công nhận, phải đổi tên chùa có chữ đầu là Thanh, ví dụ Thanh Long, Thanh Quang…vì tên thầy là Nhuận Thanh; Chùa Thanh Quang đã có quyết định thành lập chùa mà không cho thành lập Ban Hộ Tự. Chùa Di Đà có mặt trong danh sách tự viện của Tỉnh hội mà thầy vẫn không cho dựng bảng. Ai muốn về lãnh ngôi chùa nào là phải biết điều ở một mức độ mà thầy cảm thấy hài lòng. Thầy không chấp nhận bất cứ ban bệ nào phát triển.Lễ Phật Đản, thay vì Ban Văn hoá chủ đạo được các ban khác hợp tác, đảm trách, thầy lại giao cho người không chuyên ngành.Từ Thiện xã hội, tăng sự…cũng đều án binh bất động vì thầy không muốn hoạt động nổi trội hơn thầy.
Đức Liễu, Thống Nhất, Bom Bo đều gặp những khó khăn tương tự, Phật tử muốn cất chùa, phải hiến cúng cơ sở đó cho Giáo Hội, sau đó Giáo Hội sẽ bổ cử lại cho quý vị sinh hoạt.
Trong ba năm trở lại, Phật tử địa phương cho biết Thiên chúa giáo đã có 7 nhà thờ; Tin Lành 60 nhà nguyện, trong khi đó Phật giáo chỉ có ba chùa tại huyện Bù Đăng, xã Mỹ Trung. Thậm chí, khi thấy Phật giáo bị chậm chạp phát triển như thế, ông phó bí thư thường trực Nguyễn Kim Tiên, huyện Bù Đăng bực mình, điện cho HT Trưởng TBS trách: Tại sao ông phủ sóng quyền hạn mà không để Phật giáo vùng sâu vùng xa phát triển?
Cung cách làm việc của thầy Tưởng BTS Bình Phước quá tuỳ tiện, muốn đưa ai về đâu, muốn huỷ bỏ Ban Đai Diện, muốn quyết định một Phật sự là tự ý làm, không cần hội ý thông qua ban bệ. Vì thế, một thầy trong Tỉnh nói: ổng ăn một mình thì ổng sẽ chết một mình thôi!
Do tính quan liêu, không đích thân đến vùng sâu vùng xa để nắm tình hình, ngồi một chỗ, ai báo cáo, xin xỏ kèm theo một phong bì dầy là ký quyết định; Phật tử xã Bom Bo đã hai năm không được duyệt xét thỉnh nguyện chính đáng như thế, ngược lại, chỉ trong vòng 24 giờ, một Ni được ký nhận về trú tại nhà Từ đường của một thợ tụng cùng xã, chính những việc làm độc đoán, mang tính phong kiến, gia trưởng, đã làm cho Phật sự tỉnh Bình Phước đình trệ, thoái hoá, quần chúng bất mãn. Tín đồ kể, một hôm đến giảng và chứng minh lễ Tu Bát quan Trai, tại chùa Trúc Lâm, Bù Na, thầy Trưởng BTS bảo một Phật tử đi mua rượu, nhưng Phật tử đó không chấp thuận.
Qua ba nhiệm kỳ làm trưởng BTS tỉnh Bình Phước, Thầy Nhuận Thanh đã làm được gì cho Phật giáo tỉnh nhà phát triển? Các tôn giáo bạn phải bỏ tiền, bỏ công đi truyền bá mới có người theo, thì Phật giáo, quý thầy khỏi tốn công sức, khỏi mất tiền mua chuộc, có người tự động đến chùa, tình nguyện làm Phật tử, tự họp nhau tu tập, tự bầu bán nhau làm Ban Hộ tư, lập đạo tràng…thế mà không dang tay đón nhận, lại phủ phàng trước tấm chân tình của người dân ngoan đạo. Xưa kia, tổ Huệ Khả quỳ suốt trong sương tuyết, phải chặt cánh tay để cầu đạo, ngày nay, Phật tử bỏ việc đồng áng, vượt trên 60 cây số, quỳ suốt hai giờ để xin được chấp thuận lập Ban Hộ tự và cất chùa, thế mà thầy vẫn không chấp thuận, lẽ nào một tu sĩ lãnh đạo Phật giáo mà không nghĩ đến tiền đồ Phật Pháp và thiếu Từ Bi đối với quần chúng tín đồ? Vâng, có lẽ thầy đã an lòng với ngôi vị Trưởng BTS, có địa vị, có quyền lợi, có vây cánh, có kẻ hầu người hạ, cơm có rượu thịt, đi có xe đời mới, ngũ có phòng lạnh nệm Kimdan; chỉ ho khẻ là có phong bì, cần gì biết nổi thiết tha, đau khổ của quần chúng mỗi lần đi chùa phải vượt bao khó khăn nguy hiểm. Đâu cần biết tương lai mãnh đất Bình Phước sẽ nhuộm trắng bởi Tin Lành ngoại đạo; Thái độ tu sĩ như thế mà Phật giáo Nam triều Tiên ngày này phải lãnh hậu quả bị nhà nứơc và quần chúng xem thường ra mặt,họ coi Phật giáo chỉ là kẻ sống bám, đứng ngoài lề xã hội; bằng cớ, chính quyền Nam triều Tiên đã xét xe một vị Tăng Thống như tỏ thái độ khinh thường Phật Giáo.
Tại TP Hồ Chí Minh, tuy chậm chạp, nhưng thái độ của các cấp lãnh đạo Phật giáo có thay đổi; Trong chiều hướng như thế, Giáo Hội Trung ương không thể để các vị lãnh đạo Phật giáo các địa phương trì trệ, cản trở việc phát triển Phật giáo song hành với sự phát triển của đất nước;
Những tệ nạn tồn tại hiện nay trong các Giáo Hội địa phương, một phần do chư tôn túc Trung ương không đôn đốc, kiểm soát, không theo dỏi thay đổi những nhân sự ù lì, một phần do Ban Tôn giáo địa phương xem mầm móng tiêu cực của các tu sĩ là một lợi thế để sai khiến họ dễ hơn. Tiếng ta thán của quần chúng Phật tử khắp nơi, không được ai lắng nghe, mà chỉ lắng nghe những quyền lợi cá nhân và địa vị bổng lộc.
HT Trưởng BTS Bình Phước là một trong những điển hình làm cản trở sự phát triển Phật giáo tại vùng sâu vùng xa; Không tận dụng lợi thế về lòng mộ đạo của quần chúng sẳn có để phát triển Phật giáo tỉnh nhà; Thụ động là cách nhường sân chơi cho tôn giáo bạn; Phật giáo không sợ mất vị thế trong lòng quần chúng mà chỉ sợ những đe doạ sinh tồn cho dân tộc trước khí thế bành trướng vũ bảo của Tin Lành hiện nay; Sự bành trướng đó song hành với sự đe doạ mà ta đã thấy tại Daklak năm nào.
Phật giáo cần những cán bộ năng động, hy sinh; Giáo hội trung ương phải thành lập đoàn kiểm tra để đôn dốc Phật sự và kích hoạt cán bộ hạ tầng để bánh xe ù li phải chuyển biến. Giáo hội phải mạnh dạn thay đổi những cán bộ như thầy Nhuận Thanh để Phật giáo sáng sủa hơn; Có những nơi khó mà xây chùa, tạo dựng cơ sở mới, nhưng Bình Phước, chính quyền đích thân khuyến khích xây dựng thì thầy Nhuận Thanh lại ngâm tôm nhiều dự án.
Đến bao giờ quần chúng xã Bom bo mới có một cơ sở tín ngưỡng như các tôn giáo bạn? Nhà nước đã sẳn sàng, chỉ đợi quyết định của BTS tỉnh như chờ đợi ơn mưa mốc vào thời chuyên chế phong kiến.
Quần chúng Phật tử xã Bom bo trên 200 hộ dân, đang mòn mỏi trông đợi; đất đã có sẳn để xây chùa; Chính quyền đã chấp thuận và yểm trợ; sự hy sinh to lớn của quần chúng, kể cả nhẫn nhục quỳ gối thế mà vẫn chưa xứng đáng cho một con dấu và chữ ký của BTS sao ??? Các ngài lãnh đạo cho ai, Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ là độ thế nào???
MINH MẪN
23/019/08
PHẬT SỰ MIỀN TỈNH
Qua 26 năm, kể từ ngày GHPGVN hình thành, khung sường tổ chức nghịch đời, dẫn đến hiệu quả Phật sự cũng bị hạn chế, nếu không nói là nặng phần trình diễn!
Ngay cả nhửng thành phố lớn như TP. HCM, thành phố Hà Nội, sinh hoạt các ngành của GH cũng thiếu đồng bộ, chúng ta chỉ loáng thoáng nghe Hoằng pháp, Giáo dục, Từ thiện hoạt động không nổi cộm lắm, ngoài ra các ngành như Thanh thiếu niên cư sĩ, văn hóa... im lìm ngũ quên; Vì vậy các tỉnh, nhất là vùng xa, Phật sự càng không thể hiện nổi sức sống của một PGVN trong thời bình, sự tồn tại PG các nơi đó mang tính truyền thống Sơn môn hơn là một tồ chức hành chánh. Đặc biệt, những tỉnh duyên hải Trung Việt như Quảng Ngãi, PG thị xã hiện diện như một thành tố tất yếu của Mặt trận, PG miền quê, các quận huyện, thôn xã chỉ là những liên đới tộc họ, huyết thống, một hình ảnh Sơn môn vào những năm Pháp thuộc, an phận sau lũy tre làng, đùm bọc nhau qua ma chay đám cúng, không bộc lộ một gương mặt mà đáng ra sau 30 năm hòa bình thống nhất đất nước, cần phải có một PG năng động của thời Kinh tế thị trường, thời đổi mới của đất nước đang vươn lên, vì một PG năng động sáng tạo, sẽ kéo theo sức sống hoạt động của người dân bản xứ, tuy PG không là nhân tố kinh tế kích hoạt xã hội bản địa, nhưng sự tươi trẻ năng động của một tinh thần đạo học sẽ phấn kích sự sống nhân dân trên một cường độ tương xứng với sự thay da đổi thịt của một đất nước thời hậu chiến; Những sinh hoạt của PG có thể tạo một khuôn mặt gắn bó với người dân mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có, đó là đoàn thể thanh thiếu niên, sinh hoạt văn hoá văn nghệ, các đạo tràng Bát quan Trai, luân lưu thuyết giảng, từ thiện xã hội, viếng thăm các gia đình tín hữu..., là những công việc không ngoài tầm tay, nhưng hầu hết các tỉnh hội không ai năng nổ hay có một kế sách vực dậy một thể xác trầm mịch lâu đời của PGVN; như vậy do đâu các tỉnh hội không làm được việc đó trong khi thường xuyên tổ chức đám tiệc, trai tăng, lể Chúc thánh thuần túy tôn giáo mà bỏ qua sinh hoạt xã hội mang yếu tố tôn giáo? yếu tố bất toàn hiện tại do những nguyên nhân chính mà Tỉnh hội PG Quảng Ngãi cũng như hầu hết các tỉnh thành trong nước phải có trách nhiệm.
A/ Thí dụ, một đoàn thể Thanh thiếu niên như Gia Đình Phật Tử VN ( GĐPTVN ) một tổ chức giáo dục hữu hiệu không những theo mô hình lý tưởng PG mà còn một đoàn thể tối ưu của xã hội hiện nay kể cà Thanh sinh công của Kito giáo, Hướng Đạo sinh thế giới và đoàn Thanh niên CS HCM: đoàn Thanh Sinh Công chú trọng giáo dục đức tin, một chiến sĩ tiền phong tôn giáo. Hướng Đạo sinh rèn luyện một con người tháo vác, năng nổ mang tính kỷ thuật,Đoàn Thanh niên CS HCM là một chiến sĩ rường cột của đảng mang lý tưởng CS vào đời xây dựng xã hội. Chỉ thuần túy đức tin tôn giáo, quên trách nhiệm xã hội dể biến thành cuồng tín, manh động; chỉ thuần túy lý tưởng xã hội, bỏ qua đạo đức tâm linh, cho dù có đạo đức cách mạng như Cần kiệm, Liêm chính, Chí công Vô tư mà không đặt nền tảng đạo lý Nhân quả, một đảng viên tương lai đó cũng khó vượt qua sự ham muốn của cỏi lòng, tham nhũng băng hoại là hiện thân của sự sa ngã trước cám dổ, nói thế không có nghĩa các tu sĩ PG hoàn toàn thánh thiện, nhưng một tu sĩ chân chính thực thụ không bao giờ sai phạm những tệ nạn, một tổ chức giáo dục tốt vẫn hạn chế những nhân cách bất toàn của xã hội, đặc biệt, những đoàn sinh GĐPTVN gương mẫu, chưa hề xuất hiện một nhân cách tha hóa phàm tình, họ luôn là những công dân tốt, những tín đồ thuần lương và là người xóm giềng đáng tin cậy, do sự giáo dục tâm đức của PG và tinh thần xã hội trong sáng một cách nghiêm túc từ lớp Oanh Vũ trở lên, họ luôn sống trong tâm thức đạo lý nhân quả và tình thương đối với mọi loài, họ có trách nhiệm với xã hội!
GĐPTVN có mặt trên 60 năm, một tổ chức lâu đời nhất của PGVN, một đoàn thể PG căn bản về đạo lý và nhân cách, hổ trợ đắc lực cho các phật sự, cung ứng cho PG những tu sĩ xuất sắc, đóng góp cho xã hội những công dân nhiệt tình trong thời bình và những chiến sĩ dân tộc trong thời chiến, cùng với quê hương suốt thời kỳ Pháp thuộc và 21 năm can qua, nhất là vùng Nam Ngãi Bình Phú, đã có một thiền sư Trí Thuyên sinh quán tại Quảng Ngãi, và vô số đoàn sinh Phật tử, tham gia Cách mạng, chết dưới mũi súng thực dân Pháp năm 1947, năm 1945 đến 1952 có Thầy Thích Huyền Quang, nay là đại lão HT, từng phụ trách Ủy ban PG Cứu Quốc Bình Định; ngày 13/8/1945 đoàn sinh GĐPT mà tiền thân là Phật Học Đức Dục, cũng cọng tác với CM đứng lên chống Nhật tại Quảng Ngãi; đặc biệt 12 đơn vị Gia Đình Phật Hóa Phổ, cũng là tiền thân GĐPT ngày nay, đều tham gia phong trào kháng chiến một cách nhiệt thành; toàn bộ các GĐPTVN đều đình chỉ sinh hoạt, dồn nổ lực cho công cuộc giải phóng đất nước; máu của những người con Phật đó đã từng tẩm tưới trên mãnh đất khô cằn để ngày nay ruộng đồng được xanh tươi, xã hội được ngẩng mặt với thế giới, một quá trình gắn bó của PG đối với dân tộc mà GĐPTVN là thành viên ưu tú đã thể hiện, thế nhưng, sự đóng góp máu xương trong thời chiến cho quê hương, nay không được chấp nhận chung tay xây dựng đất nước trong thời bình; các chùa xin thành lập GĐPT, dĩ nhiên trực thuộc GHPGVN hiện nay, không được giải quyết, thậm chí các anh huynh trưởng tham gia vận động xin thành lập cũng bị thuyên chuyển công tác; Ngay tại TP HCM hiện nay, Quận Nhất chỉ còn một đơn vị GĐPT sinh hoạt, phần lớn các quận không còn tổ chức giáo dục thanh thiếu niên như vậy, thử hỏi các vùng xa xôi làm sao dể dàng tồn tại, vì vậy không lạ gì suốt thời chiến tranh, miền Bắc không có một đơn vị nào có mặt, mặc dù trước 1954 vùng Bắc bộ hoạt động rất mạnh.
