Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014
SIÊU ĐẠO ĐỨC HỌC
HT Nhất Hạnh
Đạo đức học cần có nền tảng. Có nhiều nhà triết học cho rằng cần có nền tảng siêu hình để xây dựng nền tảng cho một nền đạo đức học, vì vậy mới có môn học tên là “Siêu đạo đức học”. Trong môn Siêu đạo đức học, chúng ta đặt những câu hỏi như: Thế nào là thiện? Thế nào là ác? Thế nào là chính? Thế nào là tà? Thế nào là đúng? Thế nào là sai? Ở trong truyền thống Khổng giáo, Mạnh Tử là nhà triết học chủ trương bản tính con người là thiện. Theo ông thì khi mới sinh ra bản chất của con người là tốt: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Ngày xưa trẻ con đi học là phải học sách “Tam tự kinh” trước nhất. Đứa trẻ nào cũng ê a đọc:“Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương cận, tập tương viễn. Cẩu bất giáo, tính nãi thiên. Giáo chi đạo, quý dĩ chuyên” học thuộc lòng như vậy.
Như vậy là Mạnh Tử đã xác nhận, cái thiện là cái có thật và sẵn có trong mỗi con người. Hỏi ông rằng thiện ở chỗ nào thì ông nói khi quan sát con người ta thấy có bốn điểm:
1. Lòng trắc ẩn : Lòng trắc ẩn cũng giống như tình thương. Ví dụ mình đang bận rộn ở trong nhà, chợt thấy ở bên ngoài có một em bé hai tuổi rưỡi đang đi chập chững mon men leo lên miệng giếng, sắp rớt xuống giếng, sắp chết. Mình vội vội vàng vàng chạy ra nhưng căn phòng của mình đang khóa, vì vậy mình không thể chạy nhanh ra bế đứa bé được, khi ấy lòng mình xôn xao, khó chịu. Đứa trẻ đó không phải là con cháu của mình, nhưng thấy đứa trẻ rơi xuống giếng thì mình có lòng trắc ẩn, xót thương, mình không chịu nổi, mình phải lập tức ra cứu lấy đứa bé, cái đó là cái tự nhiên. Cứu đứa bé không phải để làm vừa lòng ba mẹ nó, cũng không vì tìm kiếm danh lợi, mình không cần cái gì hết. Chỉ là tự nhiên trong mình dâng lên sự xót xa thôi. Đó là lòng trắc ẩn. Điều này không cần phải giáo dục mới có, nó là hạt giống thiện ở trong con người.
2. Lòng tu ố : Tu tức là biết hổ thẹn, còn ố là khinh ghét, biết khinh ghét những cái xấu xa, tàn ác. Tu ố là biết tự xấu hổ và biết khinh ghét những cái xấu. Đây cũng là cái có sẵn trong con người từ lúc mới sinh ra. Trong đạo Bụt có hai tâm hành là tàm và quý, là cái khả năng tự hổ thẹn. Chừng nào ta còn biết hổ thẹn chừng đó ta còn là người tốt. Biết xấu hổ khi mình làm điều sai trái cái đó cũng tự nhiên mà có chứ không cần phải học.
3. Lòng từ nhượng : Từ nhượng tức là khả năng nhường nhịn, buông bỏ.
4. Lòng thị phi : Thị là đúng, phi là sai, tức là con người có khả năng phân biệt được cái nào là đúng, cái nào là sai. Điều này ở nơi con vật không có, hoặc có dưới dạng tiềm tàng chưa thể hiện rõ ràng như con người.
Mạnh Tử nói rằng giữa con người với loại thú gần giống nhau, khoa học bây giờ cũng nói như vậy. Ngày nay, khoa học nói, đứng về phương diện gien thì rất giống nhau, chỉ có khác một chút xíu thôi, đó là bản tính thiện nơi con người. Chính nhờ cái thiện đó nên mới thành lập được một nền đạo đức.
Ở Tây phương có một nhà triết học người Pháp, ông có nhận định rất bi quan. Theo ông khi nhìn bên ngoài thì thấy có những đức tính tốt, nhưng nhìn cho kỹ thì đều thấy cái ngã ở trong ấy, ai cũng chỉ biết vì bản thân mình thôi.
Lại có một nhà triết học khác tên là Tuân Tử cũng ở Trung Quốc lại chủ trương rằng: “Nhân chi sơ tính bản ác”. Theo ông thì con người sinh ra bản tính vốn là ác. Và ông chứng minh điều đó như sau: “Khi nhìn vào một đứa bé thì thấy nó tham lam, giận giữ, ích kỷ, ganh ghét…” Tóm lại là tất cả những tính nết xấu của con người đều lộ ra hết, vì vậy mà bản tính con người là xấu, nhờ giáo dục, rèn luyện nên nó đỡ xấu đi thôi chứ bản chất con người là hoàn toàn xấu.
Hai quan niệm này chống đối nhau kịch liệt. Một bên thì nói rằng bản tính con người là thiện, một bên nói rằng bản tính con người là ác.
Lại có thêm một nhà triết học khác nữa tên là Lão Tử, ông này chủ trương rằng bản tính con người không phải thiện cũng không phải ác. Mình hướng nó đi về nẻo thiện thì nó theo nẻo thiện, hướng nó về nẻo ác thì nó theo nẻo ác. Giống như là dòng nước vậy, khơi về phương Đông thì nó chảy về phương Đông, khơi về phương phương Tây thì nó chảy về phương Tây. Tính con người không phải thiện, không phải ác, nói tóm lại, nó vô ký.
Có một nhà Phật học Trung Quốc hiện đại viết một tác phẩm về Duy Thức Học, bắt chước kiểu Tam tự kinh, tức là mỗi câu kinh có ba chữ. Nhà Phật học này cũng bắt đầu với: “Nhân chi sơ” và ông nói: “Nhân chi sơ. Tính vô ký. Phi thiện ác. Danh tàng thức. Nhất thiết chủng. Gia nhiếp tàng. Vạn pháp bổn. Thiện ác tường”. Có nghĩa là khi người ta sinh ra thì tính là vô ký, không phải thiện cũng không phải ác, cái tâm đó gọi là tàng thức. Tất cả các hạt giống đều có trong đó, đó là gốc của tất cả các pháp. Thiện và ác được biểu lộ rõ ràng từ đó. Vô ký tức là không phải thiện, cũng không phải ác. “Phi thiện ác danh tàng thức”: Tàng thức của mình không phải thiện, cũng không phải ác.
Nhưng Mạnh Tử lại phản đối, ông cho rằng nói như vậy là không đúng. Quả thật là dòng nước mình đào về hướng Đông thì nó chảy về hướng Đông, đào về hướng Nam thì nó chảy về hướng Nam, nhưng mình quên mất là nước luôn tìm chỗ trũng mà chảy. Nó không phân biệt hướng Đông, hay hướng Tây, nhưng nó biết phân biệt cao và thấp.
Lão Tử và Trang Tử lại chủ trương siêu việt thiện ác, điều này tương đương với Niết Bàn và Chân Như trong đạo Bụt, cũng giống như là Bát Nhã, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không thiện, không ác. Đó là điểm tương đồng giữa Nho học Trung Quốc và Đạo Bụt
Trong khi đó Duy Biểu Học của đạo Bụt có nói về tàng thức (A lại gia). Tàng có nghĩa là cất giữ. Tàng thức được làm bằng các hạt giống gọi là chủng tử, con người có những hạt giống thiện và những hạt giống ác, vậy nên A lại gia cũng có tên là nhất thiết chủng thức, tức là tâm thức chứa đựng tất cả các hạt giống. A lai gia không phải thiện, không phải ác, mà gồm có cả thiện lẫn ác, nó siêu việt thiện ác, nhưng thiện ác ở đây nương nhau mà ra. Do đó chúng ta có thể bắt đầu đạo đức học Phật giáo bằng Duy Biểu học.
Khi nói tới tàng thức và đại viên cảnh trí thì cái đó thuộc về phạm vi của siêu đạo đức học. Còn khi nói tới chủng tử thì cái đó thuộc về tiêu chuẩn đạo đức học. Cái thiện và cái ác cũng như cái trái và cái phải, nó nương nhau mà có, hễ có thiện thì có ác, có ác thì có thiện. Cũng như cao và thấp, có cao là có thấp, có thấp là có cao. Cái chánh và cái tà cũng vậy, hễ có chánh là có tà và có tà là có chánh, chúng nương vào nhau mà thành lập. Vì vậy phải thấy được sự liên hệ giữa chánh và tà, giữa thiện và ác.
Duy Biểu học không chỉ nói về hạt giống thiện và ác mà còn nói về những tâm sở thiện, tâm sở bất thiện và tâm sở bất định. Những hạt giống này khi chúng biểu hiện có thể làm cho chúng ta hạnh phúc hay khổ đau. Hạt giống có cả thảy sáu tính chất:
- Sát na diệt: Hạt giống thiện hay hạt giống ác trong chúng ta là những năng lượng, những thực tại biến chuyển không ngừng tùy theo cách sống và tu tập của chúng ta.
- Quả câu hữu: Tức là khi nó phát hiện thành hiện hành thì nó với hiện hành có mặt với nhau một lần. Ví dụ như khi hạt bắp trở thành cây bắp con thì hạt bắp và cây bắp cùng có mặt đồng thời, cùng một không gian, cùng một thời gian chứ không phải hạt bắp một nơi mà cây bắp một nẻo.
- Tính quyết định: Nếu bản chất của nó là một hạt giống tốt thì tính chất ấy sẽ đưa tới những quả tốt và nó tiếp tục là một hạt giống tốt. Dầu cho hạt bắp có sinh ra cây bắp, rồi trở thành trái bắp thì nó vẫn là bắp chứ không thể thành trái cam hay hạt đậu được. Nếu nó là hạt giống từ bi thì nó vẫn tiếp tục là hạt giống từ bi, không thể nào trở thành ra hạt giống giận hờn hay ganh tị được. Đó chính là tính quyết định.
- Hằng tùy chuyển: Hạt giống là một dòng hiện tượng, tùy theo những điều kiện khác mà nó đi tới. Nó nương vào căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và hệ thần kinh), nương vào trần (trần là đối tượng tiếp xúcb của căn, ví dụ như hình ảnh, màu sắc là đối tượng của mắt, mùi là đối tượng của mũi…) và cuối cùng nó nương vào thức, thức có nghĩa là nhận thức. Những hạt giống trong tàng thức luôn luôn đi theo những cái đó và chuyển biến.
- Đãi chúng duyên: Đãi tức là đợi, đợi những điều kiện thuận lợi để phát triển. Ví dụ như hạt giống tình thương, hạt giống hạnh phúc, giác ngộ nơi bạn có sẵn ở đó rồi nhưng nó đợi bạn thực tập để cho nó lớn lên. Bụt đang chờ mình, mình phải làm thế nào để Bụt có thể sớm biểu hiện được. Người nào cũng có Bụt ở trong lòng, nhưng Bụt biểu hiện sớm hay muộn đều do duyên mà ra, duyên ở đây chính là sự tinh tấn của mình chứ không phải chờ đợi cơ may từ trên trời rơi xuống.
- Dẫn tự quả: Tự dẫn tức là tự đem tới, quả tức là kết quả. Dẫn tự quả nghĩa là quả của chính nó. Ví dụ hạt bắp thì mọc lên cây bắp chứ không lên cây đậu, hạt đậu thì lên cây đậu chứ không lên cây bắp. Mình là dòng giống của từ bi thì mình sinh ra con cháu từ bi, mình mà là dòng giống bạo động thì mình sinh ra con cháu bạo động.
Đó là ý nghĩa của chủng tử và hạt giống.
Vì vậy, trong Duy Biểu học cái thiện và cái ác được nhận thức qua hạt giống, nhưng nếu như hạt giống không có đủ điều kiện thì nó cứ nằm hoài dưới tàng thức và ngày một yếu đi. Ví dụ như mình có hạt giống giận hờn, bạo động, nhưng nếu mình sống trong một môi trường quá thiện lành, mọi người xung quanh ai cũng đối xử với nhau lịch thiệp, nhã nhặn, đầy tình thân ái thì những hạt giống giận hờn, bạo động kia không có điều kiện phát triển. Ngược lai, nếu mình sống trong một môi trường dữ dằn, đầy tranh chấp, thủ đoạn, mưu mô với nhau thì hạt giống dữ dằn, thủ đoạn, mưu mô trong mình bị tưới tẩm rồi một thời gian sau mình cũng sẽ trở thành một người với nhiều tính bất thiện ấy và lúc đó mình sẽ đau khổ nhiều lắm. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là vậy. Do đó, vấn đề tưới tẩm hạt giống tốt thuộc về phạm vi thực tập. Duy biểu học thuộc về pháp tướng, pháp tướng cũng nương vào pháp tánh, đứng về phương diện bản tánh thì không có thiện, không có ác, không có chánh, không có tà. Nhưng đứng về phương diện hiện tượng, sự sống thì nó có thiện - ác, chánh - tà, nhưng cả hai nương vào nhau để thành.
Chủ thuyết Công Ích Luận: Đường lối này do nhà triết học người Anh tên là Jeremy Bentham và một người bạn của ông tên là John Stuart Mill chủ trương. Jeremy Bentham vốn là một luật sư, còn John Stuart Mill là nhà kinh tế học. Tuy họ là những triết gia nhưng đồng thời họ cũng là những nhà xã hội học. Trước đó họ đã được ảnh hưởng tư tưởng và đường lối của một nhà triết học người Anh khác là David Hume, tư tưởng đó là “Công ích luận”. Theo tôi thì nếu ông này mà được học đạo Bụt thì sẽ đi rất xa.
Chủ trương của Công ích luận là hành động đó là chánh hay tà, thiện hay ác là do nó có mang lại lợi ích hay không. Vì đạo đức học phải đề cập tới cái chánh, cái tà, cái thiện, cái ác. Chánh, tà, thiện, ác không phải là do chính nó mà do kết quả của nó quyết định. Chúng ta hay phán xét cho hành động đó là đúng hay sai, chánh hay tà là do nó đưa tới khổ đau hay hạnh phúc. Theo chủ trương của phái Công ích luận, thì càng ít khổ đau, càng nhiều hạnh phúc càng tốt. Hành động nào đem tới sự giảm thiểu khổ đau và đem tới công ích, hạnh phúc nhiều thì hành động đó gọi là chánh, là thiện. Nhưng có những nhà đạo đức học chống đối lại khuynh hướng này, cho rằng chỉ có một nguyên tắc tối hậu thôi là nguyên tắc của sự lợi ích.
Trong đạo Bụt có chữ thiện và ác. Đạo Bụt định nghĩa chữ thiện là những điều gì có khả năng giúp đem tới giải thoát, giác ngộ, thảnh thơi, bớt khổ. Chủ trương của Công ích luận cũng nói tương tự như vậy. Tất cả những điều gì, những hành động nào đưa tới hạnh phúc, giảm thiểu khổ đau đều là chánh còn ngược lại là tà. Vì vậy trường phái này chủ trương là không nên dùng sự trừng phạt, không nên làm cho người ta khổ.
Theo chủ trương của Công ích luận thì bất cứ một cái gì đem lại khổ đau là không nên làm.
Vì vậy cho nên chủ thuyết này chống lại chuyện trừng phạt những người có tội, bắt người ta chịu tội thì đáng thương quá, có lòng từ bi ở trong đó, rất là dễ thương. Họ có chủ trương những nhà tù không phải là chỗ đền tội, chỗ làm cho người ta khổ thêm, mà nó phải là những trung tâm có những phương tiện để giúp cho những tù nhân có cơ hội được học tập cải hóa. Trong đó phải có thư viện, lớp học, trường học nghề… Những người cai tù được gọi bằng cái tên rất đẹp là nhân viên cải tạo và tù nhân gọi là người nội trú.
Có người phản đối điều này, họ nói rằng danh từ thì hay đấy nhưng kỳ thực nó vẫn là nhà tù như thường. Mà sự thực cũng có như vậy. Người ta thấy rằng tuy có nhiều người đi theo chủ thuyết công ích này và đã làm như vậy rồi, nhưng trong những nhà tù ở California vẫn không có tiến bộ gì, cách hành xử cũng vẫn giống hệt như nhà tù, không khác bao nhiêu, người ta vẫn khổ là tại sao? Đây là vấn đề mình phải đặt ra, ý thì rất hay nhưng làm lại không được. Theo tôi thì nguyên nhân là vì trong đó người ta chỉ làm với tính chất hình thức chứ không có nội dung, các nhân viên cải tạo chính họ cũng không biết cách thực tập để điều phục những khó khăn trong mình. Họ cũng có những giận hờn, bức xúc, những bạo động trong tâm, chính họ còn không biết cách chuyển hóa thì làm sao có thể giúp cho người khác chuyển hóa được?
Vì vậy, nếu quý vị đang làm trong ngành luật pháp, hay quý vị là những người thực tập đạo Bụt, thì quý vị phải nghiên cứu, quán chiếu đặt vấn đề tại sao những trại học tập cải tạo ở phương Tây và phương Đông đều đã và đang thất bại? Nếu các vị đó biết được pháp môn tu tập chuyển hoá thì họ có thể đề nghị ra những phương pháp cụ thể và hữu hiệu hơn để tạo ra những cơ hội cho những người lầm đường lạc nẻo có thể trở về. Nếu quý vị có cơ hội, có phương tiện thì hãy tiếp xúc với ngành tư pháp để tìm hiểu thêm, cống hiến cho họ những tuệ giác, những kinh nghiệm đứng về vấn đề cải hoá, cải tạo.
Vào khoảng thế kỷ thứ 18, sau Cách Mạng Pháp (Cách Mạng Pháp diễn ra vào năm 1789). Lúc ấy người ta rất muốn đi tìm một đường hướng đạo đức cho toàn cầu. Tổng thống Pháp Sarkozy có nói một câu làm tôi chú ý. Ông nói rằng: “Bây giờ chúng ta phải đưa môn đạo đức vào trường học, vì tuổi trẻ bây giờ đạo đức xuống cấp quá, tuổi trẻ bị bế tắc tâm linh, họ không có lối để đi”. Lúc đó cũng có một vài nhà trí thức người Pháp nói: “Ok! Dạy thì dạy, nhưng biết dạy cái gì bây giờ?” Ví dụ một tuần có một hoặc hai giờ đạo đức, nhưng biết dạy cái gì mới được chứ?
Tại Làng Mai chúng tôi có rất nhiều cái có thể đem chia sẻ với học sinh, sinh viên các trường từ tiểu học, trung học, tới đại học. Trước hết phải nói cho họ biết những khổ đau mà họ đang có. Tiếp theo là những phương pháp giúp họ có thể đối diện và chuyển hóa những khổ đau của mình. Những cái đó chính là đạo đức học. Vì vậy cho nên 5 giới, 14 giới đều có thể biến thành tư liệu để giảng dạy hết, mà những cái đó không cần mang màu sắc tôn giáo, không cần mang màu sắc Phật học, nó có thể được mang màu sắc phi tôn giáo.
Nếu trong số quý vị có ai làm trong ngành giáo dục xin hãy suy nghĩ về điều này. Quý vị có thể đề nghị với Bộ Giáo dục quốc gia làm thế nào để người trẻ có được một hướng đi lành mạnh về tinh thần. Tại vì trong mỗi người trẻ đều có sẵn hạt giống của đạo đức. Một nhà giáo dục có thể nhận diện được những yếu tố đẹp đẽ trong truyền thống đạo Bụt để hiến tặng vào con đường tâm linh cho tuổi trẻ. Quý vị có thể dùng con đường của Bụt, cái nhìn bất nhị, cái nhìn tương tức, và những giới pháp để làm việc này.
Hiện giờ các thầy, các sư cô trẻ ở Làng Mai đang thiết lập một phong trào dành cho thanh niên gọi là “Wake up” (tỉnh thức). Phong trào này được tuổi trẻ các nước đáp ứng lại một cách rất nồng nhiệt, tạo thành đoàn thể những người thanh niên, thiếu niên Phật tử sống và hoạt động cho một xã hội lành mạnh hơn, có nhiều từ bi hơn. Cố nhiên là chúng ta rất cần Năm Giới, chúng ta rất cần cái thấy về tương tức, cái thấy không kỳ thị, cái thấy bất nhị. Chúng ta cần phải có sự thực tập để chuyển hoá những kỳ thị, những lo lắng, sợ hãi, giận hờn, tuyệt vọng của chúng ta. Và người trẻ có thể thừa hưởng được những sự thực tập ấy. Nếu quý vị là phụ huynh, là những nhà giáo chức có thao thức đi tìm một con đường như vậy cho tuổi trẻ thì quý vị có thể bàn với các thầy, các sư cô Làng Mai. Quý vị cũng có thể trao đổi qua các trang nhà của Làng Mai.
Chủ nghĩa Công lợi hay Công ích này cũng đơn sơ thôi. Tức là trước hết phải nói ra được những cái gì mình muốn có ở trên đời. Ví dụ mình muốn có việc làm, có đủ cơm ăn, áo mặc, gia đình hòa thuận... Rồi tiếp đến là nói ra những cái gì mình thấy là hạnh phúc của người dân như: Công ăn việc làm, có tự do, có nhân quyền, hòa bình… Trước hết phải liệt kê ra những cái mà mình cho đó là hạnh phúc. Sau khi thiết lập được những cái mà mình cho rằng rất cần thiết cho nhân loại, thì lúc đó mới đi tìm hành động. Tất cả những hành động nào đưa tới cơm no áo ấm, có việc làm, có tự do, có nhân quyền, có sự bảo hộ đều là những hành động đúng và tốt.
Nhìn vào hậu quả, nhìn vào những công ích này mà mình biết rằng phải làm cái gì và không nên làm cái gì. Đó là đường hướng của Công ích luận và nó nằm ở trong hướng đi của Hậu quả luận. Giống như trong đạo Bụt, nó được gọi là sự thực thứ ba và sự thực thứ tư, tức diệt đế và đạo đế. Diệt ở đây có nghĩa là lạc, là hạnh phúc. Muốn có những hạnh phúc như vậy, muốn có hỷ, muốn có lạc, muốn có chuyển hoá, muốn có từ, muốn có bi thì phải làm gì? Câu trả lời là tất cả những cái gì diệt khổ, giúp chúng ta và những người xung quanh có được hạnh phúc thì đều là thiện, là phe chánh. Công ích luận cũng suy nghĩ giống như là Tứ diệu đế vậy. Nhưng Công Ích Luận không thấy được tính tương tức của hạnh phúc và khổ đau. Còn trong đạo Bụt chúng ta có cái nhìn bất nhị, chúng ta thấy được rằng khổ đau đóng góp một phần nào đó để tạo nên hạnh phúc. Và hạnh phúc bây giờ cũng có thể là khổ đau sau này. Ví dụ trong khi uống rượu, sử dụng ma túy thì thấy rất sung sướng, nhưng tới khi hết rượu, hết thuốc rồi mà mình lại lên cơn nghiện, lúc ấy mới thấy khổ thấm thía, chưa kể đến những căn bệnh hiểm nghèo sẽ mắc phải trong tương lai như: ung thư gan, ung thư phổi, tại nạn giao thông, thậm chí có thể mắc bệnh AISD. Vì vậy cho nên hạnh phúc và đau khổ là những danh từ mà mỗi người hiểu một cách khác nhau, khó đồng ý lắm.
Trước hết, những cái gọi là cái hạnh phúc đó là những cái hạnh phúc nào? Và hạnh phúc đối với ai? Ví dụ như trong chúng ta, có người thấy rõ ràng rằng có công ăn việc làm là chuyện quan trọng nhất, còn tự do nhân quyền hay là chuyện môi trường không quan trọng, nên cái ưu tiên trước nhất của người ấy là công ăn việc làm. Có những người khác nói, công ăn việc làm không quan trọng, tình trạng hâm nóng địa cầu mới là nguy cơ, phải lo cho nó trước. Vậy nên khi nói tới cái gì là ưu tiên, thì cũng không ai đồng ý với ai hết.
Do đó, thiết lập nên những cái gọi là quan trọng cũng có khó khăn, phải có một người có đủ trí tuệ để thấy hết được tất cả những nhu yếu, những liên hệ giữa cái này với cái kia mới thiết lập ra được cái đó. Ví dụ như tổng thống Obama đang thiết lập một danh sách những chương trình cần làm để cho cuộc khủng hoảng kinh tế này được giải quyết: Làm thế nào để cho những ngân hàng đừng bị phá sản ? Làm thế nào để cho những công ty không sa thải công nhân? Làm thế nào để chấm dứt cuộc chiến tranh ở Afghanistan, ở Iraq càng sớm càng tốt? Làm thế nào để bớt sự căng thẳng giữa Mỹ với Nga, giữa Mỹ với Iran? Tất cả những cái đó được nêu ra như những điều cần phải ưu tiên được làm trước nhất. Khi đã xác định được những việc quan trọng cần phải làm thì bắt đầu đi tìm những phương pháp hành động để đạt được những cái đó. Và những hành động nào giúp chúng ta đạt tới cái đó đều là chính đáng, đều là tốt đẹp hết. Khuynh hướng đó gọi là Hậu Quả Luận.
Một trong những nguyên tắc của Công ích luận là làm thế nào để cho tất cả mọi người đều thấy rằng ai cũng có cơ hội như nhau chứ không phải chỉ lo đạt tới mục tiêu của mình mà làm hại người khác. Phải để ý tới hạnh phúc của người khác chứ không nên chỉ lo riêng cho hạnh phúc của mình. Vì vậy trong Công ích luận cũng có ý niệm về xả, tức là trong chủ thuyết này, công ích chung phải được đặt lên hàng đầu. Do đó cho nên mới có chữ công. Và ai có thể có được cái thấy thì người đó gọi là quan sát viên lý tưởng. Khi có một quan sát viên lý tưởng rồi thì chúng ta mới lập nên một cái danh sách về những gì thật sự cần được ưu tiên, tiếp đó chúng ta mới đoán định được những hành động nào cần phải làm, những hành động nào không nên làm để đi tới mục tiêu đó.
Nhưng trên thực tế, không thể nào có một quan sát viên lý tưởng như vậy. Trong đạo Bụt, ta nói rằng đức Như Lai có cái thấy sâu rộng, bao trùm hết nên ta nói đức Như Lai có thể là một quan sát viên lý tưởng. Và những lời dạy của Ngài gọi là thánh giáo, có thể giúp cho mình vững bước trên con đường đi. Hay là nếu chúng ta là người Cơ đốc giáo thì chúng ta nói Chúa Jesu là một người toàn năng, toàn trí, có cái thấy biết sâu rộng, vì vậy Ngài có thể soi đường chỉ lối cho mình. Cho nên những người theo Chúa Jesu hay theo Bụt thì có một phần căn cứ trên trí tuệ của mình, một phần căn cứ trên trí tụê của Thầy mình, tức là Thánh trí.
Trong đạo Bụt có nói tới hiện lượng, tức là trực giác, là cái thấy trực tiếp mà không cần phải lý luận, là công cụ để cho mình đạt tới sự thật. Và công cụ thứ hai là tỷ lượng. Tỷ tức là so sánh. Thấy đằng kia có khói lên thì mình biết chắc chắn là ở đấy có đám cháy. Nhờ so sánh và lý luận mà tìm được sự thật gọi là tỷ lượng. Nhưng ngoài hai công cụ đó ra mình còn có công cụ thứ ba gọi là thánh giáo lượng. Tức là chúng ta có thể nương vào tuệ giác của những bậc thầy lớn đã đạt tới những cái thấy rất thâm uyên, chúng ta có thể lợi dụng cái thấy của các vị, đó gọi là thánh giáo lượng. Là Phật tử chúng ta có thể nương vào cái thấy của Bụt, là người Thiên chúa giáo chúng ta có thể nương lời dạy của đức Kitô. Đó là ba phương tiện để đạt tới sự thật
Trước hết chúng ta phải sử dụng trí tuệ của chúng ta qua ba phương pháp đó để thiết lập ra chương trình. Phải nói rất rõ ràng chúng ta muốn cái gì, cái chúng ta muốn không phải cho riêng cá nhân mình mà là cho cả nhân loại. Khi chương trình đã được thiết lập rồi thì chúng ta mới biết rằng phải hành động như thế nào để đạt được kết quả đó. Nó cũng giống như đạo đế và diệt đế vậy. Trên thực tế thì những nhà Công ích luận này họ không tin vào Thượng đế, họ cũng chẳng tin vào thánh giáo luận, họ chỉ tin vào lý tính của con người thôi. Một điểm đặc biệt của Hậu quả Luận, Công ích luận là đặt Thượng đế và kinh điển sang một bên, chỉ sử dụng chính con mắt và lý tính của mình để phân biệt đâu là thiện, đâu là ác, đâu là đúng, đâu là sai chứ không nhờ cậy gì vào Thượng đế hay kinh điển hết, hoàn toàn căn cứ trên kinh nghiệm của mình.