Tệ nạn xã hội ngày một phát triển, nhà nước báo động, thế nhưng không muốn PG giúp sức để giáo dục tuổi trẻ, kể cũng lạ! Một số đơn vị GĐPT sinh hoạt từ xưa đến nay tại tỉnh hội, thị xã và vài chùa lân cận còn được tồn tại, ngoài ra khó mà phục hoạt hay thành lập đơn vị mới. Đúng ra, đây là nhiệm vụ của tỉnh hội, huyện hội, vì GĐPT là thành viên trong tổ chức GH, trước kia trực thuộc Tổng vụ thanh niên, nay nằm trong ban Hướng dẫn nam nữ cư sĩ, chuyện phục hoạt hay thành lập phải do GH lo, chỉ thông báo cho mặt trận, ban tôn giáo chứ không phải xin phép, vì nằm trong khuôn khổ Hiến chương GH và sinh hoạt thuần túy tôn giáo trong quyền hạn được nhà nước chấp nhận qua hiến pháp, chỉ xin phép một khi có những sự kiện khác thường không thuộc quy chế tôn giáo, thế nhưng các chùa hoặc các em Phật tử sốt sắng đứng ra lo liệu, nghĩa là họ có ý thức trách nhiệm hơn GH, lại bị chối từ! Phải chăng do tắc trách hay thiếu khả năng điều hành, lảnh đạo của Tỉnh Hội PG Quảng Ngãi, không thấy được tiềm năng của lực lượng thanh thiếu niên phật tử, nên không quan tâm xây dựng. Nam Ngãi Bình Phú là vùng Liên khu năm trước kia, PG một thời phát triển sâu rộng sau cuộc canh tân, chấn hưng PG do Thiền sư Khánh Hòa khởi xướng vào năm 1923, hàng thế kỷ trì trệ, sau đó được nhiều giới cư sĩ trí thức hợp tác như bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám...ngay cả Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu ,tuy Nho giáo, cũng tán đồng nhiệt liệt, mãi đến năm 1944, GĐPTVN chính thức thành lập vào ngày Phật Đản tại đồi Quảng Tế mà danh xưng lúc bấy giờ là Gia Đình Phật Hóa Phổ, chỉ trong vòng 3 năm đoàn thể thanh thiếu niên đó đã lan tỏa khắp các tỉnh, các khuôn hội đều có sự hiện diện của GĐPT sinh hoạt, gia tăng sinh khí cho một PGVN thời bấy giờ, sau khi đất nước tạm chia, các khu vực phía Nam vẫn tăng trưởng những hoạt động tôn giáo, GĐPT ngày một phát triển, mặc dù chịu áp lực từ các chính quyền Kito giáo, thậm chí nhiều huynh trưởng miền Trung bị giam cầm thủ tiêu, tại sao thời bình ngày nay, PG nói chung và GĐPT nói riêng chỉ tồn tại các tỉnh thành một cách đơn điệu, các vùng sâu, vùng xa bị tê liệt hoàn toàn ?! Không những thế, ngay tại TP HCM, những đơn vị Gia Đình sinh hoạt trước 1975, còn tồn tại, không ít khó khăn đến với họ. Nhà nước không cấm họ sinh hoạt, nhưng muốn họ nép mình dưới sự chỉ đạo của Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ do GH đương nhiệm điều hành, ngược lại, thay vì mời họ ngồi lại thảo luận tìm thế dung hợp, lại chỉ thị như một mệnh lệnh phải gia nhập, nhưng người lảnh đạo Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ không đủ kinh nghiệm điều động một tổ chức gần 70 tuổi thọ như GĐPTVN, ( mặc dù Tống Hồ Cầm từng là thành viên sáng lập GĐPTVN như Võ Đình Cường ), không nắm rõ chuyên môn của ngành, nhất là không đủ tư cách đạo đức của một người hướng dẫn các em mà các anh chị trong ban hướng dẫn đặt vấn đề nhân cách, tu thân ngang tầm với giáo dục đoàn sinh, đó là đạo đức tất yếu của một người xuất thân từ GĐPT. Các anh chị trong ban hướng dẫn không muốn đứng ngoài tổ chức GH, nhưng phải khép mình thế nào cho hợp lý và tương xứng với tầm vóc của một đoàn thể Thanh thiếu niên PG. Một giải quyết vụng về khi kết hợp GHPGVNTN với GH hiện tại để đưa tới tình trạng phân hóa PGVN ngày nay, bây giờ, vấn đề GĐPT cũng không khôn ngoan hơn khi muốn các em tham gia hệ thống mới, buộc lòng biến các em thành những đứa con ngoan vô thừa nhận! Người đầu ngành hướng dẫn Nam nữ cư sĩ thuộc GH hiện nay phải thực lòng khiêm tốn kết hợp những đoàn thể đó làm một lưc lượng nồng cốt của PG tiên phong trong xã hội mới bảo vệ tiềm năng PG, không nên đẩy các em vào thế đối lập khó xử, hay phung phí tiềm năng PG một cách vô lý, trong khi đó, Kito giáo tận dụng các giáo xứ làm nơi sinh hoạt cho các đoàn, đội thiếu nhi, thanh niên trở thành đạo quân Đức Mẹ! Không một trẻ em Công giáo nào đứng ngoài đoàn thể đó. Đó là trách nhiệm của các chức sắc giáo hội không ý thức tầm quan trọng nơi lớp thanh thiếu niên PG. Chỉ có GĐPTVN là tổ chức duy nhất của PG mang tính thống nhất thật sự.
B/ Phật sự địa phương, chúng ta vẫn lấy PG Quảng Ngãi làm tiêu biểu cho những giới hạn trong cung cách điều hành Phật sự; Có lẽ PG không quen sinh hoạt hành chánh, chỉ quen sinh hoạt tín ngưỡng, thậm chí lẫn lộn giữa công tác hành chánh và công tác tôn giáo. Công việc hoạt động tỉnh hội PG Quảng Ngãi chỉ thu gom quanh thị xã và vài vùng lân cận, cũng như hầu hết các tỉnh thành khác, PG QN cũng hội họp, phổ biến thông tư, pháp lệnh, giáo chỉ...vạch phương án hành động cho nhiệm kỳ ngắn hạn và dài hạn... nhưng đâu lại vào đấy, quý thầy vẫn quảy túi bận bịu ma chay đám tiệc mà chương trình kế hoạch của hội nghị vẫn để bụi bám; Quảng Ngải là một trong những tỉnh nghèo nhất, tuy dự án dầu khí Dung Quất được hoạch định, nhưng đời sống nhân dân nơi thôn quê vẫn thiếu thốn, cư dân bỏ làng xã tản mát vào Nam tìm kế sinh nhai, ruộng vườn để lại cho các cụ già và trẻ con, một lực lượng lao động lớn lao bị thất thoát, phải chăng đây là một thất bại của nhà cầm quyền địa phương, không biết kích thích nền kinh tế đang mở để thu hút doanh gia đầu tư, giải quyết nguồn lao động tại chổ. Trên dưới một triệu dân, 90% nông nghiệp, ruộng vườn thường bị thất thu do thiên tai, mùa màng thu họach không đủ ăn, bình quân đầu người thu nhập không tới 10 đô la mỗi tháng, buộc lòng dân phải bỏ xứ, cùng với số phận của cư dân, các chùa cũng không khá hơn so với các thị thành sung túc, thế nhưng, hiện nay tỉnh hội bắt tay xây chùa to lớn, để làm gì khi dân còn khốn khó, khi tăng ni cần ăn học, bao nhiêu phật sự cần phát triển. Hiện nay toàn quốc có trên 20.000 chùa, chưa nói tới các am tự viện tự lập không đăng ký, một số chùa vẫn chưa có thầy, có cần chăng xây thêm chùa khi mà cơ sở đó không đủ biểu tượng cho một PGVN hưng thịnh! Người dân hiện nay, ngoài công tác xã hội, mưu sinh, họ cần một tín ngưỡng tâm linh có hiểu biết, nhưng quý thầy biến họ thành người đến chùa để công quả, cúng dường và tôn kính chư tăng như một ông vua, nghĩa là một tín đồ mù, không am tường giáo lý, dần đi vào mê tín dị đoan,vốn dĩ PG cần loại trừ; Các thanh thiếu niên không cảm thấy thích thú đến chùa chỉ để phủ phục, họ cần vui tươi học Phật qua văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa,thư pháp... nghĩa là PG cần nâng cấp tâm linh và tính thẩm mỹ nơi tâm hồn và kiến thức của họ; người trí thức cần những buổi thuyết trình hội thảo những chủ đề văn hóa, dân tộc và đạo đức bổ ích cho bản thân họ và cho xã hội đang phát triển, không nên tự mãn những gì đang có trong khi đất nước tuột hậu so với các quốc gia trong vùng; PG cần góp tay nâng cao dân trí cho đất nước thời bình như đã chung sức khi dân tộc lâm cảnh chiến tranh, PG không tự mình loại khỏi xã hội như kẻ đầu hàng trước cuộc chơi mới bắt đầu, những hoạt động văn hóa như vậy, PG đủ khả năng thực hiện như thời Lý Trần đã đóng góp cho văn học dân tộc suốt nhiều thế kỷ, ngoại trừ TP HCM thỉnh thoảng có những sinh hoạt văn hóa vào dịp lể như Đản sanh, Thành đạo, ca nhạc, thư pháp, hội họa, các tỉnh hội không có một động thái nào để xã hội quan tâm.( Kito giáo có mặt trên quê hương non 5 thế kỷ, thế mà ngày Noel cứ như là quốc lể, mọi người dân nô nức đi chơi, trong khi PG sống chết cùng dân tộc trên 2.000 năm, không ai biết lể Phật Đản ngày nào, ngay ngày lể Đản sinh, cũng chỉ lặng lẽ trong bốn vách chùa, xã hội không ai quan tâm! ) Văn hóa và giáo dục đạo đức là trách nhiệm của PG đối với xã hội, nhà nước, dù bất cứ thể chế nào, họ chỉ thành công xây dựng một xã hội thịnh vượng về kinh tế và an ninh về quốc phòng, rất tiếc PG ta, sau năm 1975, vì bất đồng nguyên tắc, không thống nhất toàn bộ tâm lý, chư tôn đức tài ba không thể vận dụng sở trường đóng góp cho VN thành quốc đạo phú túc mà đáng ra PG cần phải có; Những chiến sĩ có công CM đã được đãi ngộ tương xứng, PG được những gì ngoài gia tài uy tín, đạo đức kiệt quệ, biến một số tu sĩ cậy thế ỷ quyền đánh mất phẩm chất của một Thiên Nhân chi Đạo Sư!
Sinh hoạt văn hóa chẳng những không đạt chuẩn như ý, ngược lại có những vùng, một trụ trì, một chức sắc PG lại hủy hoại những công trình văn hóa cổ kính mang tầm vóc lịch sử như tại Trảng Bàng, Tây Ninh: TT T. Thông Nghiêm,ủy viên HĐTS GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự PG tỉnh Tây Ninh, đã thỏa thuận trao đổi mảnh dất có hàng trăm ngôi cổ tháp của các tổ tiền bối trên 300 năm,tại Phước Lưu cổ tự, cả những tiền hiền liệt tổ có công truyền bá PG vào phương Nam trong thời cha ông ta mở mang bờ cỏi, lấy ít tiền di dời sang mãnh đất khác, phía bên công ty phát triển khu du lịch cũng không ngần ngại dùng xe xúc cẩu những ngôi cổ tháp một cách khó khăn vì cấu trúc rất ư kiên cố. Một tu sĩ PG dốt nát về giá trị cổ vật, không có tinh thần bảo tồn giá trị lịch sử văn hóa PG và dân tộc, quyền lợi vật chất choán hết trí tuệ của một tu sĩ, đã đành là vậy, ngành văn hóa lịch sử tỉnh Tây Ninh cũng không nắm rõ hành tung của những cán bộ thiếu ý thức và thiếu cân nhắc khi quy hoạch một khu vực, đạo và đời đều như vậy đất nước đi về đâu!, dân tộc Khmer còn biết trân quý một Angkor, giáo phái Cao Đài Tây Ninh còn biết bảo vệ chu vi Tòa Thánh, không chấp nhận trao đổi nhượng bộ những bất động sản đang có để nhận số tiền tương xứng, dời sang khu đất khác, trái lại một tu sĩ PG can đảm vui vẻ thỏa thuận một hành động tắc trách như vậy, làm sao nói đến những sinh hoạt phát triển văn hóa khác của PG!
Các tỉnh hội không chỉ có mặt để nhận chỉ thị từ trung ương GH, thừa hành mệnh lệnh từ Mặt Trận, ban Tôn Giáo, còn cần có tính tự quyết, thể hiện bản lảnh và óc sáng tạo, đem đạo vào đời qua mô hình tổ chức và phương tiện hành chánh; Thay vì tổ chức cầu an cầu siêu, tỉnh hội kết hợp các khuôn, các tự viện luân phiên thăm viếng người già, kẻ neo đơn, an ủi lúc thiên tai và người khuyết tật, vào dịp đó cho họ thấy luật nhân quảvà đạo đức PG. Các bậc tôn túc cho chúng ta kinh nghiệm hoằng dương PP sau khi đất nước tạm chia: HT Trí Quang, HT Thiện Minh, HT Trí Thủ và chư tôn đức cùng thời, lúc bấy giờ còn thanh niên tăng, thế mà trong ba năm, đã tổ chức PG từ cơ sở khuôn hội lên đến tỉnh hội suốt dọc các tỉnh miền Trung, Cao nguyên Trung phần và vài tỉnh trong Nam, hoạt động sôi nổi và chặc chẽ, nhờ thế mới đủ khả năng đối đầu với ma đạo nhà Ngô để bảo tồn PG Vào năm 1963. Chúng ta sống trong đất nước thanh bình không có nghĩa là xong việc, phải có trách nhiệm thay thế nhà nước giáo dục quần chúng ý thức ngăn ngừa một nền văn hóa ngoại lai tà giáo lăm le hủy hoại dân tộc tính chúng ta. Tại sao các tôn giáo thần học đang chạy đua nước rùt để bành trướng lảnh thổ, chiêu dụ tín đồ, khuấy rối Tây Nguyên, PG lại ởm ờ vô tư thiếu trách nhiệm! Về lâu về dài, an ninh xã hộ và an ninh văn hóa thế nào nếu PG không làm bây giờ để tránh một sự cố như Thái Lan. Một quốc gia lấy đạo Phật làm quốc giáo đã bị Hồi Giáo cực đoan sát hại các sư và tín đồ!
Nếu các nơi không hình thành được một đơn vị GĐPT, mỗi chùa có thể là một tụ điểm để thanh thiếu niên vui chơi, tạo điều kiện cho họ thấy nguy hại của tệ nạn xã hội và sự lợi ích trên con đường hoán cải tâm linh song hành với trách nhiệm xã hội ( thi dụ hàng tháng tập cho các em vào các thôn làng làm vệ sinh đắp đường, sửa cầu ). Đem đạo vào đời rất nhiều hình thức, các thầy lớn tuổi không thích hợp những công việc huyên náo, các tăng trẻ có thể đảm đương công việc nầy, ai dám bảo PG không ích lợi cho xã hội? Có lẽ nhà nước cũng không khó khăn cho những đóng góp thiết thực đó; TT Như Nghĩa ngụ tại Sài Gòn, thế mà vẫn vận động Phật tử về làm đường xây cầu tại Xuân Vinh, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, mặc dù trước đó địa phương ngăn cấm các phật tử thành phố về tham dự lể lạc thành chùa Long Bửu, do TT đảm trách, ngay cả người địa phương cũng chỉ được làm lể bên trong chánh điện, không được ra ngoài sân,vào thời điểm năm 2001. Sự hy sinh xương máu của Tăng tín đồ PG suốt chiều dài lịch sử dân tộc vẫn chưa đủ cho nhà nước tin tưởng, nhưng không vì thế mà chúng ta thiếu trách nhiệm với quốc gia! Cũng tại Quảng Ngãi, Bình Sơn, chùa Từ Lâm, trước đây do HT Trí Hưng, tên Nguyễn Tăng, người Mộ Đức là tăng cương bổn tự, kiểm tăng của ba quận Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, sau ngày hòa bình, chùa bị trưng thu, đến nay tỉnh hội vẫn chưa có khả năng can thiệp thu hồi lại cho PG một tổ đình danh tiếng như vậy, và còn bao nhiêu cơ sở tự viện toàn quốc chưa được hoàn trả, thế nhưng PG vẫn luôn có mặt sớm nhất trong công cuộc cứu trợ thiên tai, xây nhà tình nghĩa, sốt sắng trong mọi công tác do mặt trận giao phó, có lẽ nhà nước không muốn làm khó PG, nhưng ngại PG bị thành phần xấu lợi dụng; Constantine lợi dụng Kito giáo một cách khôn ngoan, Kito giáo trở thành cây đại thọ tại Au châu, quyền lợi của chế độ đương thời và các chính quyền thực dân kế tục nhiều thế kỷ được bù đắp thỏa đáng; các vua chúa VN và Trung quốc một thời biết cách lợc dụng PG nên PG phát triển mạnh, đem lại lợi ích kinh tế và ổn định xã hội suốt thời gian dài cho nhân dân và chế độ đó. Thái lan, Miến Điện, Campuchea biết xử dụng PG hậu thuẩn chế độ, đem lại sự đoàn kết toàn dân, Nhật bản biết tôn quý PG, một đất nước bị bại sản sau đệ nhị thế chiến, chóng khôi phục sau 30 năm, nâng nước Nhật lên hàng cường quốc mà vẫn tồn lưu phẩm chất đạo học Đông Phương, nếu một thể chế lợi dụng PG như một công cụ thừa hành, PG biến thành lọai hoa kiểng không thể phát triển,sẽ chóng tàn lụn, không thể trở thành đại thụ che mát người vun tưới, thậm chí PG chỉ còn là chậu hoa giả nằm trong góc nhà bị ám bụi thời gian! Nhưng tự thân PG phải biết sự sinh tồn chính mình, không giao phó sinh mạng cho người ngoài cuộc quyết định, không những bản năng tự tồn phải vượt dậy, còn là bóng râm cho xã hội, cho dân tộc!