Chúng ta nói rằng khổ đau đóng một vai trò nào đó để tạo nên hạnh phúc. Vì vậy mỗi người trong chúng ta cũng cần có một liều lượng khổ đau nào đó thì mới lớn lên được, mới có hạnh phúc. Nhưng liều lượng đó là bao nhiêu? Khôn g ai muốn có khổ đau nhiều hết. Và nếu theo đúng luật nhân quả, thì mỗi khi ai đó gặp khó khăn mình sẽnói: “Ráng chịu đi, ai bảo gây ra cái nhân đó, gieo gió thì gặt bão, tại sao tôi phải giúp chứ”. Nhưng một vị Bồ Tát không bao giờ nói và nghĩ như vậy, vị Bồ Tát luôn luôn muốn giúp những người đang lâm vào hoàn cảnh khổ đau. Bồ Tát có khuynh hướng muốn theo Công Ích Luận tức là cho rằng đời đã có quá nhiều đau khổ rồi, trừng phạt nhau làm chi cho khổ thêm. Ví dụ có một ông hàng xóm tính tình ích kỷ, không bao giờ chịu giúp đỡ ai điều gì. Hôm ấy ông ta bị hỏng xe và nhờ mình chở giúp tới cơ quan. Thường thì mình suy nghĩ cái kiểu Chủ Nghĩa Báo Ứng, mình nghĩ: cái ông này đáng ghét lắm, mặc xác ông ta, để ông ta đi làm muộn cho đáng đời. Nhưng theo chủ thuyết Công Ích Luận mình thấy người ta đang khổ mà bỏ mặc người ta thì tội nghiệp quá. Thôi giúp đỡ đi, trừng phạt làm chi, và mình nói: “Ok, lên đây tôi chở.” Mình không trừng phạt mà mở lòng từ bi để giúp đỡ. Nhiều khi không trừng phạt mà lại làm cho người ta thay đổi. Nhờ hành động bao dung của mình mà sau này người ta không còn ích kỷ nữa. Cái dễ thương của khuynh hướng này là mở rộng lòng từ bi tới cả những loài cầm thú, họ không thích việc lấy động vật để làm thí nghiệm gây đau đớn cho các loài động vật. Vì vậy chủ thuyết này rất là gần với đạo Bụt, chỉ thiếu yếu tố tương tức và bất nhị mà thôi. Trong các chủ thuyết về đạo đức học trên thế giới, chủ thuyết này có thể gọi là thành công nhất. Nếu nghiên cứu về đạo đức học Phật giáo thì quý vị nên tìm hiểu về chủ thuyết này, chủ thuyết này có nguồn gốc từ Anh.
Chủ trương của Công ích luận là hành động đó là chánh hay tà, thiện hay ác là do nó có mang lại lợi ích hay không. Vì đạo đức học phải đề cập tới cái chánh, cái tà, cái thiện, cái ác. Chánh, tà, thiện, ác không phải là do chính nó mà do kết quả của nó quyết định. Chúng ta hay phán xét cho hành động đó là đúng hay sai, chánh hay tà là do nó đưa tới khổ đau hay hạnh phúc. Theo chủ trương của phái Công ích luận, thì càng ít khổ đau, càng nhiều hạnh phúc càng tốt. Hành động nào đem tới sự giảm thiểu khổ đau và đem tới công ích, hạnh phúc nhiều thì hành động đó gọi là chánh, là thiện. Nhưng có những nhà đạo đức học chống đối lại khuynh hướng này, cho rằng chỉ có một nguyên tắc tối hậu thôi là nguyên tắc của sự lợi ích.
Trong đạo Bụt có chữ thiện và ác. Đạo Bụt định nghĩa chữ thiện là những điều gì có khả năng giúp đem tới giải thoát, giác ngộ, thảnh thơi, bớt khổ. Chủ trương của Công ích luận cũng nói tương tự như vậy. Tất cả những điều gì, những hành động nào đưa tới hạnh phúc, giảm thiểu khổ đau đều là chánh còn ngược lại là tà. Vì vậy trường phái này chủ trương là không nên dùng sự trừng phạt, không nên làm cho người ta khổ.
Theo chủ trương của Công ích luận thì bất cứ một cái gì đem lại khổ đau là không nên làm.
Vì vậy cho nên chủ thuyết này chống lại chuyện trừng phạt những người có tội, bắt người ta chịu tội thì đáng thương quá, có lòng từ bi ở trong đó, rất là dễ thương. Họ có chủ trương những nhà tù không phải là chỗ đền tội, chỗ làm cho người ta khổ thêm, mà nó phải là những trung tâm có những phương tiện để giúp cho những tù nhân có cơ hội được học tập cải hóa. Trong đó phải có thư viện, lớp học, trường học nghề… Những người cai tù được gọi bằng cái tên rất đẹp là nhân viên cải tạo và tù nhân gọi là người nội trú.
Có người phản đối điều này, họ nói rằng danh từ thì hay đấy nhưng kỳ thực nó vẫn là nhà tù như thường. Mà sự thực cũng có như vậy. Người ta thấy rằng tuy có nhiều người đi theo chủ thuyết công ích này và đã làm như vậy rồi, nhưng trong những nhà tù ở California vẫn không có tiến bộ gì, cách hành xử cũng vẫn giống hệt như nhà tù, không khác bao nhiêu, người ta vẫn khổ là tại sao? Đây là vấn đề mình phải đặt ra, ý thì rất hay nhưng làm lại không được. Theo tôi thì nguyên nhân là vì trong đó người ta chỉ làm với tính chất hình thức chứ không có nội dung, các nhân viên cải tạo chính họ cũng không biết cách thực tập để điều phục những khó khăn trong mình. Họ cũng có những giận hờn, bức xúc, những bạo động trong tâm, chính họ còn không biết cách chuyển hóa thì làm sao có thể giúp cho người khác chuyển hóa được?
Vì vậy, nếu quý vị đang làm trong ngành luật pháp, hay quý vị là những người thực tập đạo Bụt, thì quý vị phải nghiên cứu, quán chiếu đặt vấn đề tại sao những trại học tập cải tạo ở phương Tây và phương Đông đều đã và đang thất bại? Nếu các vị đó biết được pháp môn tu tập chuyển hoá thì họ có thể đề nghị ra những phương pháp cụ thể và hữu hiệu hơn để tạo ra những cơ hội cho những người lầm đường lạc nẻo có thể trở về. Nếu quý vị có cơ hội, có phương tiện thì hãy tiếp xúc với ngành tư pháp để tìm hiểu thêm, cống hiến cho họ những tuệ giác, những kinh nghiệm đứng về vấn đề cải hoá, cải tạo.
Vào khoảng thế kỷ thứ 18, sau Cách Mạng Pháp (Cách Mạng Pháp diễn ra vào năm 1789). Lúc ấy người ta rất muốn đi tìm một đường hướng đạo đức cho toàn cầu. Tổng thống Pháp Sarkozy có nói một câu làm tôi chú ý. Ông nói rằng: “Bây giờ chúng ta phải đưa môn đạo đức vào trường học, vì tuổi trẻ bây giờ đạo đức xuống cấp quá, tuổi trẻ bị bế tắc tâm linh, họ không có lối để đi”. Lúc đó cũng có một vài nhà trí thức người Pháp nói: “Ok! Dạy thì dạy, nhưng biết dạy cái gì bây giờ?” Ví dụ một tuần có một hoặc hai giờ đạo đức, nhưng biết dạy cái gì mới được chứ?
Tại Làng Mai chúng tôi có rất nhiều cái có thể đem chia sẻ với học sinh, sinh viên các trường từ tiểu học, trung học, tới đại học. Trước hết phải nói cho họ biết những khổ đau mà họ đang có. Tiếp theo là những phương pháp giúp họ có thể đối diện và chuyển hóa những khổ đau của mình. Những cái đó chính là đạo đức học. Vì vậy cho nên 5 giới, 14 giới đều có thể biến thành tư liệu để giảng dạy hết, mà những cái đó không cần mang màu sắc tôn giáo, không cần mang màu sắc Phật học, nó có thể được mang màu sắc phi tôn giáo.
Nếu trong số quý vị có ai làm trong ngành giáo dục xin hãy suy nghĩ về điều này. Quý vị có thể đề nghị với Bộ Giáo dục quốc gia làm thế nào để người trẻ có được một hướng đi lành mạnh về tinh thần. Tại vì trong mỗi người trẻ đều có sẵn hạt giống của đạo đức. Một nhà giáo dục có thể nhận diện được những yếu tố đẹp đẽ trong truyền thống đạo Bụt để hiến tặng vào con đường tâm linh cho tuổi trẻ. Quý vị có thể dùng con đường của Bụt, cái nhìn bất nhị, cái nhìn tương tức, và những giới pháp để làm việc này.
Hiện giờ các thầy, các sư cô trẻ ở Làng Mai đang thiết lập một phong trào dành cho thanh niên gọi là “Wake up” (tỉnh thức). Phong trào này được tuổi trẻ các nước đáp ứng lại một cách rất nồng nhiệt, tạo thành đoàn thể những người thanh niên, thiếu niên Phật tử sống và hoạt động cho một xã hội lành mạnh hơn, có nhiều từ bi hơn. Cố nhiên là chúng ta rất cần Năm Giới, chúng ta rất cần cái thấy về tương tức, cái thấy không kỳ thị, cái thấy bất nhị. Chúng ta cần phải có sự thực tập để chuyển hoá những kỳ thị, những lo lắng, sợ hãi, giận hờn, tuyệt vọng của chúng ta. Và người trẻ có thể thừa hưởng được những sự thực tập ấy. Nếu quý vị là phụ huynh, là những nhà giáo chức có thao thức đi tìm một con đường như vậy cho tuổi trẻ thì quý vị có thể bàn với các thầy, các sư cô Làng Mai. Quý vị cũng có thể trao đổi qua các trang nhà của Làng Mai.
Chủ nghĩa Công lợi hay Công ích này cũng đơn sơ thôi. Tức là trước hết phải nói ra được những cái gì mình muốn có ở trên đời. Ví dụ mình muốn có việc làm, có đủ cơm ăn, áo mặc, gia đình hòa thuận... Rồi tiếp đến là nói ra những cái gì mình thấy là hạnh phúc của người dân như: Công ăn việc làm, có tự do, có nhân quyền, hòa bình… Trước hết phải liệt kê ra những cái mà mình cho đó là hạnh phúc. Sau khi thiết lập được những cái mà mình cho rằng rất cần thiết cho nhân loại, thì lúc đó mới đi tìm hành động. Tất cả những hành động nào đưa tới cơm no áo ấm, có việc làm, có tự do, có nhân quyền, có sự bảo hộ đều là những hành động đúng và tốt.
Nhìn vào hậu quả, nhìn vào những công ích này mà mình biết rằng phải làm cái gì và không nên làm cái gì. Đó là đường hướng của Công ích luận và nó nằm ở trong hướng đi của Hậu quả luận. Giống như trong đạo Bụt, nó được gọi là sự thực thứ ba và sự thực thứ tư, tức diệt đế và đạo đế. Diệt ở đây có nghĩa là lạc, là hạnh phúc. Muốn có những hạnh phúc như vậy, muốn có hỷ, muốn có lạc, muốn có chuyển hoá, muốn có từ, muốn có bi thì phải làm gì? Câu trả lời là tất cả những cái gì diệt khổ, giúp chúng ta và những người xung quanh có được hạnh phúc thì đều là thiện, là phe chánh. Công ích luận cũng suy nghĩ giống như là Tứ diệu đế vậy. Nhưng Công Ích Luận không thấy được tính tương tức của hạnh phúc và khổ đau. Còn trong đạo Bụt chúng ta có cái nhìn bất nhị, chúng ta thấy được rằng khổ đau đóng góp một phần nào đó để tạo nên hạnh phúc. Và hạnh phúc bây giờ cũng có thể là khổ đau sau này. Ví dụ trong khi uống rượu, sử dụng ma túy thì thấy rất sung sướng, nhưng tới khi hết rượu, hết thuốc rồi mà mình lại lên cơn nghiện, lúc ấy mới thấy khổ thấm thía, chưa kể đến những căn bệnh hiểm nghèo sẽ mắc phải trong tương lai như: ung thư gan, ung thư phổi, tại nạn giao thông, thậm chí có thể mắc bệnh AISD. Vì vậy cho nên hạnh phúc và đau khổ là những danh từ mà mỗi người hiểu một cách khác nhau, khó đồng ý lắm.
Trước hết, những cái gọi là cái hạnh phúc đó là những cái hạnh phúc nào? Và hạnh phúc đối với ai? Ví dụ như trong chúng ta, có người thấy rõ ràng rằng có công ăn việc làm là chuyện quan trọng nhất, còn tự do nhân quyền hay là chuyện môi trường không quan trọng, nên cái ưu tiên trước nhất của người ấy là công ăn việc làm. Có những người khác nói, công ăn việc làm không quan trọng, tình trạng hâm nóng địa cầu mới là nguy cơ, phải lo cho nó trước. Vậy nên khi nói tới cái gì là ưu tiên, thì cũng không ai đồng ý với ai hết.
Do đó, thiết lập nên những cái gọi là quan trọng cũng có khó khăn, phải có một người có đủ trí tuệ để thấy hết được tất cả những nhu yếu, những liên hệ giữa cái này với cái kia mới thiết lập ra được cái đó. Ví dụ như tổng thống Obama đang thiết lập một danh sách những chương trình cần làm để cho cuộc khủng hoảng kinh tế này được giải quyết: Làm thế nào để cho những ngân hàng đừng bị phá sản ? Làm thế nào để cho những công ty không sa thải công nhân? Làm thế nào để chấm dứt cuộc chiến tranh ở Afghanistan, ở Iraq càng sớm càng tốt? Làm thế nào để bớt sự căng thẳng giữa Mỹ với Nga, giữa Mỹ với Iran? Tất cả những cái đó được nêu ra như những điều cần phải ưu tiên được làm trước nhất. Khi đã xác định được những việc quan trọng cần phải làm thì bắt đầu đi tìm những phương pháp hành động để đạt được những cái đó. Và những hành động nào giúp chúng ta đạt tới cái đó đều là chính đáng, đều là tốt đẹp hết. Khuynh hướng đó gọi là Hậu Quả Luận.