C/ Một ưu điểm của PG nói chung PGVN nói riêng, cho dù thiên hạ đối xử với mình có tốt hay xấu, PG vẫn bình thảng mỉm cười, vẫn tiếp tay khi con người cần, không hề oán hận; suốt thời Pháp thuộc, những chùa bị Kito giáo lấy làm nhà thờ như La Vang, Vương Cung Thánh Đường...một số bất động sản, suốt hai chế độ Kito giáo thống trị miền Nam, PG bị chèn ép, bị sát hại, thế nhưng PG không hề oán hận trả thù; Khi đất nước bị xâm lăng, PG đứng về dân tộc, tham gia CM giải phóng quê hương, biết rằng PG sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không thể phát triển, nhiều tôn túc đã phải hy sinh, PG vẫn vui vẻ chấp nhận vì đại nghĩa, những cao tăng của PGVN trong hiện đại như T,Thiện Minh, tức Đổ Xuân Hàng từng là Uy Ban PG cứu quốc tại Quảng Trị; T. Trí Quang tức Phạm Quang đã làm Uy Ban PG cứu quốc tại Quảng Bình; T. Huyền Quang phụ trách Ủy Ban PG cứu quốc tại Bình Định... thời còn trai trẻ; hiện nay HT T. An Lý tọa chủ chùa Long An Hành Trung, Nghĩa Hành từ 1945 đã tham gia phó ban PG Cứu Quốc huyện cho đến sau 1975 vẫn còn tham gia xây dựng hội Phụ Lão, HTX nông nghiệp địa phương, và còn vô số chư tăng, Phật tử đóng góp cho đất nước như vậy, nghĩa là PG không từ nan bất cứ việc gì, cho dù hy sinh tính mạng, cho đại cuộc, cho dân tộc mà không hề mưu cầu quyền lợi cho tôn giáo mình, vì vậy PG bị lợi dụng để sau đó bị phủ phàng cũng là điều PG không hề bận tâm, ngay cả vị giáo chủ của mình bị thiên hạ in vào đồ lót để nhục mạ, PG cũng không phản ứng nóng nảy như thường thấy ở các tôn giáo cực đoan! Như vậy PG phải làm gì? Đó là câu hỏi mà chư tôn đức đảm trách tỉnh hội các nơi phải tìm đáp án, không phụ lòng chư tổ để ngôi nhà PG tàn lụn bởi thái độ vô trách nhiệm của chúng ta. Hiện nay, chúng ta đủ điều kiện, đủ phương tiện để hoằng dương hơn các tiền bối chúng ta, thế nhưng 30 năm nay PG cứ chựng lại khi đất nước đang vươn dậy; những cơ sở vật chất phát triển chưa đủ tư cách chứng minh một phát triển PG, PG hưng thạnh là toàn bộ tín đồ hiểu đạo và thật tu, tăng ni có trình độ, có tư cách, có nội lực nếu không là nội chứng, và quan trọng nhất văn hóa PG thẩm thấu vào máu xương của dân tộc.
Kết. Trong cuộc sống thể hiện nhiều mặt, PG phải hóa thân đa dạng mới đáp ứng nhu cầu tâm linh cho quần chúng, vì đạo Phật chịu trách nhiệm tinh thần cho nhân loại; nhà nước bận tâm xây dựng quê hương, phát triển đất nước cho kịp với thời đại toàn cầu hóa mọi mặt mà bao năm chinh chiến đã cản bước tiến chúng ta, nhất là nhà nước đang khôi phục uy tín VN trên trường quốc tế, PGVN phải làm gì, nếu không có tầm cở thế giới, ít ra phải xứng đáng một PGVN từng là quốc giáo, phải can đảm gánh trách nhiệm xây dựng văn hóa dân tộc, làm rào chắn văn hóa ngoại lai làm tha hóa con cháu chúng ta, hy vọng chúng ta sẽ có những thiền sư cao tăng tâm chứng để duy trì mạng mạch PGVN trong tương lai! Muốn thế, ngay bây giờ, các tỉnh thành hội phải điều nghiên phương án hành động cho Phật sự qua lảnh vực hành chánh cũng như tín ngưỡng được hữu hiệu hơn, can đảm dứt bỏ tính u trệ trầm mịch hiện tại.
MINH MAÃN
12/2004 PL 2548
TỪ BẢO TÀNG ĐẾN TAM BẢO
Ngày thứ ba tại Bình Định, Thiền sư và đoàn thăm viếng Bảo tàng viện Quang Trung rồi về Thập Tháp.
Sáng 01/4/05, khí hậu trong lành của buổi sáng miền quê, sau khi Thiền sư và đoàn điểm tâm, 8giờ 30 đã có mặt tại Bảo tàng viện Qưang Trung, một khuôn viên vài mẫu, nằm không xa quốc lộ, tuy cây cao và mát, nhưng không phải loại cây của rừng nguyên sinh, do con người trồng về sau, trong những cây con vài năm tuổi, có lưu niệm tên của các lãnh đạo cao cấp trung ương đích thân xuống gốc, rất tiếc, chưa đầu tư đúng mức để nơi đây biến thành khu du lịch có tầm cở; đáng ra, những vùng đất trống bao quanh viện Bảo Tàng, phải được phủ xanh cỏ Chỉ, lại để trơ trọi lớp đất làm tung bụi mù khi chân bước qua, và còn rất nhiều những cái mà đáng ra phải mặc vào lớp áo nghệ thuật dân tộc để xứng với cái tên Viện Bảo Tàng.
Thiền sư dẫn đầu đoàn trên 500 người im lặng tiếp bước từ cổng vào, hai hàng rào danh dự do GĐPT và các cư sĩ chấp tay thành kính nghinh đón, rải rác một vài em thanh niên trang phục đội nón lá theo kiểu lính thú thời áo vải Tây Sơn; Khu nhà chính, thờ tượng vua Quang Trung, các công thần, liệt sĩ, các gian kế là hình ảnh, đao kiếm, bảo vật Tây Sơn, chính giữa sảnh đường trưng bày sa bàn toàn cảnh núi rừng vùng chiến đấu của quân Tây Sơn, trong đó có thượng nguồn TâySơn, các sắc tộc thiểu số đã cùng dân tộc chung vai khởi nghĩa, bên ngoài nhìn vào khu chính, phía tay mặt là cái giếng miệng xây gạch tổ ong, gia đình tộc họ nhà vua đã sử dụng lúc sanh tiền; Thiền sư kính cẩn nghiêng mình chiêm ngưỡng hình tượng và các bảo vật; Khuôn viên rộng thoáng, nhưng bổng chật lại khi hàng trăm người xen nhau du lãm.
Phía trước viện Bảo Tàng là nền sân gạch khá rộng, chiếc bàn dành riêng cho Thiền sư được ban tổ chức mời tham dự màn biểu diễn võ thuật Tây Sơn, Bình Định được bảo lưu đến hôm nay; đoàn người có mặt vây quanh sân, kẻ đứng người ngồi ngẩn ngơ thích thú nhìn các bộ trang phục, các nhạc cụ giản đơn, các vũ khí thô sơ, nhất là diễn viên nữ- Nguyễn thị Thuận, sử dụng một lúc 12 chiếc trống đủ cở một cách thiện nghệ.Tiếng trống Tây Sơn, thúc quân, tiến quân, thu quân; Thiền sư không dấu được sự kinh ngạc một cách hồn nhiên, chăm chú theo dỏi các thao tác diển xuất, tấm tắc khen ngợi! Những vũ điệu của bộ tộc Bana, Ede…..…được biểu diển khá xuất sắc, ngắn gọn, nhiều ý nghĩa; những đường kiếm, đao thương do các em thiếu nữ thao dợt điêu luyện. Các đường quyền võ thuật Bình Định sống lại theo ca dao: Ai về Bình Định mà coi, đàn bà con gái cầm roi đi quyền.Các Tăng thân và cư sĩ Au châu thích thú được chứng kiến một nét văn hoá chiến đấu đặc thù của VIỆT NAM trong công cuộc chống xâm lăng, giữ gìn bờ cỏi. Thiền sư chụp chung hình với các nghệ sĩ diễn viên, ban tổ chức, Ngài cũng trao quà lưu niềm bằng những đầu sách và đĩa giảng, có tấm thư pháp lộng kính: ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI; Ngài phát biểu khen ngợi ban tổ chức, nhất là các em diễn viên, Ngài nói: các em xuất sắc thể hiện tính nghệ thuật chiến đấu bảo vệ quê hương , nhưng cũng cần xây dựng quê hương không kém phần quan trọng, phải loại bỏ những tri kiến hẹp hòi để đoàn kết tình anh em…Ngài cũng giải thích bốn chữ thủ bút- phải biết quý trọng cây cối suối nguồn đất đai, sinh môi, vì đất nước ta rất đẹp.
Một buổi sáng trong lành thoải mái, một trình diển đặc biệt tặng cho sư ông và đoàn, gây ấn tượng cội nguồn của dân tộc ta, chắc chắn đây là một trong những kỷ niệm khó phai của một Lão tăng những ngày sống trên quê mẹ, thích hợp với những cưu mang dân tộc mà gần 80 năm chưa hề phai nhoà trong tâm tư của một bậc Thượng trí sống lưu vong!
Đòan lui chân gần 12 giờ, xe hướng về chùa Thập Tháp. Con đường vào chùa là hai hàng cây toả bóng, đặc biệt chung quanh chùa trồng nhiều cổ thụ me. Trước mặt chùa là hồ sen vuông vức, phủ kín mặt nước những lá sen, mầm sen, nụ sen, cảnh trí thật yên tĩnh của Thiền môn; Xa xưa, nơi đây là mười cây tháp của người Chàm, chùa được xây đựng, từ đó gọi là chùa Thập Tháp, bây giờ các tháp của lịch đại tổ sư mặc gấm rêu xanh im lặng đứng nhìn thời gian phủ bóng.
Thiền sư và đoàn chẩm rãi vào chánh điện lễ Phật, lễ tổ; bên trong bài trí theo cổ xưa, cột, kèo, đòn tay đen nhánh, kiến trúc như vẫn còn vững chắc với nắng mưa, đặc biệt hầu hết các chùa cổ, ánh sáng mờ ảo trong đại diện tạo vẻ linh thiêng của tín ngưỡng, nó không như các chùa tân thời thoáng đãng. Chùa Thập Tháp kiến trúc theo chữ khẩu, cái sân sau nhà tổ chưng bày ngọn giả sơn, vài loại hoa kiển, các dãy phòng hẹp, tăm tối, vây phủ chung quanh, tường trốc vôi loang lổ, sơn mốc sạm, nhiều phòng không có cửa hoặc cửa bị mất bản lề; một bộ ván gỗ kê trong phòng khách, bộ trường kỷ bạc thếch ngã màu; toàn cảnh lộ nét hiu quạnh, mất vẻ hào quang một thời lừng lẩy vang danh.
Thiền sư tự động lên lể bái, tự động xuống hậu tổ, đi vòng qua nhà khách, khung kính lộng thư pháp cũng lặng lẽ tự động để trên bộ ván ngựa; nhìn vẽ hoang vắng điêu tàn mà ngậm ngùi ray rứt; một thầy tháp tùng nói đùa: đi vào giờ nghĩ trưa nên không ai đón tiếp, giờ nghĩ quan trọng hơn một Thiền sư và năm trăm người! Thực ra đoàn được báo trước sẽ không ai tiếp, Thầy Viên Định trụ trì ở chùa Giác Hoa SG viện lý do đang bị quản thúc, đã viết cho Thiền sư lá thư lên mạng, tuy lời lẽ nhẹ nhàng nhưng nội dung xúc phạm, Thiền sư không quan tâm đến việc hơn thua, nhưng những người con Phật không khỏi ngán ngẩm trò đời nghĩa đạo, thế thái nhân tình đối với một bậc chân đức đáng kính, vì lợi ích chung, phải nhận nhiều oán trách từ những cố chấp hẹp hòi; Nếu không có công thì Thiền sư cũng chưa có tội đối với đạo và đời, huống nữa, với tầm vóc quốc tế của Ngài, đủ xác định một tư cách, một trí tuệ trong mọi ứng xử, thế mà…..!
Cái lạ, Thiền sư được thế nhân trọng thị ưu ái, ngược lại, pháp lữ đồng môn lại quay lưng, biểu thị ngôn thái thiếu dễ thương. Một người bình thường, khách đến nhà cũng phải ra tiếp, cho dù đó là kẻ thù, cũng phải lắng nghe họ muốn gì, nhưng đạo từ bi lại có những vị biểu lộ một lối hành xử đáng cho ngoại đạo tán thưởng vổ tay, giới trí thức thật ngỡ ngàng cho một hệ thống tự nhận truyền thừa trên 2000 năm văn hoá đạo Phật lại có lối hành xử cục bộ!
Từ Viện Bảo Tàng Quang Trung đến chùa Thập Tháp không xa nhau mấy, nhưng qua hai cung cách ưu ái và lạnh lùng đã chia cắt không gian Bình Định thành hai vùng khí hậu mát mẽ và oi bức lạ thường; Ngoài cái vô tư của Thiền sư, những ai tháp tùng hôm ấy không thể nghĩ rằng chùa Thập Tháp lại không có sư, cái hoang vắng của thành Đồ Bàng; cây cối ngoài vườn rũ bóng, tháp cổ soi nắng, sỏi đá lặng câm; một quang cảnh chết lặng, cho người sống cảm nhận một cái sống chỉ còn phân nửa của con người,
Chiều hôm đó, tiếp tục giòng người đổ về chùa, đến độ ban tổ chức phải khép cổng hạn chế để kiểm soát, thời giảng của Thiền sư tại chùa Long Khánh với chủ đề: Truyền thống Thiền tập của PGVN; sân không còn chỗ chứa, bên ngoài đường mọi người nhốn nháo nhìn vào trong, các lầu kế cận quan tâm theo dỏi; sư cô Chân Không hướng dẫn Phật tử bài hát triển khai từ kinh An Ban Thủ Ý, hướng dẫn những thao tác khi nghe chuông, biết lắng nghe, trước khi thời giảng bắt đầu, sinh hoạt của Thiền sư vẫn tiếp tục đối với quần chúng, - giọng nhỏ nhẹ, từ tốn, vang, ấm buộc cả ngàn người yên lặng lắng nghe!
M.M
01/4/05
BÁO ĐỘNG CẤP 1
Trong bài Mùa Phật Đản vừa gửi hôm nay, có nói đến chính quyền Thị Trấn Quảng Phú tỉnh Daklak đã hăm he triệt hạ tất cả các biểu tượng PG nhân mùa Phật Đản 2007 . Chiều nay ông Lê Văn Nam chủ tịch thị trấn Quảng Phú, Huỳnh văn Minh, phòng tư pháp huyện, Nguyễn trần Quý phòng Thông Tin Văn Hoá đã thực hiện như lời hăm doạ.
Sáng nay, chủ tịch huyện gọi ông Trương, chủ nhà cho quán cà phê Hoài Thương mướn, buộc ông ta phải về triệt hạ cờ xí, đèn hoa trang trí tại nhà cô Phượng đã mướn của ông Trương với lời lẻ hăm doạ: Nếu không triệt hạ sẽ tước đảng tịch, loại trừ khỏi đảng!
Dĩ nhiên một đảng viên đã từng hưởng nhiều bổng lộc và là người ngu dốt nên mới e sợ trước sự đe doạ đó, hành động một cách không bình thường.