Một trong những nguyên tắc của Công ích luận là làm thế nào để cho tất cả mọi người đều thấy rằng ai cũng có cơ hội như nhau chứ không phải chỉ lo đạt tới mục tiêu của mình mà làm hại người khác. Phải để ý tới hạnh phúc của người khác chứ không nên chỉ lo riêng cho hạnh phúc của mình. Vì vậy trong Công ích luận cũng có ý niệm về xả, tức là trong chủ thuyết này, công ích chung phải được đặt lên hàng đầu. Do đó cho nên mới có chữ công. Và ai có thể có được cái thấy thì người đó gọi là quan sát viên lý tưởng. Khi có một quan sát viên lý tưởng rồi thì chúng ta mới lập nên một cái danh sách về những gì thật sự cần được ưu tiên, tiếp đó chúng ta mới đoán định được những hành động nào cần phải làm, những hành động nào không nên làm để đi tới mục tiêu đó.
Nhưng trên thực tế, không thể nào có một quan sát viên lý tưởng như vậy. Trong đạo Bụt, ta nói rằng đức Như Lai có cái thấy sâu rộng, bao trùm hết nên ta nói đức Như Lai có thể là một quan sát viên lý tưởng. Và những lời dạy của Ngài gọi là thánh giáo, có thể giúp cho mình vững bước trên con đường đi. Hay là nếu chúng ta là người Cơ đốc giáo thì chúng ta nói Chúa Jesu là một người toàn năng, toàn trí, có cái thấy biết sâu rộng, vì vậy Ngài có thể soi đường chỉ lối cho mình. Cho nên những người theo Chúa Jesu hay theo Bụt thì có một phần căn cứ trên trí tuệ của mình, một phần căn cứ trên trí tụê của Thầy mình, tức là Thánh trí.
Trong đạo Bụt có nói tới hiện lượng, tức là trực giác, là cái thấy trực tiếp mà không cần phải lý luận, là công cụ để cho mình đạt tới sự thật. Và công cụ thứ hai là tỷ lượng. Tỷ tức là so sánh. Thấy đằng kia có khói lên thì mình biết chắc chắn là ở đấy có đám cháy. Nhờ so sánh và lý luận mà tìm được sự thật gọi là tỷ lượng. Nhưng ngoài hai công cụ đó ra mình còn có công cụ thứ ba gọi là thánh giáo lượng. Tức là chúng ta có thể nương vào tuệ giác của những bậc thầy lớn đã đạt tới những cái thấy rất thâm uyên, chúng ta có thể lợi dụng cái thấy của các vị, đó gọi là thánh giáo lượng. Là Phật tử chúng ta có thể nương vào cái thấy của Bụt, là người Thiên chúa giáo chúng ta có thể nương lời dạy của đức Kitô. Đó là ba phương tiện để đạt tới sự thật
Trước hết chúng ta phải sử dụng trí tuệ của chúng ta qua ba phương pháp đó để thiết lập ra chương trình. Phải nói rất rõ ràng chúng ta muốn cái gì, cái chúng ta muốn không phải cho riêng cá nhân mình mà là cho cả nhân loại. Khi chương trình đã được thiết lập rồi thì chúng ta mới biết rằng phải hành động như thế nào để đạt được kết quả đó. Nó cũng giống như đạo đế và diệt đế vậy. Trên thực tế thì những nhà Công ích luận này họ không tin vào Thượng đế, họ cũng chẳng tin vào thánh giáo luận, họ chỉ tin vào lý tính của con người thôi. Một điểm đặc biệt của Hậu quả Luận, Công ích luận là đặt Thượng đế và kinh điển sang một bên, chỉ sử dụng chính con mắt và lý tính của mình để phân biệt đâu là thiện, đâu là ác, đâu là đúng, đâu là sai chứ không nhờ cậy gì vào Thượng đế hay kinh điển hết, hoàn toàn căn cứ trên kinh nghiệm của mình.
Chúng ta nói rằng khổ đau đóng một vai trò nào đó để tạo nên hạnh phúc. Vì vậy mỗi người trong chúng ta cũng cần có một liều lượng khổ đau nào đó thì mới lớn lên được, mới có hạnh phúc. Nhưng liều lượng đó là bao nhiêu? Khôn g ai muốn có khổ đau nhiều hết. Và nếu theo đúng luật nhân quả, thì mỗi khi ai đó gặp khó khăn mình sẽnói: “Ráng chịu đi, ai bảo gây ra cái nhân đó, gieo gió thì gặt bão, tại sao tôi phải giúp chứ”. Nhưng một vị Bồ Tát không bao giờ nói và nghĩ như vậy, vị Bồ Tát luôn luôn muốn giúp những người đang lâm vào hoàn cảnh khổ đau. Bồ Tát có khuynh hướng muốn theo Công Ích Luận tức là cho rằng đời đã có quá nhiều đau khổ rồi, trừng phạt nhau làm chi cho khổ thêm. Ví dụ có một ông hàng xóm tính tình ích kỷ, không bao giờ chịu giúp đỡ ai điều gì. Hôm ấy ông ta bị hỏng xe và nhờ mình chở giúp tới cơ quan. Thường thì mình suy nghĩ cái kiểu Chủ Nghĩa Báo Ứng, mình nghĩ: cái ông này đáng ghét lắm, mặc xác ông ta, để ông ta đi làm muộn cho đáng đời. Nhưng theo chủ thuyết Công Ích Luận mình thấy người ta đang khổ mà bỏ mặc người ta thì tội nghiệp quá. Thôi giúp đỡ đi, trừng phạt làm chi, và mình nói: “Ok, lên đây tôi chở.” Mình không trừng phạt mà mở lòng từ bi để giúp đỡ. Nhiều khi không trừng phạt mà lại làm cho người ta thay đổi. Nhờ hành động bao dung của mình mà sau này người ta không còn ích kỷ nữa. Cái dễ thương của khuynh hướng này là mở rộng lòng từ bi tới cả những loài cầm thú, họ không thích việc lấy động vật để làm thí nghiệm gây đau đớn cho các loài động vật. Vì vậy chủ thuyết này rất là gần với đạo Bụt, chỉ thiếu yếu tố tương tức và bất nhị mà thôi. Trong các chủ thuyết về đạo đức học trên thế giới, chủ thuyết này có thể gọi là thành công nhất. Nếu nghiên cứu về đạo đức học Phật giáo thì quý vị nên tìm hiểu về chủ thuyết này, chủ thuyết này có nguồn gốc từ Anh.
Một số khuynh hướng đạo đức khác
Thuyết báo ứng: Khuynh hướng của các nhà đạo đức học theo trường phái Công ích luận là không nên trừng phạt, chỉ giúp cho họ cải tạo, để họ đừng làm như vậy nữa thôi. Trong khi đó thì có những nhà đạo đức học theo trường phái Thuyết Báo Ứng lại nói rằng phải để cho những người đó chịu khổ thì họ mới thấy được những việc làm mà họ đã gây ra, “Anh giết người thì anh phải đền mạng, anh đánh người ta, anh phải bị đánh lại”.
Họ đưa ra những lý do rất cụ thể. Thứ nhất, nếu một người gây ra tội ác mà không bị trừng phạt thì những nạn nhân và gia đình họ mang những nỗi khổ đau kéo dài, vì vậy phải trừng phạt để nỗi oan ức kia tan biến. Thứ hai là nếu không bị trừng phạt thì những người này sẽ tiếp tục gây ra những tàn hại trong tương lai. Thứ ba là phải trừng phạt để răn đe, cảnh cáo những người khác. Đó là những lý do khiến cho người ta bênh vực chủ thuyết báo ứng này. Chúng ta cũng có khuynh hướng như vậy. Chúng ta có khuynh hướng muốn đối xử với những người tốt khác hơn với những người xấu.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu: “Cúng dường cho một người tốt thì công đức lớn gấp 10 cúng dường cho một người ác. Cúng dường cho một bậc giác ngộ thì công đức lớn gấp 1000 lần cúng dường cho một người chưa giác ngộ”. Chúng ta cần phải quán chiều và đặt câu hỏi là tại sao lại có câu đó?
Mới đọc câu này lên ta thấy dường như ở đây không có tinh thần xả mà giống một sự đầu tư. Đây là vấn đề bố thí, bố thí là bố thí thôi, người ta đói khổ thì mình cứu giúp, đừng có tính toán rằng giúp cho người này thì có lợi nhiều hay có lợi ít, không nên so đo như vậy. Nhưng theo tinh thần của kinh Tứ Thập Nhị Chương, thì bố thí cũng là một loại đầu tư. Đầu tư ở đây không phải cho mình mà là đầu tư cho thế gian. Nếu mình cứu một người tốt thì người tốt đó sẽ giúp được nhiều người hiền khác. Còn khi mình cứu một người ác thì dù người ác cũng đau khổ như người tốt kia, nhưng người ác đó sẽ không tiếp tục công việc như mình là đi cứu người mà vẫn lại có thể tiếp tục đi làm các việc ác. Cho nên bố thí là một loại đầu tư, mà đầu tư thì phải thông minh. Mỗi bên đều có cái lý của mình.
Thành ra đạo đức học không phải là vấn đề đơn giản. Ta hãy thử quan sát tâm mình qua cách hành xử. Giả dụ ta có hai người hàng xóm, một người rất tốt bụng luôn sẵn lòng giúp đỡ ta và một người rất khó ưa, sống ích kỷ, hẹp hòi. Khi cả hai người tới mượn ta một món đồ gì đó thì ta rất dễ dàng cho người hành xóm tốt bụng mượn vì ta nghĩ rằng người ấy xứng đáng, còn người hàng xóm thứ hai thì ta chần chừ, hoặc dứt khoát không cho mượn, vì nghĩ rằng đây là cơ hội cho ông ta một bài học. Như vậy là ít nhiều trong tâm ta cũng đi theo chủ nghĩa Báo Ứng (Retributism). Cho nên khi nói tới giới luật thì mình biết rằng giới luật không phải là chuyện đơn giản. Tất cả những vấn đề này đều nằm trong nền tảng của giới luật. Vì vậy chúng ta đừng nên có thái độ cố chấp, sẵn sàng nghe để hiểu, để thay đổi là điều rất quan trọng.
Thuyết vị kỷ: Đây không phải là một thuyết xấu mà kỳ thực cũng có tuệ giác của nó. Những người theo thuyết này cho rằng phải lo cho bản thân mình trước, đó là điều căn bản. Họ cho rằng: mình chỉ có một đời thôi, nên phải làm sao cho đời sống của mình có hạnh phúc, tại sao lại đi làm chuyện xã hội làm chi. Lo cho hạnh phúc, an ninh của mình trước hết đó là chủ trương của Thuyết vị kỷ. Nếu nhìn cho sâu thì mình sẽ hiểu chữ kỷ này theo tinh thần vô ngã. Ví dụ như mình ăn gian bán lận là để thu lợi cho riêng mình, nhưng khi mình làm những việc như vậy thì không ai còn tin tưởng, không ai còn muốn quan hệ mua bán với mình nữa, mọi người sẽ ghét bỏ và xa lánh mình. Như thế là mình thất bại. Vì vậy, người vị kỷ là phải chân thật, làm ăn đứng đắn thì mới có lợi cho bản thân. Cái gì mà mình làm cho mình thật sự hạnh phúc thì cái đó cũng làm lợi cho người khác.
Chẳng hạn ta thở vào một hơi, ta chỉ lo thở vào cho mình thôi, ta không lo thở vào cho người kia. "Thở vào, tôi biết là tôi thở vào. Thở vào, tôi buông thư những căng thẳng trong thân thể của tôi". Ta làm điều đó là hoàn toàn cho mình thôi. Nhưng nếu ta thành công là ta buông thư được, ta không còn cáu gắt hay khó chịu nữa mà lại có an lạc, hạnh phúc thì lúc ấy người khác cũng được hưởng sự tươi mát từ ta. Như vậy thì tất nhiên là hơn khi ta căng thẳng, nóng nảy và vung vãi ra năng lượng tiêu cực khiến những người xung quanh ta lãnh đủ. Vì vậy cho nên điều ích lợi cho ta không hẳn là chuyện xấu nếu đích thực đó là sự ích lợi. Ta đi thiền hành giống như là đi cho mình vậy. Ích kỷ, chỉ đi thiền hành cho mình thôi. Nhưng trong khi đi thiền hành có an lạc, hạnh phúc thì những người khác cũng được nhờ, thế gian cũng được nhờ.
Do đó, quan điểm cho rằng những người tu theo pháp tiểu thừa, chỉ biết lo giải thoát, giác ngộ của bản thân là chưa thấy được sự thật. Khi một người lo tu tập cho sự giải thoát, giác ngộ của mình thì họ cũng đang giúp chúng ta rất là nhiều. Nếu tu theo tiểu thừa cho thật đúng thì đó là đại thừa rồi. Nếu mà tu theo đại thừa cho thật đúng, biết lo cho bản thân mình rất đàng hoàng thì cũng là tiểu thừa. Vì vậy ranh giới giữa đại thừa và tiểu thừa cần phải phá bỏ.
Cho nên Chủ nghĩa vị kỷ (Ethical egoism) tưởng như là xấu nhưng đi sâu vào ta thấy có tuệ giác ở trong đó. Những cái gì thật sự đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình sẽ không bao giờ có hại cho người khác hết nếu đó đúng là hạnh phúc. Vậy nên phải định nghĩa rõ ràng thế nào là hạnh phúc. Đứng về phương diện công ích người ta có thể nói hạnh phúc trước tiên là phải có cơm áo, tự do và công bình xã hội. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu người đầy đủ cơm áo mà vẫn khổ, vẫn tự tử. Với những người đó họ thấy rằng tình thương yêu, sự hiểu biết quan trọng hơn là cơm áo. Lòng bao dung cũng rất quan trọng, nếu thiếu bao dung thì sẽ có chiến tranh, có bom rơi đạn nổ. Sống bên nhau mà biết cảm thông, thương yêu thì vấn đề cơm áo sẽ ít gây ra bức xúc nữa.
Đứng về phương diện công ích, mỗi người đều có một sự lựa chọn, do nhu yếu của mỗi người mà có những cái được ưu tiên hơn, và mình biết rằng cái này có liên quan tới những cái khác. Trong đạo Bụt, chúng ta thấy rất rõ cái mình cần nhất không hẳn là cơm áo, chỗ ở hay là quyền tự do ngôn luận. Cái mình cần nhất là sự bình an trong tâm hồn, là khả năng hiểu biết và thương yêu. Có những cái đó rồi thì vấn đề cơm áo trở nên dễ dàng. Cho nên câu nói trong dân gian "Có thực mới vực được đạo" chưa chắc đã đúng. Khi đi tu, trở thành một hành giả, thì vấn đề của mình không phải là đi tìm cơm áo, đi tìm tự do ngôn luận, hay bình đẳng xã hội, mà mình đi tìm cái hiểu và cái thương, mình phải chế tác được cái hiểu và cái thương ở trong trái tim của mình. Mình biết rằng khi đóng góp được nhiều hiểu và thương thì các vấn đề khác sẽ trở thành dễ dàng hơn. Thành ra đối với mình, cái ưu tiên phải là cái hiểu, cái thương, cái bao dung tha thứ.
Thuyết vị kỷ cũng vậy. Mình muốn cho mình hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đích thực là gì? Có phải chỉ là cơm no áo ấm không hay mình cũng cần tình thương nhất? Vì vậy mình phải biết chế tác ra tình thương và ban phát tình thương, làm được như vậy thì hạnh phúc mới chân thật. Bởi vì nếu mình giận hờn thì chính mình là người đau khổ đầu tiên, dù mình có nhiều tiền bạc hay địa vị thì mình vẫn khổ như thường. Nhưng khi đã trút bỏ được lòng sân hận thì dù bụng đang đói mình cũng không thấy khổ vì lúc ấy trái tim mình rất rộng mở.
Người tu cũng là một người vị kỷ, người đi tìm hạnh phúc cho mình. Người tu dành ra rất nhiều thời gian để làm cho tâm của mình ngày càng cởi mở, nhẹ nhàng; để khả năng bao dung, thương yêu ngày càng lớn rộng. Lúc ấy mình có thể mỉm cười được, mình thấy khỏe nhẹ trong người và nhờ vậy mà thế gian cũng được thừa hưởng. Cho nên thuyết vị kỷ không hẳn là xấu.
Thuyết vị tha: Trái với vị kỷ là Thuyết vị tha (Ethical altruism), với chủ trương là đừng nên lo cho mình, chỉ lo cho người khác thôi. Mình là con số không, không quan trọng, để lo cho người khác. Có những người như vậy, suốt đời chỉ làm việc cho những người khác. Khi bảo họ lo cho bản thân thì có thể là họ không thấy vui, nhưng khi bảo họ lo cho những người khác, thì trái tim từ bi trong họ ngập tràn hạnh phúc. Vì vậy, ranh giới giữa mình và người không còn nữa. Và rõ ràng rằng, tuy là hai thuyết này chống trái nhau như là mặt trời với mặt trăng song nó cũng rất giống nhau. Khi đem ánh sáng đạo Bụt để soi chiếu vào thì thấy rằng cả hai danh từ này cũng đang còn bị kẹt trong ý niệm ngã, vẫn còn có mình (kỷ), vẫn còn có người (tha). Trong đạo Bụt ta thấy rằng khi nhìn vào mình thì thấy người, nhìn vào người thì thấy mình, nhìn vào con thấy cha, và nhìn vào cha thấy con. Đó là vô ngã. Trong ánh sáng của vô ngã thì chủ thuyết vị kỷ, chủ thuyết vị tha cũng đều giống nhau. Nó chỉ là vấn đề danh từ mà thôi.
Cũng như chủ thuyết Công ích luận, hai chủ thuyết vị kỷ và vị tha này cũng đồng ý là tất cả những hành động nào của mình đưa tới hạnh phúc cho mình, giảm thiểu những khổ đau của mình, hoặc đưa tới những hạnh phúc cho người, giảm thiểu những khổ đau của người thì hành động đó đều là hành động chân chánh, là thiện. Đó là những chủ trương thuộc về khuynh hướng Hậu quả luận. Người ta nói rằng Hậu quả luận có những điểm yếu kém ở chỗ nó không cho người ta biết hành động nào của bản thân là thiện, hành động nào của bản thân là ác. Như vậy sẽ không định nghĩa được thiện và ác. Bởi chỉ nhắm tới hậu quả thôi, mà hành động đưa tới hậu quả đó lại không thể nào quyết định được, đó là điểm yếu của Hậu quả luận.
Khuynh hướng Đạo Nghĩa Luận: Cho nên mới có khuynh hướng ngược lại gọi là Đạo nghĩa luận (Deontology). Tức là có những nguyên tắc đạo đức chính nó là thiện, là tốt, hậu quả không cần biết tới. Thí dụ như việc không giết người, chính nó là hành động tốt, là thiện, không cần biết cái kết quả như thế nào. Có những điều mình không được làm, dầu làm có được cái gì đi nữa thì cũng không được làm. Cũng giống như là triết học Đức, Emanuel Kant, theo ông là không được nói dối, chỉ được phép nói sự thật. Đó là một hành động đạo đức, còn kết quả của nó thì không cần xét tới, dù nói dối để cứu người cũng không được.
Theo khuynh hướng này thì những điều gì gọi là đạo nghĩa thì mình phải làm, kết quả của nó như thế nào mặc nó. Ví dụ như trong chuyện giết người, thì không được giết người, đó là đạo nghĩa. Nên chuyện giết người là không thể được, dù giết người có thể làm cho người đó bớt khổ. Có một nhà khoa học tên là E.W. Caldwell, ông ta nghiên cứu về tia X quang trong 30 năm. Vì hồi đó không có kinh nghiệm nên tia X quang đã làm hại cơ thể của ông. Rút cuộc ông lâm bệnh rất nặng. Các bác sĩ nói ông có thể sống được thêm ba tháng nữa, nhưng cơ thể đau đớn làm ông khổ sở quá. Ông yêu cầu ba người anh em của mình tới làm sao giúp ông chết càng mau càng tốt. Hai người anh lớn nhất định không làm chuyện đó, họ không muốn giết em mình dù em mình năn nỉ, cầu xin. Nhưng người em thứ ba thì thấy thương anh quá. Bữa đó người em thứ ba đi vào nhà thương cầm súng bắn một loạt năm sáu phát đạn và nhà khoa học kia chết. Đó là thương mà giết, hành động ấy xuất phát từ lòng từ bi. Cố nhiên là theo luật pháp thì giết người là phải đi tù, và người em đó phải ra toà, xong toà cũng thương tình nên phạt nhẹ thôi.
Hiện bây giờ bên Mỹ có một vụ về một phụ nữ 38 tuổi, đã nằm hôn mê 18 năm rồi, và người ta phải đưa thức ăn nuôi cô bằng ống dẫn đi thẳng vào máu. Gia đình cô rất muốn cô chết để cho cô bớt khổ và để cho gia đình cũng bớt khổ nhưng luật pháp không cho phép điều đó, dù là chết không đau đớn. Hiện nay trên thế giới chỉ có ba nước cho phép mình có quyền lựa chọn cái chết, là nước Hoà Lan, Bỉ, và Colombia. Còn ngoài ra mình chỉ có quyền sống thôi. Đó là ảnh hưởng của nhà thờ. Nếu bác sĩ giúp cho mình chết thì bác sĩ sẽ bị ở tù.
Bên Ý hiện giờ cũng có một cô 38 tuổi, cũng đã 18 năm đã sống trong tình trạng đau đớn khôn cùng vì bệnh tật. Cô rất muốn chết, ba của cô cũng muốn cho con gái mình chết đi để khỏi phải chịu đựng những cơn đau đớn như vậy, nhưng luật pháp nước này cũng không cho. Sau nhiều cuộc vận động thì Toà Thượng thẩm cho phép. Cha cô mừng quá, về rút ống dẫn ra thì mấy ngày sau người con gái được chết.
Nhưng chính quyền các nước với sự hợp tác của tòa Thánh đang tìm cách để đưa ra những đạo luật cấm cản việc này. Vì vậy nên có những căng thẳng giữa toà án, giữa ngành tư pháp với ngành hành pháp và nhà thờ. Đây là vấn đề lớn của đạo đức học. Bởi những nhà Đạo nghĩa học quá cứng ngắc, không cần nghĩ tới hậu quả. Khổ thì khổ nhưng cũng không được làm gì hết, dầu cho nhân danh tình thương cũng không được làm. Khi một người mẹ đang mang thai, biết rằng cái thai của mình mang bệnh, nếu sinh ra thì nó sẽ khổ, hoặc sinh ra vài ngày thì nó sẽ chết nhưng lại không có quyền phá thai, bởi vì luật là như vậy, giáo lý của nhà thờ là như vậy, rất là cứng ngắc. Đó là thuộc về khuynh hướng Đạo nghĩa luận.
Đạo Bụt không cứng ngắc như vậy. Trong đạo Bụt có phương tiện Khai và Giá. Khai là mở ra, Giá là ngăn lại. Tổng thống Truman bỏ một trái bom nguyên tử xuống thành phố Hirosima. Trong vòng mấy phút thì 140 000 người chết, ngoài ra còn hàng trăm ngàn người bị nhiễm phóng xạ nguyên tử, rồi bị bệnh mà chết từ từ. Mấy ngày sau đó lại bỏ thêm một trái bom thứ hai nữa ở Nagasaki làm 70.000 người chết nữa. Hiện bây giờ người ta vẫn còn đàm luận rằng hành động bỏ bom như vậy trên Nhật Bản là đúng hay sai, là thiện hay ác. Theo những nhà chính trị thì bỏ bom như vậy là tốt. Vì nhờ bỏ 2 trái bom nguyên tử mà đệ nhị thế chiến được chấm dứt. Nếu mấy trăm ngàn người đó không chết thì có thể là cuộc chiến tranh kéo dài hơn và có thể là còn nhiều người chết hơn nữa. Đó là lý luận của họ.
Khuynh hướng Hậu Quả Luận: Hậu quả luận là một danh từ do nhà nữ triết học nổi tiếng người Anh là Elisabeth Anscombe đặt ra. Bà chính là người cùng với các sinh viên quỳ xuống cầu nguyện phản đối chuyện tổng thống Truman qua nước Anh và được trường Đại học Oxford trao danh hiệu tiến sĩ danh dự vì đã bỏ hai quả bom xuống đất nước Nhật Bản để chấm dứt chiến tranh.
Hậu quả luận nói rằng: Mình làm gì cũng được miễn sao hành động đó đem lại hạnh phúc thì là hành động tốt. Tức là nhìn vào kết quả và mình có thể thấy được nguyên nhân. Nếu kết quả tốt tức là nguyên nhân cũng tốt, nghĩa là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Ví dụ như nói, có hoà bình là hậu quả tốt, nên khi bỏ hai trái bom làm 210.000 người chết ngay tại chỗ và nhiều ngàn người mắc bệnh chết dần trong nhiều năm cũng là chuyện đúng (?). Đây là khuynh hướng mang màu sắc của Hậu quả luận. Chúng ta thấy có cái gì bất an, trăn trở khi lý luận như vậy. Chẳng hạn có một người đam mê cờ bạc, muốn mượn tiền của người ta để tiếp tục nướng vào sòng bạc, nhưng nếu nói thật ra thì ai người ta cho mượn, cho nên muốn đạt được kết quả tốt là mượn được tiền thì phải nói dối: “Xin chị thương em, cho em mượn một ít tiền, vợ em bị bệnh, các con em đang thiếu ăn, em sẽ ráng trả lại sớm cho chị. Chị cứ yên tâm”. Cho nên thuyết Hậu quả luận này cũng nguy lắm.
Khuynh hướng Đức Hạnh Luận: Có một khuynh hướng nữa gọi là Đức hạnh luận (Virtue ethics), cho rằng những đức tánh như là từ, bi, hỷ, xả chính nó là đạo đức rồi, không cần phải biết kết quả như thế nào, hễ từ là tốt, bi là tốt, hỷ là tốt, xả là tốt, nhân ái là tốt. Có những đức tánh tốt đẹp, làm người thì mình nên nuôi những đức tánh đó, dù là kết quả gì, hậu quả gì không cần biết. Khuynh hướng này có rất nhiều sự thật trong đó. Ví dụ như mình nuôi dưỡng lòng từ bi thì kết quả bên ngoài như thế nào mình chưa biết nhưng trước hết có lòng từ bi rồi thì mình khổ rất ít. Ngược lại, khi có sự giận hờn, căm thù trong lòng thì mình khổ đau rất nhiều. Cho nên mình có thể thấy được hậu quả của lòng từ bi ngay khi lòng từ bi được phát khởi. Khi trái tim mình ứa ra được một giọt nước từ bi thì giống như là nước cam lộ, mình thấy lòng nhẹ xuống, bớt khổ.
Trên hình thức giống như có sự chống đối giữa hai khuynh hướng Đức Hạnh Luận với Hậu Quả Luận, nhưng trong nội dung thì không thấy điều đó. Trong Khổng giáo có ý niệm gọi là nhân. Đạo Khổng không nói đến từ bi nhưng lại nói đến nhân. Trong sách Luận ngữ, Đức Khổng Tử có trả lời các môn đệ của Ngài về vấn đề nhân. Có một lần Ngài định nghĩa nhân là: “Kỷ dục lập như lập nhân. Kỷ dục đạt như đạt nhân”, nghĩa là khi mình đứng dậy, tự lập được rồi, thì mình giúp cho người khác cũng đứng dậy và tự lập được. Mình muốn thành đạt và mình cũng muốn người khác thành đạt như mình. Theo đức Khổng Tử, chữ nhân gồm có năm yếu tố :
Họ đưa ra những lý do rất cụ thể. Thứ nhất, nếu một người gây ra tội ác mà không bị trừng phạt thì những nạn nhân và gia đình họ mang những nỗi khổ đau kéo dài, vì vậy phải trừng phạt để nỗi oan ức kia tan biến. Thứ hai là nếu không bị trừng phạt thì những người này sẽ tiếp tục gây ra những tàn hại trong tương lai. Thứ ba là phải trừng phạt để răn đe, cảnh cáo những người khác. Đó là những lý do khiến cho người ta bênh vực chủ thuyết báo ứng này. Chúng ta cũng có khuynh hướng như vậy. Chúng ta có khuynh hướng muốn đối xử với những người tốt khác hơn với những người xấu.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu: “Cúng dường cho một người tốt thì công đức lớn gấp 10 cúng dường cho một người ác. Cúng dường cho một bậc giác ngộ thì công đức lớn gấp 1000 lần cúng dường cho một người chưa giác ngộ”. Chúng ta cần phải quán chiều và đặt câu hỏi là tại sao lại có câu đó?