Ông Trương triệt hạ bàn thờ, cờ đèn của một Phật tử thờ tại nhà, ông ta lấy tư cách là chủ nhà hay một đảng viên? Nếu là chủ nhà, một khi đã cho mướn thì người ta trọn quyền xử dụng, ngoại trừ làm thiệt hại cơ sở vật chất của ông ta, ông ta không có quyền xâm phạm tư gia và tín ngưỡng cá nhân như thế. Nếu lấy tư cách một đảng viên để triệt hạ, ông ta theo lịnh đảng bộ địa phương hay lịnh chính quyền hành chánh?. Chắc chắn đảng không bao giờ chủ trương một cách xuẩn động như thế, nếu lịnh của cơ quan hành chánh thì cả lịnh và người thi hành lịnh đều là loại phá hoại nhà nước VN hiện nay trước vu vạ rình rập của lực lượng chống đối bên ngoài. Hay nói một cách khác, những kẻ ra lịnh là thành phần tiếp tay cho phản động đểnhà nước VN bị lên án trước quốc tế về vấn đề tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo hiện nay.
Chủ tịch Quảng Phú là ai?
Đây không phải là lần đầu, người Phật tử Quảng Phú gặp khó khăn trong vấn đề tín ngưỡng. Nếu sự cảnh giác của chính quyền tốt như thế, tại sao vẫn để bọn Dega nổi loạn. Chẳng lẽ người lãnh đạo một cơ quan tỉnh như thế không đủ trí tuệ và khôn ngoan để phân biệt đâu là kẻ xấu người tốt? Hay là vì PG quá nghèo nên trở thành kẻ đáng ngờ và chịu chấp nhận kẻ xấu số so với các tôn giáo thần học???
Trước khi những lời báo động nầy, tôi đã trình bày với nhà nước những khó khăn mà PG Daklak đang gặp phải, thế nhưng sự việc vẫn tiếp diễn. Nếu hành động của Quảng Phú do lịnh từ trung ương, PG chúng tôi xin bó tay, nếu không phải chủ trương của nhà nước, yêu cầu Ban Thanh Tra nhà nước triệt để xử lý những kẻ phá hoại chính sách nhà nước như thế.
Hy vọng nhà nước XHCNVN can thiệp cấp thời trước khi sự vu trở nên trầm trọng nhân mùa Phật Đản mà hàng vạn người con Phật đang chào đón
MINH MẪN
25/4/07
VẤN ĐỀ BANG GIAO
Thời gian gần đây, VIỆT NAM mở đường bang giao với các quốc gia để chuẩn bị gia nhập WTO, tuy bang giao và gia nhập WTO là hai việc khác nhau, nhưng có mối liên hệ hổ tương, cần thiết và đúng hướng.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay, VIỆT NAM không thể tách mình ra khỏi quỷ đạo đó, không thể đóng cửa như thời chiến tranh lạnh khi mà kinh tế toàn cầu quyết định sinh mệnh của mỗi quốc gia, vì vậy, VIỆT NAM quyết dịnh chủ động vấn đề bang giao là việc phải làm, thế nhưng VIỆT NAM cũng thừa hiểu không phải dể khi bắt tay với tất cả!
Mỗi quốc gia có cái thuận lợi và có cái khó khăn khi bang giao, nhất là các cường quốc như Mỹ và khối thịnh vượng chung Âu Châu; để được tự do mậu dịch, phát triển kinh tế, Việt nam phải chấp nhận những yêu sách do đối tác yêu cầu, những đòi hỏi chung như Nhân quyền, tự do tôn giáo…là những tiêu đề hầu hết các quốc gia tư bản đặt lên hàng đầu đối với chính phủ VN. Đành rằng đó là điều cơ bản của người dân trong mọi quốc gia cần phải được hưởng, nhưng những yêu cầu đó chưa hẳn phát xuất từ một thiện ý của những nước lớn, vì bản thân như Mỹ, chưa hẳn tự do được tôn trọng đúng mức, gần đây, một nữ ký giả bị tống giam vì không được tự do bảo mật xuất xứ tiết lộ một nhân viên tình báo. Ngoài Nhân quyền và tôn giáo, còn những o ép trên thương trường và một số lãnh vực bất thành văn, dẫu sao vẫn có lợi khi đổi lại một số vấn đề ảnh hưởng chính trị, an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, uy tín quốc tế…Có đi có lại mới toại lòng nhau; không những thế, người dân còn được hưởng những tiêu chuẩn chung của quốc tế mà mọi người dân các quốc gia tiên tiến đã và đang hưởng, về phương diện khoa học, kỷ thuật,văn hoá, tâm linh…nghĩa là VIỆT NAM đặt lên bàn cân xem xét lợi và hại khi bang giao với một quốc gia.
Sau chuyến đi Mỹ của Thủ Tướng Phan Văn Khải, truyền thông quốc nội và quốc tế đều loan tin ông Ngô Yên Thi, trưởng ban Tôn Giáo chính phủ, hướng dẫn phái đoàn VIỆT NAM sang Vatican mở đường chuẩn bị cho việc bang giao mà chỉ còn là thời gian! Như vậy, VIỆT NAM bang giao với Vatican tư cách một quốc gia với một quốc gia hay một quốc gia với một giáo triều? Nếu một quốc gia với một quốc gia, VIỆT NAM lợi gì về kinh tế, mậu dịch, chính trị, quốc phòng, văn hoá…? Chắc chắn là số không, tuy là một quốc gia, nhưng Vatican chỉ là quốc gia tượng trưng. Vatican không có mậu dịch, không có thương trường, nếu kinh tế, chỉ có lợi cho nền tài chính khổng lồ của Vatican mà thôi; về chính trị, một chính trị bất lợi cho tổ quốc, về văn hoá, loại văn hoá thần học không thích hợp với một dân tộc được xây dựng trên nền tảng Tam giáo hàng ngàn năm qua, nền văn hoá siêu thực của một nước Chúa trên trời đã đưa Philippines, Braxin, Châu Phi trở về nền kinh tế lạc hậu! Phải chăng vì một áp lực quốc tế hay sự sợ sệt vu vơ trước ảo ảnh con cọp già nua, bệnh hoạn mà phải đích thân sang tận chủ nhà xin được bang giao! Thập niên về trước, đại sứ Vatican ngang quyền và uy tín như đại sứ các quốc gia, thậm chí là đại sứ trưởng đoàn các đại sứ khu vực mỗi khi tham dự hội nghị quốc tế, nhưng ngày nay, ngay cả trên lãnh thổ Itali, quyền hạn Vatican cũng bị thu hẹp trong khuôn viên toà Thánh, hiến pháp Hoa kỳ và những quốc gia tiến bộ loại trừ ảnh hưởng nhà giòng trong học đường và xã hội, gần đây Pháp cấm đeo biểu tượng tôn giáo vào trường học; cấm mọi sinh hoạt tôn giáo nơi công cộng; một số nhà thờ phải đóng cửa vì không ai đi lễ, không đủ tiền đóng thuế hoặc bán để có tiền nạp phạt quấy nhiễu, rối loạn tình dục…của các đấng chủ chăn! Tóm lại, các nước mà 20 thế kỷ qua, Kitô giáo có một ảnh hưởng nhất định , Vatican thao túng toàn bộ xã hội Tây Phương, Thần học trở thành thước đo trong mọi lảnh vực, kể cả luật pháp, ngoài cấu kết thế lực quân sự, tài phiệt, vũ khí, ngân hàng… Vatican không còn ảnh hưởng tinh thần đối với các quốc gia từng phủ phục dưới chân toà Thánh. Do vậy, Nga, Trung Quốc và một số nước đoạn giao với Vatican, không chấp nhận Vatican là hội Thánh toàn cầu; nhưng VN,dĩ hoà vi quý, muốn đoàn kết tất cả, sẳn sàng chấp nhận con dân VIỆT NAM cũng là con dân nước chúa ở Ý, vì sẳn sàng bang giao.
Nếu VIỆT NAM bang giao như một quốc gia đối với một giáo triều lại càng không thể chấp nhận, vì VIỆT NAM cũng phải bang giao với Hồi giáo, Phật giáo, Hoà Hảo, Cao Đài, nhưng thực tế, những tôn giáo có mặt tại VIỆT NAM bấy lâu nhà nước chỉ xem là một thành viên của Mặt Trận. Nhà nước xem tín đồ Kitô như con dân của một quốc gia Vatican mới cần bang giao lại càng vô lý; như đã nói, Vatican không có quyền lợi của một quốc gia ngoài khối lượng tín đồ chỉ 7% dân số VN, bang giao Vatican là chấp nhận quyền lực của Vatican đối với tín đồ con dân nước Việt, nghĩa là con mình cũng là con thiên hạ, họ có quyền khống chế sai bảo, để có ngày tố khổ lại cha mẹ mình, bán đứng gia tộc mình!
Trong bài phỏng vấn của BBC Luân Đôn, sáng thứ bảy ngày 08/7/05 giáo sư Thần Học Nguyễn Đăng Trúc tại Pháp trả lời: tín đồ Kitô giáo không phải công dân Vatican, chỉ có cán bộ toà thánh mà thôi. Đây là thủ thuật trấn an VN! Cán bộ là đại sứ, là khâm mạng, là Hồng Y, là Giám mục, Linh mục.. mới thật sự công dân Vatican, có nghĩa là cán bộ của quốc gia Vatican thi hành sứ mạng bảo quản tín đồ, nghe nghịch nhỉ làm sao! Cán bộ nhà nước quản lý công dân chứ tại sao quản lý tín đồ, chỉ có chức sắc GH mới có trách nhiệm quản lý tín hữu; đây là lập lờ đánh lận con đen giữa giáo quyền và thế quyền, vì giáo triều và quốc triều Vatican chỉ là một. Nếu chức sắc GH cũng là cán bộ nhà nước Vatican thì tín đồ Vatican cũng là con dân Vatican, tại sao không dám công nhận?
Tại sao Vatican mong muốn bang giao với nhà nước CSVN?
Qua 30 năm chưa có bang giao chính thức, nhưng khi hữu sự, đôi bên công cử cán bộ giao tiếp lẫn nhau để giải quyết, ví dụ khi Vatican bổ cử hai vị Tổng Giám mục tại VN, tuy nhà nước VIỆT NAM phủ bác, nhưng sau đó đích thân Nguyễn Di Niên và Lê Khả Phiêu sang tận Roma để xác chứng chấp nhận; Vatican phong thánh cho 117 người cuồng tín phản quốc, để gây phấn khởi tinh thần cho tín hữu VN, và thăm dò phản ứng CSVN, tuy VIỆT NAM chống, nhưng đâu vào đó, sứ giả VIỆT NAM lại qua nước Chúa để vỗ về vuốt ve: - các ngài thông cảm, chúng tôi phải làm vậy vì đa số nhân dân chúng tôi chống đối! cố Giáo Hoàng JP2 muốn sang thăm VN, phải cho đoàn ngoại giao đến Hà Nội phân bua, khi nhà nước VIỆT NAM không chấp thuận, sứ giả hạ mình xin cho Giáo Hoàng đến viếng La Vang rồi bay về Thái Lan bằng trực thăng, nghĩa là bằng mọi cách, nhà nước không thuận, lý do PG đang đòi lại chùa Lá Vằng và một số địa danh mà Kitô giáo đã cướp vào thời Pháp; nghĩa là nhà nước cứ đổ cho dân mà tự mình không đủ bản lảnh để quyết định; Bằng mọi giá,Vatican phải có mặt tại VN.
Thời gian qua, chưa có bang giao chính thức, Vatican chỉ thị Hội Đồng Giám mục VIỆT NAM phải củng cố niềm tin tín đồ đối với hội Thánh; Giáo Hoàng xin lổi nhân loại những núi tội đem đến cho tinh cầu nầy, hội Thánh VIỆT NAM không hề nhận lỗi với dân tộc, ngược lại những sĩ phu Kito chạy tội, bóp méo lịch sử bằng những trang sử lập lờ, các sử gia Kito như Trần Tam Tỉnh, Đổ quang Chính… muốn thanh minh những sai phạm của Kitô giáo vào thế kỷ 17 – 18 mà tiến sĩ Cao Huy Thuần vạch trần.
Trần Tam Tỉnh tế nhị hơn, ca tụng cuộc chiến thần thánh của cách mạng VN, có sự hợp tác của giáo dân Kitô và cả chức sắc như Lê Hữu Từ làm cố vấn chính phủ cụ Hồ, nghĩa là không phải toàn bộ Kitô giáo phản quốc, nhưng LM Trần Tam Tỉnh cũng thừa nhận, Lê Hữu Từ lợi dụng vị thế cố vấn để buôn vũ khí trang bị cho Bùi chu Phát Diệm chống lại Việt Minh và sát hại ngoại giáo, lương dân! LM Trần Tam Tỉnh trưng dẫn hầu hết các tín hữu vô danh tiểu tốt tham gia cách mạng lúc bấy giờ nhưng không nói đến thế chẳng đặng đừng như giáo khu Bùi Phát phải tham gia bộ đội suốt thời chống Mỹ tại Bắc Việt mà dưới XHCN miền Bắc, không một ai đứng ngoài trách nhiệm, những thanh niên đi Bộ đội đó chưa hẳn tự nguyện!
Gần đây, Kitô giáo VIỆT NAM nổ lực bành trướng thế và lực, mua chuộc các cấp cơ sở hạ tầng, nhiệt tình tham gia công tác địa phương, hổ trợ kinh phí cho mọi sinh hoạt xã hội, giúp đở con em cán bộ; thao túng các chương trình giải trí; Truyền hình châm biếm PG,các sư ngây ngô ngồi cười thoải mái được trình chiếu trực tiếp trên đài; cài người vào hướng dẫn viên du lịch bóp méo lịch sử, di tích PG một cách tinh tế, vạch chương trình tham quan các nhà thờ, thậm chí hồn ma cha Diệp tại Cà Mau cũng lạc dẫn khách hành hương tham bái; vu cáo nhà Trần triệt tiêu Champa để mở mang bờ cỏi xứ Quảng. Cao Biền cất chùa để yểm long mạch nhân tài VIỆT NAM tại Hà Tây(vấn đề nầy bàn ở mục khác)…chả hiểu khi đào tạo hướng dẫn viên du lịch, công ty du lịch thể thao có cán bộ sử học chuyên trách giảng dạy hay giao khoán cho Kitô giáo đảm nhiệm?
Kiến trúc trong các đợt chỉnh trang nhà thờ, cũng nhại hình dáng nhà chùa để tín đồ PG không cảm thấy cách biệt giữa các đạo, một vài nơi sử dụng Đại hồng chung của chùa để làm kẻng trong nhà thờ như giáo xứ Vườn Xoài…lư nhang, bàn thờ tổ tiên cũng nhan nhản xuất hiện trong gia đình các tín hữu; đồ chay đồ cúng bây giờ con chiên xơi tuốt luốt. Một số thanh thiếu niên Kitô giáo sinh hoạt chung với các em Gia Đình Phật Tử để thân thiện rủ các em qua lại nhà thờ. Nữ tín đồ của chúa luôn có mặt bên cạnh các trụ trì để phục dịch, cúng dường tứ sự. Một nữ tín đồ cặp bồ với một trưởng nhánh Bảo Việt, bắt anh ta phải theo đạo, để rồi những nhân viên bên dưới trở thành con chúa, Bảo Việt trở thành của chúa…một số địa phương, cha xứ mời các thầy và phật tử thăm viếng giáo xứ, sẳn sàng uỷ lạo, thăm viếng tín đồ PG nghèo mà trước đây cứu trợ chỉ thuần dành cho tín hữu. Phật tử nghèo, gia đình có tang sự, không tiền thỉnh các sư ma chay, có ông trùm ở giáo xứ vận động giáo dân giúp đở và cha đến làm lễ rửa tội, linh hồn bye-bye Phật để níu áo chúa bay về trời !!!
Về phương diện chính trị, GH Kitô không hề chống báng nhà nước, năng nổ thực thi mọi nhiệm vụ, chỉ có các sư mới chống và bênh vực quyền lợi cho Kitô giáo
Chiến thuật nhịp nhàng đó đánh dấu một chính sách và tổ chức chu đáo, có trình độ, làm sao các sư có những thủ thuật như vậy được!
Trước 1975, Kitô giáo cao ngạo đối với ngoại giáo bao nhiêu, bây giờ lịch thiệp tế nhị bấy nhiêu, cũng nhờ thế mà lực lượng Kitô giáo tại VIỆT NAM ngày càng lớn mạnh, chỉ cần Hội Thánh chính thức có Khâm mạng hay Đại sứ tại VN, xem như chi nhánh quốc gia Vatican tại VIỆT NAM được xác lập.
GH Kito La Mã luôn xác định, những gì ngoài Hội Thánh đều là ma quỷ, do vậy, để con dân của chúa sống chung với Quỷ Đỏ không bị nhuộm Hồng hay không bị lệch lạc đức tin, cần phải có sự quan phòng chặt chẽ của Hội thánh qua các công sứ cao cấp, đó là bước đầu củng cố thực lực. Một khi chánh thức công nhận quyền hạn của La Mã tại VN, Hội Thánh toàn quyền quyết định những vấn đề nội bộ tôn giáo của nước Vatican mà nhà nước VIỆT NAM không thể can thiệp, lúc bấy giờ, giáo triều cũng là quốc triều được xác định quyền hạn theo công pháp quốc tế; đây là chiến thuật lấn sân; Sau khi vững mạnh thế đứng hợp pháp, khối lượng tín đồ có tổ chức luôn nhắm mắt tuân lệnh, liệu VIỆT NAM có phải là chiến trường Rwanda, Palestine, Ixraen, Bắc Ái nhỉ Lan…hay giữa các bộ tộc Tussi -Hutu? Chỉ cần Tin Lành và Kito La Mã tranh dân, VIỆT NAM cũng đủ ngộp thở, chưa nói đến các tôn giáo cựu trào và thể chế chính trị cần xoá sổ cho hả giận!
VIỆT NAM là mãnh đất có truyền thống đức tin kiên cố và nhiệt tình với tín ngưỡng; người VIỆT NAM đang nghèo khó, nhưng có tấm lòng; kinh tế chưa đủ quyết định cuộc sống; khoa học kỷ thuật VIỆT NAM chưa cao, dân trí đang hướng ngoại, lớp trẻ có khuynh hướng vọng ngoại và hưởng thụ; Phần lớn người dân chưa mãn nguyện với thực tại; Tư chất VIỆT NAM đơn thuần, dễ tin, không lươn lẹo, không cảnh giác trước những ma mãnh; Tâm lý quần chúng hay chuộng mới nới cũ… Tất cả những yếu tố đó là tinh chất tối cần cho La Mã trồng cây đức tin bao phủ lớp võ vật chất và hào quang hứa hẹn; hội Thánh lót thảm để mời nhà nước Việt nam thiết lập bang giao , nếu cần, toà thánh trải dolla từ nước chúa đến nước Việt, sẳn sàng là một tiếp thị tốt và lịch thiệp cho món hàng ngoại giao, bởi vì khối lượng tín đồ trong tương lai, có thể 90% khi mà các sư cảm thấy chán sống và không cần tổ quốc. theo sau là nguồn lợi kinh thương tín hữu có thể gom về cho hội Thánh, tài nguyên, văn hoá và vựa lúa sông Cửu Long đủ cung cấp cho quốc gia Vatican; một đế chế mới mà bao nhiêu thế kỷ cha ông ta lột bỏ, con cháu đang mặc vào lớp áo đó với màu sắc và nhãn hiệu mới đầy hãnh diện.
TÓM LẠI
VIỆT NAM không có gì để kinh doanh với Vatican, không học được gì về khoa học kỷ thuật ở Vatican, Vatican không có món hàng giá trị nào để trao đổi mậu dịch với VIỆT NAM ngoài đầu tư dolla để thu lợi về lâu về dài như kẻ cho vay dài hạn thu thuế vĩnh viễn; ngược lại Vatican có thừa cán bộ kinh doanh tại bản xứ như từng làm vào thời miền Nam còn chiến tranh, để gom lợi tức từ Ngân hàng, khách sạn, sòng bạc, lâm sản… về kho chứa của đất Chúa; Vatican tạo được lực lượng vừa là công dân, vừa là con chiên, vừa là cảm tử quân tại chổ để vinh danh Chúa, làm bất cứ chuyện gì GH ra lịnh.
VIỆT NAM đang nắm cờ trong tay, loá mắt trước quyền lợi vật chất, thiếu phán đóan, thiếu đoàn kết, bị o ép phải nhượng bộ, nghĩa là tự tháo lui tới vực thẳm, một khi mất thế thượng phong, - con quạ đen vênh váo trên cành cao hót bài: Thằng mù mà dắt đám đui, đã rơi xuống hầm còn hỏi cái chi chi!!!
Việc bang giao chỉ còn là thời gian !
Mộng xây dựng cơ đồ dời đô Vatican về mãnh đất mầu mỡ VIỆT NAM cũng chỉ là thời gian !
MINH MẪN
10/7/05
BẢN TIN CHÁNH THỨC
Bản tin chính thức được Ban Từ Thiện Phật Giáo Lâm Đồng đưa ra, đáng tin cậy, vì BTS PG Lâm Đồng là một trong những thành phần Đại biểu chính được mời tham dự Hội Nghị Thượng Đĩnh tại v/p Giáo Hội Trung ương vào ngày 19/11/08 để giải quyết vụ phức tạp ở Bát Nhã.
Qua cuộc thương nghị, cộng đồng Phật giáo thở phào nhẹ nhỏm, không phải đã có lối thoát cho làng Mai, nhưng gỡ một gút mắc không nên có cho một xã hội mà nhiều vấn đề khó khăn đang vây bủa; Có người thắc mắc: - tại sao Giáo Hội chưa ra một nghị quyết, hay nhà nước chưa có một văn bản xác định một đường hướng rõ rệt về vấn đề nầy, tại sao không mời đại diện làng Mai tham dự? hoá ra phương hướng giải quyết của GHTW chỉ có giá trị như tin hành lang hay mang tính nội bộ?
Tuy sự cố Bát Nhã có vẻ lớn lao, ảnh hưởng đến uy tín đất nước, tạo bất an cho một bộ phận quần chúng và tu sĩ PGVN, nhưng dưới cái nhìn của nhà nước, đó chỉ là nội bộ giữa cá nhân thầy Đức Nghi với thiền sư Nhất Hạnh, do thầy trò thầy Đức Nghi đi quá đà nên sự cố trở thành một khủng hoảng trầm trọng.Vì vậy, để giải quyết tình trạng nầy, Giáo Hội chỉ mời thầy Đức Nghi, người tạo ra sự cố, chứ không mời đại diện Làng Mai.
Sau khi đứng một phía để vạch trần cái sai của thầy Đức Nghi, cái không đúng của công an xã Đamb’ri, cái bất nhất của ban Nội vụ Lâm Đồng và văn thư không mang tính pháp quy của 1329/TGCP-PG, chúng ta cũng phải lắng nghe tiếng nói của giới hữu trách than phiền những khiếm khuyết của Làng Mai, để các giáo thọ và những viên chức Làng Mai rút kinh nghiệm, nếu đúng:
Những viên chức nhà nước xác định thầy Đức Nghi quá sai lầm, nhưng về phía làng Mai cũng không thực hiện những yêu cầu mang tính nguyên tắc của luật pháp Việt Nam; ví dụ: gần 400 tu sĩ tập sự mà chỉ có 100 vị đăng ký tạm trú, vậy số còn lại thuộc loại công dân nào để nhà nước quản lý? Ai bảo đảm trong số đó là hoàn toàn là công dân lương thiện? dưới cái nhìn của an ninh thì mọi sự đều cảnh giác, nghiệp vụ phải thế ! Thầy Pháp Niệm xin nhập cảnh chữa bệnh tại Hà Nội mà vào Lâm Đồng sinh hoạt là không đúng lý do nhập cảnh, tuy biết thế, thầy vẫn được gia hạn nhiều lần. Nhiều lần ký biên bản chấp nhận vi phạm mà vẫn cứ tiếp tục vi phạm! Các giáo thọ làng Mai không xin phép nhập cảnh với lý do truyền giáo như các tôn giáo thần học khác mà khai diện du lịch, tuy nhà nước nhiều lần hướng dẫn đúng thủ tục mà vẫn không chấp hành…Văn bản 1329 là BTG đề cập việc làm Thiền sư Nhất Hạnh chứ không phải giải quyết nội vụ Bát Nhã…Quý thầy than phiền đi các nơi không phải xin phép mà về Việt Nam bị khó khăn đủ thứ; đây là lãnh thổ và luật pháp Việt Nam chứ không phải luật pháp và lãnh thổ của phương Tây
…
Nếu đúng như những lời tâm sự của giới chức quản lý nhà nước, thì những tập thể tu tập như Bát Nhã cần nghiêm túc điều chỉnh.
Nếu văn bản 1329 chỉ giải quyết riêng hành trạng của thiền sư Nhất Hạnh thì cuộc Hội nghị hôm 19/11/08 chỉ là chuyện nội bộ Phật Giáo giải quyết nội tình Bát Nhã mà không có sự hiện diện của Bộ Nội vụ; vì thế không thể chờ đợi một nghị quyết, một văn bản chính thức của nhà nước biểu thị phương hướng đối với Bát Nhã. Và nhìn ở mặt phản diện, đề nghị của BTSPG TW V/P2 chỉ có giá trị chừng mực, giá trị chừng mực đó được tồn tại bởi uy tín quốc tế của Làng Mai mà thôi, một lúc nào đó sẽ bị phủ bác như BTSLĐ từng bị phủ bác bởi Ban Nội vụ Lâm Đồng khi GH Lâm Đồng đứng ra bảo lãnh Bát Nhã qua cuộc họp có sự tham dự và ký nhận bởi chính quyền địa phương.
sáng hôm qua trung ương giáo hội mời thường trực ban trị sự họp việc làng mai . sau khi nghe ý kiến trình bày xung quanh vụ việc khá sôi nổi ( có ban tôn giáo chính phủ và chính quyền lâm đồng ) cuối buổi họp HT trí quảng kết luật :
1. tất cả mọi người điều được tu theo pháp môn làng mai ( nếu họ muốn )
2. các tăng thân làng mai đang tu học tại bát nhã nếu ai đã có đấy đủ giấy tờ và tu học tốt thì tiếp tục tu .
2. ai chưa có giấy tờ mà tu học tốt thì bổ xung và cho người ta tu tiếp .
3. ai quậy phá thì tuỳ theo mức độ mà xừ lý ( theo luật : Đạo và đời )
nếu có chùa nào thích tu theo pháp môn làng mai và có nhu cầu mời giáo thọ làng mai đến thì làm giấy giáo hội sẽ chấp thuận và xin phép chính quyền tạo điều kiện sinh hoạt .
NHƯNG TẤT CẢ PHẢI TUÂN THỦ THEO HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .
4. việc tài sản giữa hai bên bước đầu tự giàn xếp ( nếu không mời sở tài nguyên môi trường giải quyết theo pháp luật )
--
Thích Linh Toàn
Ban từ thiện Phật Giáo Lâm Đồng
Qua bốn tiêu chuẩn chính thức được công bố trên đây do HT T.Trí Quảng đưa ra, đã mở một lối thoát dễ chịu giữa Làng Mai và nhà nước một cách hợp lý. Có người nói, do áp lực nào đó nên nhà nước phải xuống nước nhượng bộ, để nội tình Phật giáo tự giải quyết, nhưng là một cách giải quyết hợp tình hợp lý đối với Làng Mai, đồng thời vẫn giữ được uy tín và bản lãnh của nhà nước.Dù sao, cũng thể hiện được sự nhân nhượng lẫn nhau và đúng lúc để đất nước không rơi vào cuộc khủng hoảng vô lý.
Qua văn thư trên đây, có nghĩa là công dân muốn tu theo pháp môn Làng Mai cũng như các pháp môn hiện có trên đất nước, do nhu cầu mà mời giáo thọ làng Mai về hướng dẫn chứ không phải chính thức làng Mai vàoViệt Nam thiết lập cơ sở. Nếu làng Mai có khả năng tạo bất động sản để hổ trợ cho các tu sinh theo trường phái làng Mai ở trong nước, thì Giáo Hội đủ tư cách pháp nhân đứng tên tạo dựng, mời làng Mai về hoạt động hợp pháp; nghĩa là chính thức Giáo Hội bảo lãnh làng Mai về hoằng pháp chứ không còn cá nhân bảo lãnh để đưa đến tình trạng bất ổn như Thầy Đức Nghi đã làm;
Tạm thời bốn phương cách đưa ra cũng làm giảm nhiệt độ bức xúc của quần chúng, đem lại bình ổn cho tăng thân Bát Nhã và giữ uy tín của nhà nước; Phương hướng trên đây được duy trì lâu dài hay sẽ bị phủ bác với lý do: Giáo Hội tự giải quyết không phù hợp với chính sách nhà nước…còn tùy thuộc sự tế nhị, linh động của làng Mai cho thích hợp với thổ nhưỡng một thể chế. Nhập gia tùy tục là bài học luôn có giá trị;
Hiện tình đất nước đòi hỏi uy tín và sự đầu tư về mặt đối ngoại để cho tổ quốc được cân bằng giữa đầu sóng ngọn gió hiện nay, không vì một việc cỏn con để quốc tề nhìn Việt Nam như cái nhìn của những thập niên 1985 về trước; Tuy làng Mai mang quốc tịch nước ngoài, nhưng vẫn là người Việt Nam, nếu có sai phạm vì quen sống theo phong cách nước ngoài, nhà nước nên thông cảm du di. Nếu nhà nước Việt nam có khắc khe làng Mai hay các giáo Thọ theo nguyên tắc luật pháp, thì làng Mai hãy nghĩ rằng, bên cạnh làng Mai còn có các tôn giáo cũng chịu chung sự quản lý như thế; Có hiểu mới thông cảm cho nhau thì mọi hài hoà dễ chịu cũng sẽ đến với nhau.
Cuộc Hội nghị đưa ra bốn điểm trên đã nói lên sự biết điều từ phía nhà nước, sự đoàn kết của Giáo Hội, và tinh thần hoà giải trong cộng đồng dân tộc.Bước kế tiếp là mọi phía phải vun bồi tình hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, để đất nước được an vui, Phật pháp được phát triển, tránh những mắc mứu trục trặc vô lý như những vô lý vừa xẩy ra. Nếu nhà nước cảm thấy cá nhân thiền sư có điều gì bất hợp lý, cứ việc trao đổi thẳng với thiền sư, đừng nên để quần chúng vạ lây như vụ Bát Nhã.
Mong quần chúng Phật tử được an vui với đạo pháp; các tu sĩ trẻ được bình tâm tiến tu, đất nước vượt qua những chướng ngại từ bên ngoài để toàn dân hưởng trọn vẹn hoà bình hạnh phúc.
MINH MẪN
21/11/08
PHẬT GIÁO - KHOA HỌC VÀ NĂNG LƯỢNG ÂM LƯU
Lời đầu
Khoa học tiến bộ mỗi ngày một vượt trội, từ buổi sơ khai đi bộ, băng rừng cho đến phát minh máy nổ nối dài bước chân trên biển và đất liền, vượt không gian, trải qua nhiều thử nghiệm và khắc phục những sai sót sơ đẳng, cho đến khi lên các hành tinh, đúc kết một quá trình miệt mài lao động, học hỏi không ngơi nghĩ, những thành tựu đó quả là to tát; Khoa học thực nghiệm lần dò từng bước, khoa học viễn tưởng vạch những phương hướng xa vời, đều nói lên tính cầu tiến và thăng hoa, chắc chắn, với bước đi cần mẫn như vậy, sẽ chuyển từ vật chất hiện thực hữu hình sang một dạng vật chất vô hình một cách logic, lúc bấy giờ, tự thân khoa học sẽ trả lời tính đồng thể của duy vật và duy tâm, một thời gian dài con người ngở chừng chúng là hai mặt mâu thuẩn, hai đối cực, nhưng lại gặp nhau ở một điểm chung, chúng đi dần đến điểm khởi nguyên mà Đạo gọi là vô cực, PG gọi là bản lai, ngày ấy,khoa học giúp con người trở về với những hoạt tính uyên nguyên, sống với đạo, sinh hoạt trong đạo, hòa nhập với nguyên lý vũ trụ một cách nhẹ nhàng, không đi ra khỏi đạo, mà có khuynh hướng trở vào trung tâm của đạo, đạo đây không là tôn giáo, mà là một nguyên lý ban sơ, cũng từ đó, con người đã phóng xuất tha hóa, đi hoang suốt hàng tỷ năm ánh sáng, tự mình đày đọa, làm khổ, đi vào vùng tối, PG đã cố gắng đưa con người trở lại đúng quỷ đạo , nhưng thật vất vả và chậm chạp, thậm chí, lý tưởng khởi nguyên của đức Phật bị thời gian, hoàn cảnh xã hội và căn trí con người làm biến dạng, xuống cấp, trở thành một tôn giáo trần tục, mục đích ban đầu là thoát ly trở thành vướng mắc, trầm mịch, phục vụ cho những gì tầm thường nhất của con người kéo đẳng cấp thoát ly xuống ngang tầm nghiệp lực của chúng sanh; Một điểm chung gặp gở giữa khoa học và PG một cách lạ kỳ, đó là điểm hẹn tận cùng của giải thoát ra khỏi những ràng buộc ô trược của vật chất thô, sang lảnh vực vi tế mà chúng ta quen gọi là siêu hình, vô hình, nhưng sự thật, dưới cặp mắt khoa học, đó là một dạng năng lượng khác, năng lượng của âm thanh và ánh sáng, năng lượng cực mạnh, tác động mãnh liệt hơn khối vật chất thô thiển mà con người xử dụng bấy lâu. Đây là điều mới lạ đối với khoa học và những người thường, nhưng là điều thường hằng của PG mà chưa được diễn dịch sang ngôn ngữ khoa học hay ngôn ngữ hiện đại, ta thử vào vấn đề để tìm mẫu số chung mà khoa học và PG sẽ gặp nhau cuối đường hầm.