Mới đọc câu này lên ta thấy dường như ở đây không có tinh thần xả mà giống một sự đầu tư. Đây là vấn đề bố thí, bố thí là bố thí thôi, người ta đói khổ thì mình cứu giúp, đừng có tính toán rằng giúp cho người này thì có lợi nhiều hay có lợi ít, không nên so đo như vậy. Nhưng theo tinh thần của kinh Tứ Thập Nhị Chương, thì bố thí cũng là một loại đầu tư. Đầu tư ở đây không phải cho mình mà là đầu tư cho thế gian. Nếu mình cứu một người tốt thì người tốt đó sẽ giúp được nhiều người hiền khác. Còn khi mình cứu một người ác thì dù người ác cũng đau khổ như người tốt kia, nhưng người ác đó sẽ không tiếp tục công việc như mình là đi cứu người mà vẫn lại có thể tiếp tục đi làm các việc ác. Cho nên bố thí là một loại đầu tư, mà đầu tư thì phải thông minh. Mỗi bên đều có cái lý của mình.
Thành ra đạo đức học không phải là vấn đề đơn giản. Ta hãy thử quan sát tâm mình qua cách hành xử. Giả dụ ta có hai người hàng xóm, một người rất tốt bụng luôn sẵn lòng giúp đỡ ta và một người rất khó ưa, sống ích kỷ, hẹp hòi. Khi cả hai người tới mượn ta một món đồ gì đó thì ta rất dễ dàng cho người hành xóm tốt bụng mượn vì ta nghĩ rằng người ấy xứng đáng, còn người hàng xóm thứ hai thì ta chần chừ, hoặc dứt khoát không cho mượn, vì nghĩ rằng đây là cơ hội cho ông ta một bài học. Như vậy là ít nhiều trong tâm ta cũng đi theo chủ nghĩa Báo Ứng (Retributism). Cho nên khi nói tới giới luật thì mình biết rằng giới luật không phải là chuyện đơn giản. Tất cả những vấn đề này đều nằm trong nền tảng của giới luật. Vì vậy chúng ta đừng nên có thái độ cố chấp, sẵn sàng nghe để hiểu, để thay đổi là điều rất quan trọng.
Thuyết vị kỷ: Đây không phải là một thuyết xấu mà kỳ thực cũng có tuệ giác của nó. Những người theo thuyết này cho rằng phải lo cho bản thân mình trước, đó là điều căn bản. Họ cho rằng: mình chỉ có một đời thôi, nên phải làm sao cho đời sống của mình có hạnh phúc, tại sao lại đi làm chuyện xã hội làm chi. Lo cho hạnh phúc, an ninh của mình trước hết đó là chủ trương của Thuyết vị kỷ. Nếu nhìn cho sâu thì mình sẽ hiểu chữ kỷ này theo tinh thần vô ngã. Ví dụ như mình ăn gian bán lận là để thu lợi cho riêng mình, nhưng khi mình làm những việc như vậy thì không ai còn tin tưởng, không ai còn muốn quan hệ mua bán với mình nữa, mọi người sẽ ghét bỏ và xa lánh mình. Như thế là mình thất bại. Vì vậy, người vị kỷ là phải chân thật, làm ăn đứng đắn thì mới có lợi cho bản thân. Cái gì mà mình làm cho mình thật sự hạnh phúc thì cái đó cũng làm lợi cho người khác.
Chẳng hạn ta thở vào một hơi, ta chỉ lo thở vào cho mình thôi, ta không lo thở vào cho người kia. "Thở vào, tôi biết là tôi thở vào. Thở vào, tôi buông thư những căng thẳng trong thân thể của tôi". Ta làm điều đó là hoàn toàn cho mình thôi. Nhưng nếu ta thành công là ta buông thư được, ta không còn cáu gắt hay khó chịu nữa mà lại có an lạc, hạnh phúc thì lúc ấy người khác cũng được hưởng sự tươi mát từ ta. Như vậy thì tất nhiên là hơn khi ta căng thẳng, nóng nảy và vung vãi ra năng lượng tiêu cực khiến những người xung quanh ta lãnh đủ. Vì vậy cho nên điều ích lợi cho ta không hẳn là chuyện xấu nếu đích thực đó là sự ích lợi. Ta đi thiền hành giống như là đi cho mình vậy. Ích kỷ, chỉ đi thiền hành cho mình thôi. Nhưng trong khi đi thiền hành có an lạc, hạnh phúc thì những người khác cũng được nhờ, thế gian cũng được nhờ.
Do đó, quan điểm cho rằng những người tu theo pháp tiểu thừa, chỉ biết lo giải thoát, giác ngộ của bản thân là chưa thấy được sự thật. Khi một người lo tu tập cho sự giải thoát, giác ngộ của mình thì họ cũng đang giúp chúng ta rất là nhiều. Nếu tu theo tiểu thừa cho thật đúng thì đó là đại thừa rồi. Nếu mà tu theo đại thừa cho thật đúng, biết lo cho bản thân mình rất đàng hoàng thì cũng là tiểu thừa. Vì vậy ranh giới giữa đại thừa và tiểu thừa cần phải phá bỏ.
Cho nên Chủ nghĩa vị kỷ (Ethical egoism) tưởng như là xấu nhưng đi sâu vào ta thấy có tuệ giác ở trong đó. Những cái gì thật sự đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình sẽ không bao giờ có hại cho người khác hết nếu đó đúng là hạnh phúc. Vậy nên phải định nghĩa rõ ràng thế nào là hạnh phúc. Đứng về phương diện công ích người ta có thể nói hạnh phúc trước tiên là phải có cơm áo, tự do và công bình xã hội. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu người đầy đủ cơm áo mà vẫn khổ, vẫn tự tử. Với những người đó họ thấy rằng tình thương yêu, sự hiểu biết quan trọng hơn là cơm áo. Lòng bao dung cũng rất quan trọng, nếu thiếu bao dung thì sẽ có chiến tranh, có bom rơi đạn nổ. Sống bên nhau mà biết cảm thông, thương yêu thì vấn đề cơm áo sẽ ít gây ra bức xúc nữa.
Đứng về phương diện công ích, mỗi người đều có một sự lựa chọn, do nhu yếu của mỗi người mà có những cái được ưu tiên hơn, và mình biết rằng cái này có liên quan tới những cái khác. Trong đạo Bụt, chúng ta thấy rất rõ cái mình cần nhất không hẳn là cơm áo, chỗ ở hay là quyền tự do ngôn luận. Cái mình cần nhất là sự bình an trong tâm hồn, là khả năng hiểu biết và thương yêu. Có những cái đó rồi thì vấn đề cơm áo trở nên dễ dàng. Cho nên câu nói trong dân gian "Có thực mới vực được đạo" chưa chắc đã đúng. Khi đi tu, trở thành một hành giả, thì vấn đề của mình không phải là đi tìm cơm áo, đi tìm tự do ngôn luận, hay bình đẳng xã hội, mà mình đi tìm cái hiểu và cái thương, mình phải chế tác được cái hiểu và cái thương ở trong trái tim của mình. Mình biết rằng khi đóng góp được nhiều hiểu và thương thì các vấn đề khác sẽ trở thành dễ dàng hơn. Thành ra đối với mình, cái ưu tiên phải là cái hiểu, cái thương, cái bao dung tha thứ.
Thuyết vị kỷ cũng vậy. Mình muốn cho mình hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đích thực là gì? Có phải chỉ là cơm no áo ấm không hay mình cũng cần tình thương nhất? Vì vậy mình phải biết chế tác ra tình thương và ban phát tình thương, làm được như vậy thì hạnh phúc mới chân thật. Bởi vì nếu mình giận hờn thì chính mình là người đau khổ đầu tiên, dù mình có nhiều tiền bạc hay địa vị thì mình vẫn khổ như thường. Nhưng khi đã trút bỏ được lòng sân hận thì dù bụng đang đói mình cũng không thấy khổ vì lúc ấy trái tim mình rất rộng mở.
Người tu cũng là một người vị kỷ, người đi tìm hạnh phúc cho mình. Người tu dành ra rất nhiều thời gian để làm cho tâm của mình ngày càng cởi mở, nhẹ nhàng; để khả năng bao dung, thương yêu ngày càng lớn rộng. Lúc ấy mình có thể mỉm cười được, mình thấy khỏe nhẹ trong người và nhờ vậy mà thế gian cũng được thừa hưởng. Cho nên thuyết vị kỷ không hẳn là xấu.
Thuyết vị tha: Trái với vị kỷ là Thuyết vị tha (Ethical altruism), với chủ trương là đừng nên lo cho mình, chỉ lo cho người khác thôi. Mình là con số không, không quan trọng, để lo cho người khác. Có những người như vậy, suốt đời chỉ làm việc cho những người khác. Khi bảo họ lo cho bản thân thì có thể là họ không thấy vui, nhưng khi bảo họ lo cho những người khác, thì trái tim từ bi trong họ ngập tràn hạnh phúc. Vì vậy, ranh giới giữa mình và người không còn nữa. Và rõ ràng rằng, tuy là hai thuyết này chống trái nhau như là mặt trời với mặt trăng song nó cũng rất giống nhau. Khi đem ánh sáng đạo Bụt để soi chiếu vào thì thấy rằng cả hai danh từ này cũng đang còn bị kẹt trong ý niệm ngã, vẫn còn có mình (kỷ), vẫn còn có người (tha). Trong đạo Bụt ta thấy rằng khi nhìn vào mình thì thấy người, nhìn vào người thì thấy mình, nhìn vào con thấy cha, và nhìn vào cha thấy con. Đó là vô ngã. Trong ánh sáng của vô ngã thì chủ thuyết vị kỷ, chủ thuyết vị tha cũng đều giống nhau. Nó chỉ là vấn đề danh từ mà thôi.
Cũng như chủ thuyết Công ích luận, hai chủ thuyết vị kỷ và vị tha này cũng đồng ý là tất cả những hành động nào của mình đưa tới hạnh phúc cho mình, giảm thiểu những khổ đau của mình, hoặc đưa tới những hạnh phúc cho người, giảm thiểu những khổ đau của người thì hành động đó đều là hành động chân chánh, là thiện. Đó là những chủ trương thuộc về khuynh hướng Hậu quả luận. Người ta nói rằng Hậu quả luận có những điểm yếu kém ở chỗ nó không cho người ta biết hành động nào của bản thân là thiện, hành động nào của bản thân là ác. Như vậy sẽ không định nghĩa được thiện và ác. Bởi chỉ nhắm tới hậu quả thôi, mà hành động đưa tới hậu quả đó lại không thể nào quyết định được, đó là điểm yếu của Hậu quả luận.
Khuynh hướng Đạo Nghĩa Luận: Cho nên mới có khuynh hướng ngược lại gọi là Đạo nghĩa luận (Deontology). Tức là có những nguyên tắc đạo đức chính nó là thiện, là tốt, hậu quả không cần biết tới. Thí dụ như việc không giết người, chính nó là hành động tốt, là thiện, không cần biết cái kết quả như thế nào. Có những điều mình không được làm, dầu làm có được cái gì đi nữa thì cũng không được làm. Cũng giống như là triết học Đức, Emanuel Kant, theo ông là không được nói dối, chỉ được phép nói sự thật. Đó là một hành động đạo đức, còn kết quả của nó thì không cần xét tới, dù nói dối để cứu người cũng không được.
Theo khuynh hướng này thì những điều gì gọi là đạo nghĩa thì mình phải làm, kết quả của nó như thế nào mặc nó. Ví dụ như trong chuyện giết người, thì không được giết người, đó là đạo nghĩa. Nên chuyện giết người là không thể được, dù giết người có thể làm cho người đó bớt khổ. Có một nhà khoa học tên là E.W. Caldwell, ông ta nghiên cứu về tia X quang trong 30 năm. Vì hồi đó không có kinh nghiệm nên tia X quang đã làm hại cơ thể của ông. Rút cuộc ông lâm bệnh rất nặng. Các bác sĩ nói ông có thể sống được thêm ba tháng nữa, nhưng cơ thể đau đớn làm ông khổ sở quá. Ông yêu cầu ba người anh em của mình tới làm sao giúp ông chết càng mau càng tốt. Hai người anh lớn nhất định không làm chuyện đó, họ không muốn giết em mình dù em mình năn nỉ, cầu xin. Nhưng người em thứ ba thì thấy thương anh quá. Bữa đó người em thứ ba đi vào nhà thương cầm súng bắn một loạt năm sáu phát đạn và nhà khoa học kia chết. Đó là thương mà giết, hành động ấy xuất phát từ lòng từ bi. Cố nhiên là theo luật pháp thì giết người là phải đi tù, và người em đó phải ra toà, xong toà cũng thương tình nên phạt nhẹ thôi.
Hiện bây giờ bên Mỹ có một vụ về một phụ nữ 38 tuổi, đã nằm hôn mê 18 năm rồi, và người ta phải đưa thức ăn nuôi cô bằng ống dẫn đi thẳng vào máu. Gia đình cô rất muốn cô chết để cho cô bớt khổ và để cho gia đình cũng bớt khổ nhưng luật pháp không cho phép điều đó, dù là chết không đau đớn. Hiện nay trên thế giới chỉ có ba nước cho phép mình có quyền lựa chọn cái chết, là nước Hoà Lan, Bỉ, và Colombia. Còn ngoài ra mình chỉ có quyền sống thôi. Đó là ảnh hưởng của nhà thờ. Nếu bác sĩ giúp cho mình chết thì bác sĩ sẽ bị ở tù.
Bên Ý hiện giờ cũng có một cô 38 tuổi, cũng đã 18 năm đã sống trong tình trạng đau đớn khôn cùng vì bệnh tật. Cô rất muốn chết, ba của cô cũng muốn cho con gái mình chết đi để khỏi phải chịu đựng những cơn đau đớn như vậy, nhưng luật pháp nước này cũng không cho. Sau nhiều cuộc vận động thì Toà Thượng thẩm cho phép. Cha cô mừng quá, về rút ống dẫn ra thì mấy ngày sau người con gái được chết.
Nhưng chính quyền các nước với sự hợp tác của tòa Thánh đang tìm cách để đưa ra những đạo luật cấm cản việc này. Vì vậy nên có những căng thẳng giữa toà án, giữa ngành tư pháp với ngành hành pháp và nhà thờ. Đây là vấn đề lớn của đạo đức học. Bởi những nhà Đạo nghĩa học quá cứng ngắc, không cần nghĩ tới hậu quả. Khổ thì khổ nhưng cũng không được làm gì hết, dầu cho nhân danh tình thương cũng không được làm. Khi một người mẹ đang mang thai, biết rằng cái thai của mình mang bệnh, nếu sinh ra thì nó sẽ khổ, hoặc sinh ra vài ngày thì nó sẽ chết nhưng lại không có quyền phá thai, bởi vì luật là như vậy, giáo lý của nhà thờ là như vậy, rất là cứng ngắc. Đó là thuộc về khuynh hướng Đạo nghĩa luận.