Dẫn nhập
Từ khi có máy nổ, khoa học trải qua nhiều thời kỳ chỉnh lý, từ đầu máy chạy bằng hơi nước, sang đến than đá, xăng dầu, diesel, hydrogen, năng lượng mặt trời, thậm chí có những dự án biến nước biển thành nhiên liệu, khi mà mỏ dầu cạn kiệt, nghĩa là hiện nay mỏ dầu chưa cạn, con người vẫn chấp nhận những khí thải độc hại, nên chưa vội áp dụng những phát minh tối ưu, để giải quyết những tồn đọng dầu mỏ mà tiềm năng kinh tế vẫn còn lắm hứa hẹn; nhưng dù muốn dù không, khoa học vẫn phải tiến đến những dạng năng lượng nhiên liệu tối ưu đó khi mà mức sống nhân loại đạt đến yêu cầu thượng thừa, tuy những năng lượng sơ đẳng đang mò mẩm đem lại tác hại không ít như năng lượng nguyên tử, những nhiên liệu của nhà máy điện hạt nhân đã xẩy ra nhiều biến cố trong quá trình xử dụng, rò rỉ, rồi đây sẽ được khắc phục, một khi nguồn nguyên liệu và nhiên liệu dầu mỏ, hóa học được thay thế bằng quang lượng, âm lượng, sức khỏe và mức sống con người sẽ khác, trình độ tâm linh cũng sẽ cao hơn, giữa khoa học và tâm linh sẽ đồng hành tiến vào kỷ nguyên đạo đức hơn. Có thể cần một thời gian xa hơn, nhưng chắc chắn cũng sẽ có ngày đó.
A- Những điểm gặp gở mà chưa hề hiểu nhau
Những thành tựu khoa học không phải ngẫu nhiên mà có, một quá trình mày mò, tư duy, tích lũy kinh nghiệm để trí tuệ khoa học được bùng vở; đầu tư cho một thành quả không thể thiếu tập trung, đó là cơ bản phát sanh sáng tạo, các khoa học gia, các nhà bác học đã minh chứng sự nghiệp qua cuộc đời của mình, nói theo ngôn từ nhà Phật, đó là trí tuệ hữu lậu, bởi những thành quả đó đóng khung trong hữu vi pháp, tự thân nghiệp giả còn bị ràng buộc những vi tế phiền não, chưa nắm bắt được cái vô cùng của uyên nguyên vũ trụ khi tâm thức vẫn còn bóng mờ của vô minh dục giới, đó là loại trí tuệ của thế gian pháp, tột đỉnh của trí tuệ đó, nằm ngay lằn ranh của giải thoát vô minh, nói theo ngôn ngữ thiền, - đang dứng trên đầu sào trăm trượng, dám buông bỏ, sẽ nhảy sang lảnh vực uyên áo tâm thức, nhưng sẽ không bao giờ các khoa học gia thành đạt mức tối thượng của tâm pháp, bởi lẽ, tiện nghi hóa cuộc sống, vẫn là mục đích một đời bỏ công suy tầm, vật giới vẫn luôn là mục đích cần vươn tới và thăng hoa, đó là lý do mà những thành tựu khoa học trong thế kỷ XX bắt đầu bùng vở như thác lũ, bắt nhịp cho những thế kỷ tiếp theo mở ra chân trời mới lạ như là không giới hạn, thật ra, tiến bộ khoa học là một đường thẳng có giới hạn, tận cùng của nó là một dấu hỏi to lớn: -để làm gì? Đi về đâu?sau những thành tựu đó là gì?…Nếu mãi bị cuốn hút vào những thành tựu đó, cuộc sống biến thành cổ máy khổng lồ, người Robot, con người hưởng thụ tràn trề đã đánh mất ý thức giác ngộ, nói cách khác, ý thức bị chai lì, lão hóa, bấy giờ khoa học và giáo dục, triết gia sẽ đật lại vấn đề: - ngoài khối vật chất tiện nghi nầy sẽ còn gì giá trị hơn?các triết gia, tôn giáo sẽ phải hợp tác với khoa học mở rối mớ bùi nhùi biến thành tổ kén vàng nhốt con người bấy lâu, và rồi tâm thức sẽ là vấn đề đem ra mổ xẻ.
Tôn giáo rất đa dạng, chúng ta không nói đến loại tôn giáo dân gian thuộc hệ thần giáo như Hồi giáo, Kito giáo, Hindu, Do Thái giáo, An giáo…và vô số giáo phái thiếu tầm vóc, riêng Bà la Môn ẩn chứa cả hai lảnh vực – thần giáo ở hạ tầng kiến trúc và phi thần giáo ở thượng tầng kiến trúc, nơi đây, ta chỉ xét những tôn giáo đặc thù phi thần như PG và Yoga, thật ra PG và Yoga không phải là tôn giáo, nó chỉ là một học thuật, một bí thuật rèn luyện thể chất và tâm linh ở mức thượng thừa.Các nhà Yoga cao cấp đạt tới mức quyền năng do tâm thức chủ động, lạc sang biểu diển thần thông phép lạ nên bị vướn vào một loại nghiệp thức thượng đẳng, không thể tiến xa hơn, thậm chí xa rời cuộc sống thực tế, cuối cùng không giải quyết được gì cho xã hội. Những Yoga hành giả đạt được mức siêu đẳng, không lạm dụng thần thông, sẳn sàng hòa nhập vào cảnh giới tâm pháp, trong vi tế ngã pháp vẫn tồn tại cho nên vẫn không thoát ly tam giới, đồng đẳng cấp với Tiên đạo của Lão gia. PG có cả hai mặt: - đạo đức xã hội và đạo đức tâm linh; Đạo đức xã hội tạo một nhân cách khuôn mẫu hầu ổn địinh xã hội, ( đạo đức xã hội của PG không phải một đạo đức của Khổng Khưu có một khuôn thước đóng khung con người trong một nguyên tắc của một xã hội phong kiến. đạo đức xã hội PG thích nghi với mọi trạng huống của mọi xã hội mà nơi đó tính thánh thiện tự nguyện đem lại nhiều công ích, cũng không mang tính đạo đức của Kito giáo, một tình thương chấp nhận phần thiệt thòi vô lý ), đồng thời hổ trợ cho đạo đức tâm linh được nâng cấp, đạo đức tâm linh là một năng lực siêu hình giúp cho xã hội thuần thiện, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, riêng tự thân hành giả tâm linh, khi thành tựu tột đỉnh, nói theo thuật ngữ nhà Phật,- việc cần làm đã làm xong, bước sang một thế giới thực, mọi tri kiến, cảm thụ không bị hạn chế và bị đánh lừa bởi ảo giác của thân phàm phu, lúc bấy giờ năng lực siêu phàm sẽ phát triển toàn diện và nhạy bén, không cần thông qua phương tiện khoa học mà vẫn đạt tột đỉnh của khoa học, nếu có thể, giúp khoa học vượt khó và đốt giai đoạn.
- Quá trình định lực
Cái định lực của khoa học gia đưa đến phát minh sáng tạo,vì chủ đích giải quyết một vấn đề vật chất. Cái định lực của thiền sư hành giả đưa đến một trí tuệ vượt thoát vì mục đích thoát ly sự ràng buộc của ảo giác, như vậy trí tuệ chỉ có một, nhưng do mục đích khác nhau nên mức độ thành đạt trí tuệ khác nhau, như ta đã nói, trí tuệ của khoa học thành đạt trong phạm vi truy cứu, hẳn nhiên vẫn còn những sai sót mà sau đó dần dà được khắc phục; ví dụ, chỉ chưa đầy nửa thế kỷ, một phi thuyền khi đáp, phải rơi xuống biển, nhưng để khắc phục nhược điểm đó, khoa học gia nghiên cứu cho phi thuyền trở về mặt đất như một phi cơ đáp bằng những bánh xe; tuy mỗi ngày một tiến bộ, khoa học vẫn va vấp những thất bại bất ngờ, như các vụ nổ tàu con thoi. Rồi mai đây, khoa học sẽ phát kiến một phương pháp đưa phi thuyền ra khỏi quỷ đạo trái đất không cần bệ phóng, một nhiên liệu cực mạnh nào đó sẽ giúp phi thuyền lên xuống tùy ý như một cánh chim. Ngành y học cũng thế, để đối trị một căn bệnh, dược sĩ bào chế một loại thuốc mới, nhưng sau đó, tác dụng phụ của thuốc đó phát sanh một biến chứng khác. Để giải quyết thực phẩm thiếu hụt, khoa học sản xuất phân bón và thuốc kích thích tăng trưởng nhanh cho hoa màu, thuốc rầy và những loại như vậy nhiểm độc cơ thể, biến chứng ung thư và vô số dạng bệnh, khoa học mãi lòng vòng trong thế mâu thuẩn và tương đối của cuộc sống nhị nguyên, không bao giờ vượt thoát nếu trí tuệ chỉ đầu tư cho những gì tương đối.Nhưng với thiền giả, định lực là một quá trình dài lâu từ thể chất đến tinh thần, trai tịnh tinh khiết hổ trợ cho tâm an định, tránh khích dục và phiền não, trong quá trình thanh tẩy, tạp thức lắng đọng và bị xóa để thay vào đó là một tạng thức trong sáng vô nhiểm, thuật ngữ gọi là Bạch tịnh thức
- Diệu dụng của định lực
Như ta đã đề cập cái diệu dụng tương đối của địinh lực khoa học, nhưng kết quả của định lực thiền định thật mênh mông mông bất tận. Một thiền giả khi đạt đến mức độ tuyệt đỉnh, nghĩa là thoát ly hoàn toàn những ràng buộc tương đối trong cuộc sống, họ làm chủ chính mình và hoàn cảnh, họ chủ động sự sống chết, được gọi là đắc đạo, giải thoát, họ không cần phải mày mò những tiện nghi như khoa học, họ đi mây về gió như các Lạt Ma Tây Tạng, vì vùng cao Hy Mã không có phương tiện di chuyển, họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, như các đạo sĩ An Độ ta thường thấy, nhưng với PG, không cho phép lạm dụng quyền năng trong cuộc sống, vẫn phải chấp nhận những giới hạn của đời người, đối với họ, vấn đề không phải là quyền năng mà là một trí tuệ biết rõ nhân quả, tránh tạo khổ đau cho người và vật, thoát ly nhân quả từ tâm thức. Một minh sư, thiền sư đạt đạo tuyệt đối, họ có thể chi phối mọi việc theo ý, trong một tình huống cần thiết mà không hề khởi ý niệm biểu diển khoe tài như các nhà thôi miên, ảo thuật. Trong thế kỷ XX, ảo thuật gia David corperfield biểu diển nhiều màn kỳ bí, ngoài những xảo thuật của một ảo thuật gia, ông ta còn xử dụng những quyền năng đã học được khi còn lưu trú tại An và Tây Tạng, vì thầy ông ta là một đạo sĩ và một Lạt Ma, những quyền năng nầy thường bị hạn chế và mất tác dụng sau đó vì khởi tâm danh lợi. Những đạo sư chứng đắc, họ có thể tàng hình hoặc hóa thân cùng lúc ở nhiều nơi, khoa học không thể giải thích tại sao họ bay trên không, đi trên nước hoặc hô phong hoán võ ! Kết quả những năm tháng tu luyện ý lực, họ đạt được kết quả của tâm năng đó, như các khoa học gia đạt được kết quả của tuệ trí thế pháp; bất cứ lảnh vực nào cũng có một diển tiến hợp lý, nếu nắm vững trình tự của nguyên lý, như một chiếc phản lực mang khối sắt hàng tấn bay vào không trung, đối với những dân tộc sống xa nền văn minh, họ sẽ nghĩ đó là thần thánh như họ từng nghĩ khi thấy khẩu súng của người da trắng lần đầu sát hại nhiều người. Khoa học không giải thích được những quyền năng của các chơn sư nhưng không thể phủ nhận, vì nó là một thực thể. Cái kết quả của khoa học chỉ thành đạt trên một lảnh vực nhất định, nhưng kết quả của việc tu chứng, nó minh định sự toàn triệt mọi mặt trong cuộc sống, họ có khả năng nhìn xuyên suốt không gian như Đức Phật thấy tam thiên đại thiên thế giới như trong lòng bàn tay, họ thấy thời gian vô tận của vũ trụ và của dời một người như thấy trước mặt, họ biết ý nghĩ của kẻ khác như của chính họ, họ nghe được ngôn ngữ của mọi loài, kể cả cách xa vạn dặm…và người cũng thấy vi trùng trong bát nước uống!
B- Nguyên lý khoa học
Những giả định về Big bang, những kết quả của Plasma và những thử nghiệm khác cho khoa học tìm một đáp án sự hình thành vũ trụ và công năng của nhiệt lượng, quang học cùng nhiều hệ quả của nguyên tử, hạt nhân điện tử, phóng xạ…
Từ những giả định mà khoa học hiểu được nguồn điện âm – dương vô hình trước khi áp dụng trong cuộc sống, những bước sóng trong không gian để truyền tải tín hiệu; những thử nghiệm của lực ly tâm để tìm đáp án cho thiên hà vũ trụ, những hạt nhân có công năng cung ứng lực tàn phá…tất cả diển ra theo quy trình hợp lý từ bước khởi đầu của khoa học thực nghiệm chứ không giải đáp theo cảm tính nhân gian mang vẻ huyền thoại sự hình thành vũ trụ ở Thánh kinh, sự hình thành con người cũng là một suy diển giả định của Darwin, hữu lý trong một giới hạn nhất định, chứ không gán ghép vô lý từ Adam-Eva. Nhưng khá hơn, linh mục Pierre Teilhard de Chardin biết áp dụng khoa tế bào học giải thích sự cấu thành như vô tình nhưng có chỉ huy ngẩu nhiên đối với nhân loại để sau đó xác định một năng lực siêu nhiên trong từng tế bào, gọi là tiềm lực tiền sinh quy về năng lực một Thượng đế toàn năng, tối hậu.
Khoa học có những bước tiến khá dài trong những kỷ nguyên cận đại và hiện tại, đồng thời khoa học cũng bức xúc khá nhiều trước bức màn bí mật mà khả năng một con người, dù là khoa học gia khó giải đáp bằng một trí tuệ phàm nhân. Những nguyên lý truy tìm, cũng chỉ là nguyên lý hạn chế trong tương đối của nhị nguyên, chừng nào vượt thoát được hạn chế đó, như phi thuyền vượt thoát được hấp lực quả đất, một bùng vở sáng tạo dẫn khoa học sang một chân trời mới của tâm linh, mới giải quyết toàn vẹn mọi vấn đề. Cái thực nghiệm của khoa học không phải lúc nào cũng đúng, mắt thấy, tai nghe, tay sờ cảm nhận mỗi lúc một khác, mỗi người một khác thì độ xác thực cũng chỉ tương đối, cho nên trên nguyên lý kiểm nghiệm, đo lường, phân tích bằng phương tiện khoa cụ, máy móc chỉ đem đến những kết quả giới hạn.
Điện thoại là loại thiên nhĩ thông của địa Tiên, T.V là dạng thiên nhãn thông của địa Tiên, máy bay là loại thần túc thông của địa Tiên, tuyệt nhiên không thể đạt toàn vẹn lục thông siêu tam giới như một hành giả tâm linh chứng đắc. Kiểm nghiệm, thực nghiệm, suy diễn, đo lường bằng phám trí, kết quả đem đến một hạn chế nhất định, thậm chí thất bại bất ngờ ngoài dự kiến, lắm khi phiền lụy bởi chúng.