Đạo Bụt không cứng ngắc như vậy. Trong đạo Bụt có phương tiện Khai và Giá. Khai là mở ra, Giá là ngăn lại. Tổng thống Truman bỏ một trái bom nguyên tử xuống thành phố Hirosima. Trong vòng mấy phút thì 140 000 người chết, ngoài ra còn hàng trăm ngàn người bị nhiễm phóng xạ nguyên tử, rồi bị bệnh mà chết từ từ. Mấy ngày sau đó lại bỏ thêm một trái bom thứ hai nữa ở Nagasaki làm 70.000 người chết nữa. Hiện bây giờ người ta vẫn còn đàm luận rằng hành động bỏ bom như vậy trên Nhật Bản là đúng hay sai, là thiện hay ác. Theo những nhà chính trị thì bỏ bom như vậy là tốt. Vì nhờ bỏ 2 trái bom nguyên tử mà đệ nhị thế chiến được chấm dứt. Nếu mấy trăm ngàn người đó không chết thì có thể là cuộc chiến tranh kéo dài hơn và có thể là còn nhiều người chết hơn nữa. Đó là lý luận của họ.
Khuynh hướng Hậu Quả Luận: Hậu quả luận là một danh từ do nhà nữ triết học nổi tiếng người Anh là Elisabeth Anscombe đặt ra. Bà chính là người cùng với các sinh viên quỳ xuống cầu nguyện phản đối chuyện tổng thống Truman qua nước Anh và được trường Đại học Oxford trao danh hiệu tiến sĩ danh dự vì đã bỏ hai quả bom xuống đất nước Nhật Bản để chấm dứt chiến tranh.
Hậu quả luận nói rằng: Mình làm gì cũng được miễn sao hành động đó đem lại hạnh phúc thì là hành động tốt. Tức là nhìn vào kết quả và mình có thể thấy được nguyên nhân. Nếu kết quả tốt tức là nguyên nhân cũng tốt, nghĩa là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Ví dụ như nói, có hoà bình là hậu quả tốt, nên khi bỏ hai trái bom làm 210.000 người chết ngay tại chỗ và nhiều ngàn người mắc bệnh chết dần trong nhiều năm cũng là chuyện đúng (?). Đây là khuynh hướng mang màu sắc của Hậu quả luận. Chúng ta thấy có cái gì bất an, trăn trở khi lý luận như vậy. Chẳng hạn có một người đam mê cờ bạc, muốn mượn tiền của người ta để tiếp tục nướng vào sòng bạc, nhưng nếu nói thật ra thì ai người ta cho mượn, cho nên muốn đạt được kết quả tốt là mượn được tiền thì phải nói dối: “Xin chị thương em, cho em mượn một ít tiền, vợ em bị bệnh, các con em đang thiếu ăn, em sẽ ráng trả lại sớm cho chị. Chị cứ yên tâm”. Cho nên thuyết Hậu quả luận này cũng nguy lắm.
Khuynh hướng Đức Hạnh Luận: Có một khuynh hướng nữa gọi là Đức hạnh luận (Virtue ethics), cho rằng những đức tánh như là từ, bi, hỷ, xả chính nó là đạo đức rồi, không cần phải biết kết quả như thế nào, hễ từ là tốt, bi là tốt, hỷ là tốt, xả là tốt, nhân ái là tốt. Có những đức tánh tốt đẹp, làm người thì mình nên nuôi những đức tánh đó, dù là kết quả gì, hậu quả gì không cần biết. Khuynh hướng này có rất nhiều sự thật trong đó. Ví dụ như mình nuôi dưỡng lòng từ bi thì kết quả bên ngoài như thế nào mình chưa biết nhưng trước hết có lòng từ bi rồi thì mình khổ rất ít. Ngược lại, khi có sự giận hờn, căm thù trong lòng thì mình khổ đau rất nhiều. Cho nên mình có thể thấy được hậu quả của lòng từ bi ngay khi lòng từ bi được phát khởi. Khi trái tim mình ứa ra được một giọt nước từ bi thì giống như là nước cam lộ, mình thấy lòng nhẹ xuống, bớt khổ.
Trên hình thức giống như có sự chống đối giữa hai khuynh hướng Đức Hạnh Luận với Hậu Quả Luận, nhưng trong nội dung thì không thấy điều đó. Trong Khổng giáo có ý niệm gọi là nhân. Đạo Khổng không nói đến từ bi nhưng lại nói đến nhân. Trong sách Luận ngữ, Đức Khổng Tử có trả lời các môn đệ của Ngài về vấn đề nhân. Có một lần Ngài định nghĩa nhân là: “Kỷ dục lập như lập nhân. Kỷ dục đạt như đạt nhân”, nghĩa là khi mình đứng dậy, tự lập được rồi, thì mình giúp cho người khác cũng đứng dậy và tự lập được. Mình muốn thành đạt và mình cũng muốn người khác thành đạt như mình. Theo đức Khổng Tử, chữ nhân gồm có năm yếu tố :
- Thứ nhất là từ bi và khoan dung. Từ là hiến tặng hạnh phúc cho người, bi là làm vơi nỗi khổ của người, khoan là rộng rãi, bao dung.
- Thứ hai là sự cung kính. Phải biết cung kính mình, phải biết tự trọng, tiếp đến phải biết kính trọng người khác. Nếu không có lòng kính trọng thì không có nhân. Cung kính là một trong những yếu tố của nhân.
- Thứ ba là tín. Tín tức là phải thành thật, không nói dối
- Thứ tư là mẫn. Mẫn tức cần mẫn, tinh tấn.
- Thứ năm là huệ. Huệ là thi ân bố đức, tức là phân phát ân đức cho những người khác, giúp đỡ gia ơn cho người ta.
- Thứ hai là sự cung kính. Phải biết cung kính mình, phải biết tự trọng, tiếp đến phải biết kính trọng người khác. Nếu không có lòng kính trọng thì không có nhân. Cung kính là một trong những yếu tố của nhân.
- Thứ ba là tín. Tín tức là phải thành thật, không nói dối
- Thứ tư là mẫn. Mẫn tức cần mẫn, tinh tấn.
- Thứ năm là huệ. Huệ là thi ân bố đức, tức là phân phát ân đức cho những người khác, giúp đỡ gia ơn cho người ta.
Ngoài ra, có một nguyên tắc đạo đức của Khổng Tử mà trên thế giới bây giờ ai cũng biết đến là "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (Cái mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Ví dụ mình không muốn đau đớn thì đừng có làm cho người khác đau đớn. Mình không muốn tủi hổ thì đừng làm cho người khác tủi hổ. Mình không muốn bị đói thì đừng làm cho người khác đói. Đó là nguyên tắc đạo đức của Khổng giáo mà Tây phương bây giờ gọi là “The gold rules”, nguyên tắc vàng.
Nhưng trong ánh sáng của đạo Bụt ta phải hiểu rõ về chữ dục (muốn) này. Ví dụ như có một em bé bị bệnh phải uống thuốc, em bé không muốn uống thuốc, nhưng bà mẹ vẫn ép em bé uống vì biết rằng uống thuốc sẽ tốt cho em bé. Có nhiều người họ biết rằng giữ giới không uống rượu, không sử dụng ma túy, không tà dâm là tốt nhưng họ vẫn không muốn giữ giới. Thành ra vấn đề dục này là một cái cần phải xét lại. Mình đã hiểu câu này đến đâu rồi? Bất cứ một công thức nào, một lợi ích nào cũng chỉ có một giá trị tương đối nào đó thôi. Có Khai thì có Giá.
Thuyết mệnh lệnh của Thượng đế: Tuy là người sáng tạo ra danh từ Hậu quả luận, nhưng Elisabeth Anscombe lại chống cái khuynh hướng Hậu quả luận mà theo chủ thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế, nghĩa là những cái gì tốt, những cái gì lành là do Thượng Đế phán ra thì mình chỉ cần theo thôi, rất là khoẻ. Hậu quả luận là phải lý luận. Còn cái thuyết gọi là Mệnh lệnh của Thượng đế (God's command theory) thì rất dễ theo. Chúa nói như thế nào mình cứ làm theo như thế đó, khỏi phải tự quyết định làm chi cho mệt. Chúa nói tốt nghĩa là tốt, Chúa nói hay nghĩa là nó hay, mình chỉ đi theo thôi. Đó là quan điểm của thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế
Trong đạo Bụt cũng có một phần tương tự. Khi nghiên cứu về Tứ diệu đế, chúng ta thấy có sự thật thứ nhất là khổ, và sự thật thứ hai là tập, tức là những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Tập đế đưa tới khổ đế. Đây cũng là một loại Hậu quả luận. Nếu không muốn kết quả như thế này thì đừng làm như thế kia, không muốn gặt bão thì đừng gieo gió.
Diệu đế thứ ba là diệt, tức là khổ được chấm dứt, nó cũng có nghĩa là lạc, vì khổ đau bị tiêu diệt tức là an lạc có mặt. Và muốn diệt khổ đắc lạc phải có con đường tức là đạo. Vì vậy cho nên nếu muốn có lạc và diệt khổ thì phải đi theo đạo. Đây chính là cái nhân đưa tới cái quả, rất giống với Hậu quả luận. Bất cứ một cái gì có thể diệt được khổ, có thể đem lại an lạc là tốt. Bất cứ một cái gì mà mình không làm để tránh những hậu quả xấu thì là đúng. Mới nhìn qua ta thấy rằng Tứ diệu đế là một hình thái của Hậu quả luận, phải không? Gieo đậu thì được đậu, gieo cà thì được cà, cái đó là lý nhân quả thôi có gì đâu? Nó là một loại Hậu quả luận. Nhưng chúng ta đã đi sâu hơn để hiểu được Tứ diệu đế. Chúng ta đã nhìn Tứ diệu đế bằng con mắt tương tức. Thấy cái khổ và cái lạc liên hệ mật thiết với nhau. Không có khổ thì không có lạc. Vì vậy cho nên cái khổ đóng vai trò nào đó để chế tác ra cái lạc. Cũng như là sau những ngày mất điện, mất nước chúng ta đã reo mừng sung sướng khi có điện, có nước trở lại. Nên khi quán chiếu thì thấy rằng cái lạc được làm bằng những yếu tố không phải lạc, sen được làm bằng những yếu tố không phải là sen.
Trong đạo Bụt, đau khổ đóng một vai trò nhất định cho sự giải thoát. Và cái nhìn của đạo Bụt về đau khổ khác với cái nhìn về đau khổ của những truyền thống khác. Mình không nhìn đau khổ bằng con mắt hằn học, mình nhìn bằng con mắt tương tức. Đau khổ đôi khi rất cần thiết. Vì vậy cho nên mình nói là những cái lợi lạc của khổ đau.
Sự thật là mỗi chúng ta đều cần phải trải qua một chút ít khổ đau, một liều lượng khổ đau nhất định thì mới nên người được (tất nhiên là đừng có khổ đau quá). Vì vậy cho nên thái độ trốn tránh hoàn toàn khổ đau là không đúng. Phải tìm hạnh phúc từ trong khổ đau, tìm Niết bàn trong sinh tử, tìm Bụt trong chúng sinh. Bỏ chúng sinh để đi tìm Bụt thì chẳng bao giờ tìm được đâu. Vì vậy phải hiểu Tứ diệu đế trong ánh sáng tương tức, phải thấy là cái khổ đóng một vai trò quan trọng để tạo ra cái lạc. Vì thế mình không nhìn Tứ đế bằng con mắt phân biệt, kỳ thị mà nhìn bằng con mắt dung hợp, bất nhị, tương tức. Đây là một điều rất hay và cũng là điều khác biệt giữa đạo Bụt với các truyền thống khác.
Thuyết Luật tự nhiên: Trong Giáo hội Công giáo, thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế được coi là quan trọng, nhưng kỳ thực nó không quan trọng bằng thuyết Luật lệ của tự nhiên (Natural law). Tại vì thuyết Natural law là thuyết của người Hy Lạp tạo dựng ra cách đây những hơn 2000 năm.
Ngày xưa Aristotle là người khởi xướng ra lý thuyết này. Ông nói, bất kỳ cái gì ở trong vũ trụ cũng đều có một công dụng hết. Ví dụ trời sinh ra cái răng để nhai thức ăn, sinh ra cái lưỡi để nếm, sinh ra con mắt để nhìn. Họ nói rằng trong thế giới có những trật tự, có những giá trị, những mục đích. Ví dụ như mưa là để làm cho cây cối mọc lên. Mà cây cối mọc lên được để làm gì? Mục đích của cây cối là để cho trâu bò và các loài ăn. Cứ lý luận như vậy thì sẽ đi tới chỗ các loài trâu bò, thú vật ăn để làm gì? Để trở thành thực phẩm của con người. Vậy đó! Khi mới khai thiên lập địa thì làm gì có con người, nhưng đã có mưa, có cây cỏ và loài vật rồi, con người xuất hiện rất là muộn. Nhưng họ lý luận như vậy. Và người ta tiếp tục lý luận rằng, cái răng dùng để nhai thức ăn chứ không dùng vào việc khác. Tình dục là để tạo ra các em bé, vì vậy tình dục mà không với mục đích tạo ra các em bé là tình dục sai. Vì vậy Giáo hội Công giáo không chấp nhận tình dục của những người đồng tính. Và khi được hỏi thế con mắt dùng để làm gì thì các nhà triết học theo thuyết này trả lời, con mắt dùng để nhìn. Nhưng đâu phải con mắt chỉ dùng để nhìn. Con mắt có thể dùng để biểu lộ tình thương, hoặc sự không hài lòng. Vì vậy con mắt không phải chỉ để nhìn mà còn được sử dụng như một phương tiện truyền thông.
Có những nhà triết học chống lại chủ thuyết của Giáo hội vì chủ thuyết của Giáo hội qúa cứng ngắc. Cho nên mình phải trở thành một quan sát viên thực tế, phải quán chiếu, học hỏi thì mới biết hành động nào là đúng, hành động nào là sai. Nếu có được cái nhìn tương tức, cái thấy bất nhị thì mình sẽ mềm dẻo hơn nhiều.
Trong chủ trương của Giáo hội, ban đầu, theo mệnh lệnh của Thượng đế là không có quyền sát hại bất cứ một sinh mạng nào, không được nhân danh bất cứ một cái gì để có thể giết hại. Vì vậy cho nên chuyện phá thai kiểm soát sinh nở là chuyện rất cấm kỵ. Giáo hội cũng kịch liệt chống đối việc giúp người khác chết một cách nhẹ nhàng không đau đớn. Có những người nằm liệt trên giường, ngày đêm thân tâm đau đớn, những người ấy rất muốn được tiêm một liều thuốc để có thể ra đi một cách nhẹ nhàng nhưng Giáo hội không cho. Thế nhưng Giáo hội Công Giáo lại mở cửa cho phép án tử hình, và đồng ý cho người ta đi đánh giặc một cách rất là cứng rắn. Đó là những vấn đề rất lớn của đạo đức học.