- Nguyên lý tâm linh
Chúng ta thông qua những dạng tâm linh sơ đẳng, chỉ đề cập đến loại tâm linh tuyệt đối, một tâm linh có đẳng cấp siêu vượt tam giới, có nghĩa thoát ly sanh tử của Tứ Thánh quả trở lên. Tùy mỗi pháp hành thích hợp từng trình độ, căn cơ mà thành quả có sai biệt, ví dụ pháp môn Tịnh độ khác với pháp Quán Am, Mật tông khác với thiền quán, và còn nhiều sai biệt vi tế, tuy là liểu sanh thoát tử như nhau, ở đây, ta chỉ nói đến thiền pháp như một đối trọng cao cấp so với khoa học ; Một hành giả bước vào lảnh vực tâm linh, ngoài những trợ duyên thường nhật như ăn uống ngũ nghĩ cần theo quy tắc thích hợp việc hành thiền, tự tâm ý, hành giả tuyệt đối buông bỏ mọi lợn cợn không liên hệ đến pháp giải thoát, giai đoạn tập chú, hành giả biết rõ những việc sinh hoạt , nhưng đến giai đoạn cực điểm đại định, thậm chí hành giả quên hết mọi sự, ngay lúc ăn cũng không biết mình ăn, trong giai thoại thiền, có một vị cầm nghiêng mực ăn ngon lành thay vì ăn thức ăn trước mặt, nhưng sau khi tâm thức lột bỏ mọi vô minh, hoát nhiên đại ngộ, tâm trí sáng tỏ lạ thường, bấy giờ nhìn mọi vật một cách bình thừơng, thấy rõ bản chất của mọi vật một cách trong suốt không chướng ngại , nội lực uyên thâm, chủ động tự thân và ngoại cảnh, có thể kéo dài thọ mạng hay rút ngắn đời sống theo ý muốn, lục thông nằm trong tầm tay họ.
Như vậy, muốn chủ động giải quyết những vấn đề hiện hữu, một hành giả phải từ bỏ hiện hữu, không bị hiện hữu ràng buộc, trực diện vào trọng tâm để nguồn năng lượng đại định đốt cháy, tẩy xóa những ảo ảnh như thật, ví như luồng sáng cực mạnh đốt tan sương mù để hiển lộ thực cảnh,họ xử dụng năng lượng sinh học hướng nội.
-Kích hoạt năng lượng
Sức tàn phá của bom nguyên tử, một big bang, một thỏi chất nổ, đều được kích hoạt để tác động những nguyên tử, những hạt nhân có sức phát nhiệt ma sát bùng nổ, sự kích hoạt có thể do người chủ động, do ma sát hoặc do ức chế tự phát; Năng lượng đều ẩn tàng trong mọi thể trạng vật chất.
Khó định nghĩa chính xác thế nào là vật chất và phi vật chất, ánh sáng là dạng vật chất vi tế,khối lượng là dạng ánh sáng thô, âm thanh là hoạt dụng của cả hai dạng vật chất. Một khối đá, đất được tán nhuyển thành bột, khuếch tán trong không gian trở thành bụi, hoặc có thể nhỏ hơn thế, PG gọi là Thố mao trần, vi trần, cực vi trần…mắt thường không thể thấy, nếu có một nguồn năng lượng tác động, chúng sẽ phát quang thành luồng ánh sáng, vì tự thân tích chứa một nhiệt lượng tiềm ẩn, ( trong các dạng năng lượng tích chứa các electron, neutron...) ngược lại, một nguồn ánh sáng được ngưng tụ cực độ, nhiệt lượng hội tụ đan kết những siêu thể lâu dài thành một dạng khối lượng, hấp thụ ẩm độ dần dà cô đặc một dạng vật chất thô, như vậy khói lượng là dạng vật chất thô và ánh sáng là dạng vật chất vi tế. Trong huyền thoại Tây Du Ký, Tề Thiên là kết tụ của hai khí âm-dương, đây là một học thuyết đạo gia, trong không gian bao la vô tận, khí là dạng năng lượng bàn bạc, với một nhiệt độ và ẩm độ thích hợp, năng lượng quy kết thành một dạng thể như lòng trắng và đỏ kết hợp thân nhiệt của gà mẹ biến thành hình dáng gà con. Trong bí pháp Tiên gia, con người gồm ba phần:- Tinh – Khí – Thần, Tinh biểu hiện dạng vật chất thô, Khí là dạng vật chất tế và Thần là một năng lượng siêu thể, từ cỏi Vô cực,biến thành Thái cực, sanh lưỡng nghi (âm-dương )từ âm dương biến thiên hình vạn trạng, nghĩa là từ vô hình sanh ra hữu tướng là một dạng xuống cấp đưa đến kiếp sống bể dâu, vì vậy Đạo gia chủ trương Vô Vi là trở lại thể tánh vô hành an nhiên, muốn thế, trong các pháp luyện Đan, luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hoàn Hư tức là trở lại vô cực, trở lại với chân tính uyên nguyên khởi thủy, từ vật chất Thô tiến về Tế và vượt thoát siêu nhiên,mọi diễn tiến trong đời sống diễn ra một cách khách quan theo quy trình Thành Trụ – Hoại – Không vì thế cổ nhân xem thế gian vốn vô sự, chọn cuộc sống vô vi tịch tịnh làm niềm vui mà tiến hóa trở về Chân Tính gọi là Đạo, một quan niệm sống của người xưa Á Đông. Hầu hết các pháp của thiền gia và Tiên đạo đều dụng tâm tác ý, biến thân pháp thành tâm pháp,biến tâm pháp thành Đạo lực, một sức mạnh siêu nhiên mà không một lực vật chất nào có thể so sánh, ví dụ, trước một cộng nghiệp như hạn hán, thiên tai , một chân sư, minh sư Bồ Tát hay thiền sư đắc đạo có thể hoán chuyển ngăn chận, nhưng thường các ngài không muốn can dự vào luật nhân quả của chúng sanh mà chỉ giúp lời hướng dẫn để tự thân chúng sanh chuyển nghiệp.Theo huyền sử tôn giáo cổ đại, từ thời dân Atlan trở về trước, biết xử dụng năng lực tâm linh chi phối hấp lực như xây Kim tự Tháp, chất xám bấy giờ đỉnh cao tuyệt đối là khoa học tâm linh, chưa thiên hướng về vật chất như khoa học ngày nay
Do đâu các ngài có một năng lực đó?
Như đã nói, định lực là một dạng năng lượng siâu nhiên, sức mạnh hội tụ mà không có một khí cụ vật chất nào sánh được, một khi hội tụ được năng lực do khổ công tu luyện, ý lực khởi xuất thường từ trung khu thần kinh, tác động, hướng đến mục đích, biến thành bước sóng năng lượng như máy phát điện hay trung tâm truyền thanh phát tín hiệu dưới dạng sóng, mở trúng tần số, máy sẽ nhận được tín hiệu âm thanh, hình ảnh. Khác với khí cụ,ý lực của các ngài có thể phát tán và thu hồi, ý lực khởi đến bất cứ nơi đâu, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian, thường ý lực các ngài phát tán dưới dạng sóng từ, nên ánh mắt luôn đượm vẻ trong sáng ,tràn đầy tình thương và nghị lực, trước sức mạnh tâm linh, mọi đối tượng thường dể bị cảm hóa, quy phục, giáo sử PG có nói về việc cảm hóa chàng Vô Não giết đủ 100 người để được thầy truyền pháp, đức Phật là người cuối cùng mà Vô Não gặp được, nhưng cũng là người bị Phật chuyển hóa từ ác sang thiện bằng ý lực siêu nhiên của đấng giải thoát. Trường lực của sóng từ tạo cho bầu sinh khí chung quanh thoải mái, nhẹ nhàng, một hành giả có nội lực uyên thâm, càng tạo một cảm giác an ổn cho người chung quanh hoặc cho vùng ngài đang hiện diện, ngồi gần một bậc có năng lực như vậy, mọi tâm tư thắc mắc của ta đều được hóa giải như khối đất khô bị tan loãng bởi nước, cho dù không được các ngài dẫn giải một điều gì, nhưng chắc chắn chúng ta có nhiều lợi ích khi gần các ngài và luôn thích gần các ngài, bởi từ tâm thức giải thoát hoàn toàn những phiền trần, các ngài luôn phát sóng từ để gia trì thế giới; Vào một ngôi nhà hay đến một ai, bầu không khí sáng mát nhẹ nhàng, biết rằng sinh khí nơi đó đượm nhuần bởi tâm thiện, ngược lại một nơi có có vẻ u ám, ngột ngạt khó chịu, không muốn ở lâu, nơi đó đang tích tụ ám khí của ma lực; Như vậy Phật lực, thánh lực và Ma lực đều có những tâm thái thông qua trường lực khác nhau, trực quan chúng ta có thể phân biệt dể dàng.
Phương tiện cơ giới khoa học có thể phát sóng mạnh ở một mức độ nhất định và ở một chiều hướng nhất định trong một dụng cụ nhất định, bước sóng của máy móc kích hoạt, phát tán mang tính vô cơ, ý lực của thánh nhân mang tính hữu cơ, hoạt dụng, ma lực, thần lực cũng mang tính hữu cơ, nhưng tà dụng
C-Năng lượng âm lưu
Như ta đã nói, hình khối, ánh sáng và âm thanh chỉ là một, nhưng ở mỗi dạng thể khác nhau, cũng như nước đá, nước và hơi nước chỉ là một, nước biển và sóng biển chỉ là một, sóng biển là hoạt tướng của biển, âm thanh là hoạt dụng của vật chất thô và vật chất tế; năng lượng phát xuất từ mặt trời qua tia sáng mang đủ tính chất và hàm lượng; tuy mặt trăng không là vật phát sáng, vẫn đủ tính chất phát sóng của năng lượng vật thể. Trong thiên hà vũ trụ luôn tồn tại và phát xuất càc dạng sóng để bảo hòa và đối lưu với sự tồn tại của các tinh cầu, bởi lẽ các hành tinh, định tinh là một phần của vũ trụ trong phút chốc bị nổi giận tống khứ như những đứa con trưởng thành phải biệt lập và tự lập nhưng mối ràng buộc vô hình với gia tộc vẫn có, năng lượng vũ trụ luôn nuôi dưỡng sự sống các sinh vật, thực vật, khoáng chất…không những bằng ánh sáng mà cả Am thanh, gọi là chấn động lực của vũ trụ, chấn động lực là gọi chung cho mọi âm thanh ở mọi cường độ, Ở con người là tiếng nói, các động vật thấp là tiếng kêu của mỗi chủng loại, nơi đất đá là âm thanh khi va chạm, tiếng róc rách hay ầm ỉ của hải triều, tiếng xạc xào của cây lá khi gió thổi, mọi âm thanh luôn tồn tại trong mọi vật thể gọi là âm lưu, âm lưu có hai dạng: - ẩn tàng và hiển lộ, hiển lộ là những gì ta nghe được, ẩn tàng là nguồn năng lượng vô tận và quan trọng đến sự sống muôn loài. Chấn động lực vũ trụ như là tầng sóng ngầm dưới đáy đại dương. Một Big bang khởi động luôn là chấn động lực đi liền với ánh sáng và khối lượng phát tán, đó là khởi nguyên của vũ trụ và sự sống, nói theo nhà thần học Chardin là tiềm lực tiền sinh, nhưng tiềm lực tiền sinh nầy không phải một quyền năng toàn triệt và hoàn hảo có tính chỉ huy mà là dạng tiềm lực tiền sinh sơ đẳng nguyên tính để rồi hàng tỷ năm đúc kết kinh nghiệm ngẩu nhiên hình thành sự sống đa dạng,hẳn nhiên khởi thủy là những tế bào đơn giản, vì vậy thần học gọi nguồn gốc sự sống là ngôi Lời, tức âm thanh khởi thủy hay chấn động lực hình thành. Vì vậy thân sống sinh loại đầu tiên là nguồn sáng, chưa có thân vật chất nên không bị chướng ngại, theo kinh tạng PG, con người đầu tiên xuất hiện trên tinh cầu nầy là một quang thân, do nếm thử đất thơm của quả địa cầu vừa hình thành nên mất thần thông, có nghĩa khi khởi ý tham,trí tuệ liền bị gián đoạn. Đứa bé trong bào thai cũng được nuôi dưỡng bằng dạng năng lượng âm thanh chấn động như vậy, các nhà khoa học có lý khi tăng trưởng thảo mộc bằng âm nhạc, vì đó là dạng sóng tương ứng với tế bào phát triển, cây cối thiên nhiên phát triển phần lớn nhờ chuyển động của gió, trong đó chấn động lực tiềm ẩn của ánh sáng và không khí góp phần quan trọng; Am nhạc tạo hưng phấn vì sóng âm tương thích với trình độ của người nghe; tiếng nói dịu dàng tạo cảm tình với người đối diện, lời an ủi, tâm sự quan trọng hơn của bố thí, những âm thanh nghe được từ bên ngoài luôn đánh lừa chúng ta, đôi khi bị lệch lạc.
- Năng lực âm thanh,
Một lời nói khích động tạo cảnh xô xác, một lời hiệu triệu có thể hy sinh nhiều mạng sống, một sự trấn an, bệnh nhân phục hồi tinh thần, đó là những năng lực thấp; có những năng lực cao cấp mang tính vô hình để xử dụng nguồn âm lưu vô hình như bùa chú của Lỏ Ban hay Năm Ông, các dân tộc thiểu số luôn có những thần chú trừ tà, chửa bệnh, thư ếm… những dạng quyền năng vô hình như vậy vô số kể, riêng VN thông dụng ta được biết như Thiên Liêng Cái, cầu cơ, lên đồng…Tây Tạng có Mật pháp, người ta thường lẫn lộn bùa chú và Mật Tông làm một, thật ra giá trị và hoạt dụng cũng như mục đích khác nhau. Ngoài xử dụng âm thanh như một năng lực phát lệnh, một số trường phái tâm linh dùng nó như một phương tiện kết nối với lực lượng vũ trụ như Đạo gia và Yoga để trở về với bản thể nguyên sơ.
Trường lực vũ trụ được cô đặc qua hàng tỷ năm từ những tế bào đơn giản, thông qua trao đổi kinh nghiệm, quy nạp hoạt sinh biến dần những tâm thức sơ khai và rồi ý thức mãnh liệt tạo thành Am lưu dưới dạng năng luợng bao bọc vũ trụ, nơi sóng âm đó biến thành dung môi tồn trử mọi hoạt dụng của tâm thức, sự sống từ đó được bắt đầu, thật đơn giản và nhẹ nhàng, càng ngày do sóng thức phóng xuất hướng ngoại ( ly tâm ) nên tâm năng sinh học càng xuống cấp biến tính thành thể đặc ngày càng thô trược; Con người đầu tiên trong vũ trụ mang thân ánh sáng, là những quang năng sinh học đơn thuần, vô nhiểm, mãi đến khi năng lượng vũ trụ biến thành năng lượng sinh học, phân tử hữu cơ, những dạng tâm linh cũng nẩy sinh từ đó, qua hàng triệu năm những chu kỳ thánh đức ra đời, những năng lượng xấu xuất hiện, tạo thành lực lượng đối trọng với năng lực thánh đức, thu hút những quang năng tương thích lập thành khối lượng đen, tiêu cực. Có khuynh hướng đi xuống, xa dần năng lượng tinh khiết ban đầu, tôn giáo gọi là ma quỷ; và quang năng trong suốt đã thành ô trược nặng nề.
-Thần chú, có nhiều dạng, những loại thuộc bùa Lổ Bang, thần quyền, các bí pháp của dân tộc thiểu số như thư ếm, ma xó… là những lực lượng đen tối nhất, lực lượng đã được định hình bởi những tâm năng tiền sinh do bất toại, thề nguyền trong cuộc sống, khó giải thoát, luôn ở trong trạng thái trả thù hoặc yểm trợ kẻ cùng thiên hướng có chung tần số cung bậc khi phát âm những mật ngữ chủ định, những loại như vậy chỉ tương tác ở một âm bậc thấp, tác hại nhiều hơn làm lợi cho những năng lượng sinh học ngang tầm; ngược lại, mật chú của các Lạt Ma, của các giáo phái hướng thượng trong mật tông PG phát triển, đây là những dạng sóng âm có cường độ mạnh và tốt, nghĩa là một dạng năng lượng hướng thượng hổ trợ cho việc phát triển tâm linh, hành giả xử dụng có thể phát thành lời để kích hoạt âm lưu hay dùng định lực để phát âm trong tư tửơng đều kết quả như nhau và cùng mang t1nh tình thương châu biến khắp vũ trụ do chấn động âm lưu truyền tải; Những thời kỳ nhân lọai tiền sinh, xử dụng âm lưu qua quang năng tư tưởng đã một thời lưu lại trên hành tinh chúng ta những kỳ quang mà khoa học hiện nay vẫn bó tay; Am lưu hội tụ biến thành năng lực như các Lạt Ma hay xử dụng OM ngân động bầu không gian tĩnh mịch trên dãy Hy Mã, họ dùng âm lực thần chú biến năng lượng vi tế thành hình khối vật chất thô, hoặc ngược lại,có thể khuếch tán phân tử hữu cơ trở thành dạng quang năng bằng tâm năng thần chú,đó là tâm lực định tụ, ngược lại, âm lưu phát tán nó trở thành năng lượng vô tính hoặc năng lượng sinh học bình thường,thời kỳ văn minh của chủng tộc Lê mu ri – Atlan là những thời đại văn minh nhất hành tinh, họ có những thiết bị bay do năng lực thần chú, có nghĩa họ xử dụng tâm năng của định lực. Vào thời kỳ đầu của chủng tộc Lemuri, tức người viễn cổ, phát âm bằng mũi, không chỉ phát tầm âm bình thường mà còn ở tần sóng siêu âm và sóng hồng ngoại, do vậy, năng lực âm thanh của cổ nhân có một lực lượng bất khả tư nghì.
Trong lảnh vực bùa chú nhân gian, không thiếu thầy thư ếm mà người bị ếm ,thư, không gặp bậc cao tay ấn gở, có thể mạng vong, hoặc thầy phù thủy hô phong hoán vỏ, tác động đến cảnh vật chung quanh, họ có thể đốt nhà cách xa hàng cây số chỉ bằng những câu thần chú, chúng ta không nghi ngờ gì về năng lực âm lưu như vậy. Trong lảnh vực khoa học hiện đại, tuy chưa phát triển bằng nền văn minh Kim Tự Tháp, Angkor, Nhân sư…cũng đã xử dụng sóng từ để điều khiển, kích hoạt như quang tuyến, Laser trong y học, quân sự, không gian và tiện nghi đời sống; bộ diều khiển cầm tay xử dụng trong gia đình cho máy móc, lệnh truyền cho hoạt hành của vật bay lên không gian…tất cả đều xử dụng dưới dạng sóng âm mà thường gọi cảm ứng điện từ , từ những sóng âm, khoa học có thể điều khiển hoặc phá hủy một vật cách xa trên mặt đất như phá hủy một vệ tinh nhân tạo trên không trung. Năng lượng âm lưu đã được khoa học và các nhà tâm linh xử dụng từ lâu, khác chăng, khoa học còn bị tùy thuộc vào phương tiện xử dụng, các nhà tâm linh siêu đẳng họ chủ động trong mọi tình huống, vì họ đã hòa nhập tâm linh và năng lượng làm một, nói cách khác, họ đã trở lại với năng lượng sinh học của thời khởi nguyên mà các tôn giáo cổ đều đồng nhất quy hướng.
- Cái chung và riêng của các tôn giáo.
Bà La Môn, một cổ giáo của An quan niệm Bhrama là đại thể vũ trụ, con người là tiểu thể, tu luyện để trở về với đại thể.
Kitô giáo, Thượng đế là đấng sáng tạo muôn loài, con người, hoặc là trở về Thiên đường với Thượng Đế, hoặc xuống hỏa ngục đời đời, nhưng Jesus đã tầm sư học đạo tại Hy mã Lạp sơn với các đạo sĩ Yoga,Bà La môn,Phật giáo trước khi quây về Do Thái hoằng hóa.
Yoga là bộ môn vừa mang tính chất thể lực, vừa rèn luyện tâm linh, một cơ thể khỏe mạnh và một tinh thần minh mẫn là điều kiện ắt có và đủ để hành trình tâm linh hòa nhập vũ trụ tốt nhất. Các chủng tộc ưu việt đều lưu lại hậu thế những con người đạt đại định gọi là Xô ma chi, một nhục thân lưu tồn hàng trăm, hàng triệu năm không hề hư hoại mà khi còn tại thế phải có một thể chất và tinh thần sắt đá; không những tại Tây Tạng, An, khắp nơi trên thế giới những cao đức hành thiền đều lưu lại nhục thân, tại VN được biết có ba vị, Đài Loan, Trung Hoa, Thái…đều có những trường hợp như vậy,các khoa học gia nghiên cứu tôn giáo huyền bí đều xác nhận có những pháp thân ẩn tàng sâu trong hang động, dưới lòng đất, trong đại dương để chờ phục hoạt tiếp nối một nền văn minh tâm linh khi chu kỳ họai diệt trên mặt đất xẩy đến và thường xẩy đến hàng triệu năm qua mà gần đây nhất, nền văn minh At Lan Tic bị chôn vùi dưới đại dương độ 850.000 năm về trước, không xử dụng ướp xác mà vẫn không bị hư hoại, vì khi nhập định, các ngài đã tiêu hóa chất nước và vi khuẩn dưới một nhiệt độ của hỏa lực Tam muội..
Phật giáo, tuy thừa hưởng nền văn hóa Bà la môn và những giáolý của các tôn giáo sinh thời, nhưng đức Phật không áp dụng một cách máy móc, biết chắt lọc cái ưu và loại trừ cái khuyết, nhất là giai cấp và sự kỳ thị đánh mất giá trị tuyệt đối của con người trong cuộc sống, với trí tuệ của một minh triết, ngài đưa đạo phật vượt khỏi phạm trù tín ngưỡng mà hàng ngàn năm sau chưa một giáo chủ nào có được, thoát khỏi giáo điều và tín điều mù quáng mà các tôn giáo hầu hết bị va vấp, nâng Đạo phật lên tầm vóc một triết thuyết, một học lý, một nghệ thuật sống và một nền minh triết tâm linh khoa học, không bảo thủ Phật tính là một năng lực chủ đạo mà chúng sanh phải hoà nhập trở về như Bà La Môn giáo hay quy phục như Kito giáo, tất cả đều có mầm mống Phật tính, đều có khả năng giải thoát như nhau, và một giá trị đồng đẳng tuyệt đối, đó là một dạng năng lượng tâm linh bàng bạc kháp vũ trụ, không nơi nào để đến, cũng chẳng đi về đâu gọi là NHƯ LAI.
Lão gíáo . đạo gia cũng từ chối một cuộc sống hiện thực, muốn trở về điểm khởi nguyên của sự sống, trở về với vô vi, đó là nơi vĩnh hằngcủa Vô Cực.
Cái chung các tôn giáo là xem cỏi đời như một lãnh thổ tạm trú, cỏi tạm, không thật, nhưng PG khác hơn cái hành xử – không trốn chạy, mà trực diện và hòa nhập để thăng hoa, đó là triết lý sống độc đáo của đạo Phật, cho dù khác nhau lối hành xử, nhưng tất cả đều biết xử dụng năng lượng âm học để thăng hoa, vì các tôn giáo đều chịu ảnh hưởng từ một nguồn gốc tâm linh sinh trường trong vũ trụ, khoa học vật chất và khoa học tâm linh đều thoát thai từ một trường lực của vũ trụ bằng âm lưu ba động, nhưng lực ly tâm phát triển, mỗi ngành đi một hướng ngày càng xa bản thể uyên nguyên.
- Những đẳng cấp năng lượng tâm linh.
Như ta đã biết, khởi nguyên sự sống là nguồn sáng quang năng, quá trình vận hành, trao đổi hàng tỷ năm biến thành một ý thức và tâm thức đa chiều, vì vậy cảm thức cũng sai biệt ở một trình độ sai biệt nhất định, tín ngưỡng khởi nguyên cũng không là tôn giáo thần thánh mà là sinh trường năng lượng chú hướng đến tuệ trí mà dấu ấn còn lại phản phất nơi các tôn giáo cổ và nhất là PG, tuy PG ngày nay đã xuống cấp như một tôn giáo đáp ứng trình độ nhân loại bị tha hóa nhưng tinh túy vẫn hướng con người khôi phục tính giác, tức ánh sáng trí tuệ, mỗi ngày, con người khai triển một tín ngưỡng mới lạ, không những ở đất nước chậm phát triển, ngay cả trên xứ sở văn minh, không thiếu những tôn giáo cuồng tín, phản khoa học, có nhiều nguyên nhân:
Hoặc kẻ phát minh cảm ứng một tín hiệu sóng âm được gọi là ơn soi sáng, dẫn dắt, hoặc mặc khải, như cầu cơ của đạo Cao Đài,hoặc các tiên tri của thần giáo.
Hoặc khởi xuất từ một hoàn cảnh xã hội như PG Hòa Hảo
Hoặc cải biên từ một tôn giáo đi trước như Tin Lành
Cũng có thể phát xuất từ một ý thức chính trị hoặc triết lý nhân sinh như đạo Khổng…
Một số giáo phái cuồng tín phản khoa học xuất hiện khắp nơi trên các quốc gia văn minh như giáo phái mặt trời ở Nhật, nhánh Tin Lành ở Nam Triều Tiên tin ngày tận thế, một nhóm Hồi giáo cực đoan…Tất cả những dạng nầycó chiều hướng đi xuống bởi lực ly tâm, rời xa từ trường Quang và Am của vũ trụ, chiêu cảm các dạng sóng âm tiêu cực tối tăm, vì vậy ánh sáng trí tuệ bị ám đục.thiên hướng ma lực.
Các dạng tín ngưỡng trên thế gian được chia làm nhiều cấp độ bởi năng lực âm lưu như:
Ma-quỷ, đồng cốt thuộc dạng tâm năng sinh học thấp, chiêu cảm những tần sóng âm hạn hẹp và tối,bị ẩn uất trong cỏi trung giới.
Bóng rỗi, đình miếu thuộc tâm năng tiết khí trung liệt chiêu cảm sóng âm cực đoan, nóng nảy của thần Atula
Tứ phủ là những tâm năng ra khỏi thần lực nhưng chưa phát triển thánh lực.
Thầy mo, phù thủy, thầy pháp…là những tay thợ nắm chìa khóa âm bậc của sinh trường ở mức thấp. Vì lực lượng âm bị họ xử dụng sai khiến, chưa thoát khỏi ách tắc tâm lý khi bước sang thế giới vô hình, đó là những âm bậc nhất định như âm giai cung bậc của giây đàn, khảy đúng vào đó là thành âm vang, không nhất thiết hữu dụng, thường bị trì trệ tâm năng.
Thôi miên là dạng năng lượng được xử dụng khá hơn những dạng trên, dùng định lực tác động sóng âm thẳng vào não bộ đối tượng, khai thác tiềm thức, loại bỏ ý thức của đối tượng, có giá trị trong phạm vi giới hạn như chửa bệnh, thẩm vấn, truy tầm bệnh lý như nhà thôi miên Mỹ – Cai-si.
Ngoại cảm là những người có quang năng nhạy bén của giác quan thứ sáu hay là con mắt thứ ba, tâm năng họ giao cảm với thông tin trường lực ngoại vi theo tần số có điều chỉnh, như máy bắt sóng đúng tần số cần dò.
Các đạo sư, minh sư, thánh triết ,giáo chủ là những vị làm chủ trường lực nội tại và trường lực vũ trụ, họ là bộ phát sóng cực mạnh và thanh khiết, tâm thức họ hòa nhập toàn thể vũ trụ mà PG gọi là thức vô biên xứ, họ thoát khỏi sự chi phối của tương đối và nhân quả, sống chết, kéo dài thọ mạng tùy ý, trường lực bao quanh họ là hào quang của tình thương vô điều kiện, họ tác động toàn vũ trụ, nhưng không ai có thể tác động được họ, họ sống bằng sự minh triết của trí tuệ.
-D Con đường ý nghĩa
Các tôn giáo lớn , nếu loại trừ những lể nghi, tập quán xã hội, một điểm chung gặp nhau là nâng cao tâm thức, mỗi tôn giáo có một phương cách thanh tẩy tâm linh, mổi pháp hành có một giá trị nhất định, đều hướng về năng lượng tinh thần; Anh sáng trí tuệ không phải là một cách biểu đạt tượng trưng mà là đặc trưng, vì trí tuệ vốn là ánh sáng tâm linh, một năng lượng nguyên thủy của vũ trụ từ lúc hình thành, một dạng quang năng tuyệt đối của mọi sinh vật, con người có khuynh hướng tha hóa, ly tâm, đi xuống chốn sai lạc, bất toàn và khổ đau, nên tôn giáo, các giáo chủ có bổn phận giúp đở hồi tỉnh, thoát ly cái phiền trược thể chất, phục hồi giá trị năng lượng sinh học của cá thể hòa nhập với vũ trụ, vì con người vẫn là một tế bào của vũ trụ, con người tìm lại thế cân bằng với quang năng sinh hóa của vũ trụ sẽ trở lại thời đại khoa học tột đỉnh của kỷ nguyên những kỳ quang thế giới, cái giải thoát của đạo Phật là giải thoát khỏi sự ràng buộc những bất toàn trong cuộc sống tăm tối, tìm lại sự tự do tuyệt đối như chư Phật đã thể hiện một quang thân trong sáng mà đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni có màu vàng chói của ánh sáng huỳnh kim, đây là một sự thật chứ không phải một mô tả cường điệu vì sự sùng kính, các nhà nhân chủng, khảo cổ, sử gia thế giới đã tìm đâu đó một lịch sử nhân loại thuở khởi nguyên có những quang thân năng lượng như vậy, bác sĩ giải phẩu người Nga E-Rơ-Nơ Mun Đa Sép, từ một nghiên cứu khoa học duy vật trong thế kỷ XXI đã vô tình chạm phải ranh giới khoa học tâm linh, nơi đó sự thú vị lẫn kinh ngạc trước cái vĩ đại khó lường của năng lực tâm linh, để rồi chính tự thân bác sĩ cùng đoàn khoa học gia phải xác nhận những kiến thức hạn hẹp của mình giữa cái vô tận mầu nhiệm của kiếp người, nơi đó, các Lạt Ma, đạo sư, những chủng tộc văn minh cực điểm của loài người hàng triệu năm trước còn lưu xác như một quỷ Gen cho nhân loại khi loài người bị hủy diệt như đã từng bị hủy diệt.
Như ta đã biết, Yoga, Đạo gia, Lão, Bà la Môn, một số giáo phái thần bí rải rác khắp hành tinh, PG và gần đây có Trường sinh học nhân điện, pháp Quán Am, kể cả Mật pháp…đều khởi xướng phục hồi năng lượng sinh học qua tâm linh, những pháp hành là một chấn động lực nâng cao tâm thức, tẩy rửa phiền trần như cơn sóng ba đào xô dạt xác chết khỏi đại dương, năng lượng tâm linh cũng đánh bạt mọi nghiệp thức, bạch tịnh hóa tâm thức, như vậy, không phải vô tình mà các tôn giáo khởi xướng tâm linh, vì tâm linh quyết định hữu hiệu những hạn chế mà khoa học vật chất không thể chu toàn, cái cơ bản của tôn giáo là tâm linh, nhìn ở góc độ khoa học, tâm linh là dạng năng lượng sinh học có ý thức, hoạt dụng của tâm linh là sóng năng lượng âm lưu như một âm lưu trong vũ trụ từ lúc hình thành và tồn tại, một âm lưu sinh trưởng thảo mộc, một âm lưu trưởng dưởng thai nhi, đó là nguồn mạch sự sống như hít thở khí trời mà ta vẫn quên bẳng; Cái hoạt dụng và dịu dụng của âm lưu bàng bạc khắp sự sống, tôn giáo biết nương vào đó để thăng hoa và trở về, khoa học một giới hạn nào đó cũng xử dụng chấn động lực âm thanh trong các ngành y học, nông nghiệp, công nghiệp… nhưng khoa học chưa tận dụng âm thanh như một nhiên liệu siêu vi thay thế nhiên liệu thô nhiều tác hại hiện nay, trái đất chúng ta đã một thời kỷ nguyên tiến bộ dùng âm thanh điều khiển vật bay không cánh một cách linh hoạt, đã từng xử dụng chấn động lực loại trừ lực hấp dẫn để nâng khối đá hàng tấn làm thành kỳ tích Angkor và Kim tự tháp;
Tóm lại, âm thanh, một chấn động lực luôn là nguồn tài nguyên vô tận để khoa học vật chất lẫn tâm linh thành đạt mọi ước mơ – phục vụ cho con người.
04-004 MINH MAÃN