Đạo đức học thuyết minh: Siêu đạo đức học là một môn triết học rất quan trọng hiện giờ, tại vì nó có thể làm nền tảng cho các ngành đạo đức học khác. Chúng ta có một ngành đạo đức học gọi là Đạo đức học thuyết minh hay Đạo đức học miêu tả (Descriptive ethics). Phận sự của ngành triết học này là miêu tả thôi, nghĩa là chỉ nhận xét, nghiên cứu và nói ra quan điểm về thiện ác, miêu tả về những nền đạo đức có mặt trong xã hội này, xã hội kia để cho chúng ta thấy được sự thật thôi chứ không khuyên răn người ta nên làm cái này hay không nên làm cái kia.
Ví dụ như nói về chế độ nô lệ ở Trung Quốc ngày xưa như thế nào, người ta làm đầy tớ ra sao? Ở Tây Phương người ta buôn bán nô lệ thế nào? Và ở thế kỷ nọ, thế kỷ kia người ta đối xử với những người nô lệ ra sao? Rồi qua những biến động xã hội, người ta thay đổi quan niệm và giải phóng cho những người nô lệ như thế nào? Đó là thuộc về phạm vi của đạo đức học miêu tả, Descriptive ethics. Rất là có lợi. Hoặc ví dụ như là diễn tả cách hành xử trong gia đình, cha mẹ với con cái, mẹ chồng với nàng dâu, cách thức cưới hỏi trong mỗi xã hội.v.v.. Tóm lại là họ nghiên cứu về tất cả các nền đạo đức trên thế giới và diễn tả lại cho người ta hiểu.
Đạo đức học quy định: Ngoài ra lại còn có thêm một ngành đạo đức nữa gọi là ngành Đạo đức học quy định (Prescriptive ethics). Ngành này đưa ra những đề nghị mình nên làm cái này thì mới có hạnh phúc, không nên làm cái kia để đừng bị đau khổ. Như bà bác sĩ kê cho bệnh nhân một toa thuốc rồi dặn, uống thuốc này thì phải kiêng không ăn đồ cay, đồ nóng thì mới nhanh lành bệnh. Đó gọi là prescriptive, tức là quy định, chỉ định. Mười Lời Răn của Chúa bên đạo Cơ Đốc cũng thuộc về đạo đức học quy định. Và Năm Giới của đạo Bụt cũng thuộc về Đạo đức học quy định. Chúng ta đã sử dụng danh từ gọi là Đạo đức học tiêu chuẩn (Normative ethics), mười giới bên đạo Cơ Đốc và năm giới của đạo Bụt cũng thuộc Đạo đức học tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn tức là đưa ra một cái thước đo, cho mình biết đâu là đúng, đâu là sai; còn quy định là chỉ định đâu là ranh giới của cái đúng và sai, của cái thiện và cái ác, của cái chánh và cái tà. Nhưng siêu đạo đức học vượt thoát cả hai khuynh hướng này, nó đặt vấn đề một cách căn bản.
Quý vị nói về tốt – xấu, nhưng thế nào là tốt, thế nào là xấu? Vì vậy siêu đạo đức học trước hết đặt vấn đề về ngữ nghĩa, tức là ý nghĩa thật sự của chữ đó. Ví dụ khi bàn về vấn đề có Thượng đế hay không có Thượng đế, có thể chúng ta sẽ mất rất nhiều thời gian mà không đi tới đâu hết vì chúng ta không biết Thượng đế là ai. Trước hết chúng ta phải đồng ý với nhau Thượng đế là cái gì, sau đó mới tới cái chuyện có hay không được. Cho nên tuy chúng ta có danh từ đó nhưng mỗi người lại hiểu danh từ đó một cách khác nhau, không sao đồng ý với nhau được. Vì vậy Siêu đạo đức học bắt buộc chúng ta phải xét lại hết những danh từ, những ý niệm chúng ta đang có. Nói cái này tốt, cái này xấu, cái này đúng, cái này sai. Nhưng thế nào là tốt, thế nào là xấu? Cũng như khi nói tu tập là để đạt tới Niết bàn, và người ta hỏi, thế Niết bàn có hay không ? Niết bàn nằm ở đâu? Trước khi đặt những câu hỏi ấy thì ta phải hỏi Niết bàn là cái gì đã. Bạn dùng chữ Niết bàn nhưng bạn hiểu về chữ đó như thế nào ? Bạn mới chỉ có khái niệm thôi chứ chưa chạm tới sự thật.
Biệt nghiệp và cộng nghiệp: Trong đạo Bụt có luật gọi là biệt nghiệp và cộng nghiệp. Cái gì cũng có hai mặt chung và riêng. Ví dụ mặt trời là của chung tất cả muôn loài nhưng có nơi thì có nhiều ánh nắng mặt trời, có nơi ít hơn. Mỗi trung tâm tu tập là một cộng nghiệp, trong đó mỗi người có mức độ an lạc khác nhau gọi là biệt nghiệp. Ở trong cái riêng có cái chung. Người kia có đau khổ, thì khổ đau của họ cũng có một chút ít dính líu tới mình. Nếu trước đây mình làm công việc bồ tát khá hơn thì chưa chắc bây giờ họ đã khổ nhiều như vậy. Tại vì lâu nay mình cứ lo cho bản thân nhiều hơn lo cho họ, cho nên họ không có đường đi, họ rơi vào nẻo khổ, trách họ hoàn toàn cũng không được. Cố nhiên là họ đi trên con đường lầm mê thì họ khổ đã đành rồi nhưng trong quá khứ nếu mình ưu ái đến họ một chút, mình hướng dẫn cho họ một chút thì bây giờ họ đâu đến nỗi như vậy? Vì vậy cho nên trong cái biệt nghiệp của họ cũng có cái cộng nghiệp với mình. Nếu trong đời sống mình để một chút thì giờ, một chút năng lượng can thiệp vào thì họ sẽ bớt khổ hơn. Vì vậy thuyết gọi là báo ứng có thể thay đổi bằng lý tưởng Bồ tát. Bồ tát có mặt để làm cho cuộc đời bớt khổ.
Nhưng trong ánh sáng của đạo Bụt ta phải hiểu rõ về chữ dục (muốn) này. Ví dụ như có một em bé bị bệnh phải uống thuốc, em bé không muốn uống thuốc, nhưng bà mẹ vẫn ép em bé uống vì biết rằng uống thuốc sẽ tốt cho em bé. Có nhiều người họ biết rằng giữ giới không uống rượu, không sử dụng ma túy, không tà dâm là tốt nhưng họ vẫn không muốn giữ giới. Thành ra vấn đề dục này là một cái cần phải xét lại. Mình đã hiểu câu này đến đâu rồi? Bất cứ một công thức nào, một lợi ích nào cũng chỉ có một giá trị tương đối nào đó thôi. Có Khai thì có Giá.
Thuyết mệnh lệnh của Thượng đế: Tuy là người sáng tạo ra danh từ Hậu quả luận, nhưng Elisabeth Anscombe lại chống cái khuynh hướng Hậu quả luận mà theo chủ thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế, nghĩa là những cái gì tốt, những cái gì lành là do Thượng Đế phán ra thì mình chỉ cần theo thôi, rất là khoẻ. Hậu quả luận là phải lý luận. Còn cái thuyết gọi là Mệnh lệnh của Thượng đế (God's command theory) thì rất dễ theo. Chúa nói như thế nào mình cứ làm theo như thế đó, khỏi phải tự quyết định làm chi cho mệt. Chúa nói tốt nghĩa là tốt, Chúa nói hay nghĩa là nó hay, mình chỉ đi theo thôi. Đó là quan điểm của thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế
Trong đạo Bụt cũng có một phần tương tự. Khi nghiên cứu về Tứ diệu đế, chúng ta thấy có sự thật thứ nhất là khổ, và sự thật thứ hai là tập, tức là những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Tập đế đưa tới khổ đế. Đây cũng là một loại Hậu quả luận. Nếu không muốn kết quả như thế này thì đừng làm như thế kia, không muốn gặt bão thì đừng gieo gió.
Diệu đế thứ ba là diệt, tức là khổ được chấm dứt, nó cũng có nghĩa là lạc, vì khổ đau bị tiêu diệt tức là an lạc có mặt. Và muốn diệt khổ đắc lạc phải có con đường tức là đạo. Vì vậy cho nên nếu muốn có lạc và diệt khổ thì phải đi theo đạo. Đây chính là cái nhân đưa tới cái quả, rất giống với Hậu quả luận. Bất cứ một cái gì có thể diệt được khổ, có thể đem lại an lạc là tốt. Bất cứ một cái gì mà mình không làm để tránh những hậu quả xấu thì là đúng. Mới nhìn qua ta thấy rằng Tứ diệu đế là một hình thái của Hậu quả luận, phải không? Gieo đậu thì được đậu, gieo cà thì được cà, cái đó là lý nhân quả thôi có gì đâu? Nó là một loại Hậu quả luận. Nhưng chúng ta đã đi sâu hơn để hiểu được Tứ diệu đế. Chúng ta đã nhìn Tứ diệu đế bằng con mắt tương tức. Thấy cái khổ và cái lạc liên hệ mật thiết với nhau. Không có khổ thì không có lạc. Vì vậy cho nên cái khổ đóng vai trò nào đó để chế tác ra cái lạc. Cũng như là sau những ngày mất điện, mất nước chúng ta đã reo mừng sung sướng khi có điện, có nước trở lại. Nên khi quán chiếu thì thấy rằng cái lạc được làm bằng những yếu tố không phải lạc, sen được làm bằng những yếu tố không phải là sen.
Trong đạo Bụt, đau khổ đóng một vai trò nhất định cho sự giải thoát. Và cái nhìn của đạo Bụt về đau khổ khác với cái nhìn về đau khổ của những truyền thống khác. Mình không nhìn đau khổ bằng con mắt hằn học, mình nhìn bằng con mắt tương tức. Đau khổ đôi khi rất cần thiết. Vì vậy cho nên mình nói là những cái lợi lạc của khổ đau.
Sự thật là mỗi chúng ta đều cần phải trải qua một chút ít khổ đau, một liều lượng khổ đau nhất định thì mới nên người được (tất nhiên là đừng có khổ đau quá). Vì vậy cho nên thái độ trốn tránh hoàn toàn khổ đau là không đúng. Phải tìm hạnh phúc từ trong khổ đau, tìm Niết bàn trong sinh tử, tìm Bụt trong chúng sinh. Bỏ chúng sinh để đi tìm Bụt thì chẳng bao giờ tìm được đâu. Vì vậy phải hiểu Tứ diệu đế trong ánh sáng tương tức, phải thấy là cái khổ đóng một vai trò quan trọng để tạo ra cái lạc. Vì thế mình không nhìn Tứ đế bằng con mắt phân biệt, kỳ thị mà nhìn bằng con mắt dung hợp, bất nhị, tương tức. Đây là một điều rất hay và cũng là điều khác biệt giữa đạo Bụt với các truyền thống khác.
Thuyết Luật tự nhiên: Trong Giáo hội Công giáo, thuyết Mệnh lệnh của Thượng đế được coi là quan trọng, nhưng kỳ thực nó không quan trọng bằng thuyết Luật lệ của tự nhiên (Natural law). Tại vì thuyết Natural law là thuyết của người Hy Lạp tạo dựng ra cách đây những hơn 2000 năm.
Ngày xưa Aristotle là người khởi xướng ra lý thuyết này. Ông nói, bất kỳ cái gì ở trong vũ trụ cũng đều có một công dụng hết. Ví dụ trời sinh ra cái răng để nhai thức ăn, sinh ra cái lưỡi để nếm, sinh ra con mắt để nhìn. Họ nói rằng trong thế giới có những trật tự, có những giá trị, những mục đích. Ví dụ như mưa là để làm cho cây cối mọc lên. Mà cây cối mọc lên được để làm gì? Mục đích của cây cối là để cho trâu bò và các loài ăn. Cứ lý luận như vậy thì sẽ đi tới chỗ các loài trâu bò, thú vật ăn để làm gì? Để trở thành thực phẩm của con người. Vậy đó! Khi mới khai thiên lập địa thì làm gì có con người, nhưng đã có mưa, có cây cỏ và loài vật rồi, con người xuất hiện rất là muộn. Nhưng họ lý luận như vậy. Và người ta tiếp tục lý luận rằng, cái răng dùng để nhai thức ăn chứ không dùng vào việc khác. Tình dục là để tạo ra các em bé, vì vậy tình dục mà không với mục đích tạo ra các em bé là tình dục sai. Vì vậy Giáo hội Công giáo không chấp nhận tình dục của những người đồng tính. Và khi được hỏi thế con mắt dùng để làm gì thì các nhà triết học theo thuyết này trả lời, con mắt dùng để nhìn. Nhưng đâu phải con mắt chỉ dùng để nhìn. Con mắt có thể dùng để biểu lộ tình thương, hoặc sự không hài lòng. Vì vậy con mắt không phải chỉ để nhìn mà còn được sử dụng như một phương tiện truyền thông.
Có những nhà triết học chống lại chủ thuyết của Giáo hội vì chủ thuyết của Giáo hội qúa cứng ngắc. Cho nên mình phải trở thành một quan sát viên thực tế, phải quán chiếu, học hỏi thì mới biết hành động nào là đúng, hành động nào là sai. Nếu có được cái nhìn tương tức, cái thấy bất nhị thì mình sẽ mềm dẻo hơn nhiều.
Trong chủ trương của Giáo hội, ban đầu, theo mệnh lệnh của Thượng đế là không có quyền sát hại bất cứ một sinh mạng nào, không được nhân danh bất cứ một cái gì để có thể giết hại. Vì vậy cho nên chuyện phá thai kiểm soát sinh nở là chuyện rất cấm kỵ. Giáo hội cũng kịch liệt chống đối việc giúp người khác chết một cách nhẹ nhàng không đau đớn. Có những người nằm liệt trên giường, ngày đêm thân tâm đau đớn, những người ấy rất muốn được tiêm một liều thuốc để có thể ra đi một cách nhẹ nhàng nhưng Giáo hội không cho. Thế nhưng Giáo hội Công Giáo lại mở cửa cho phép án tử hình, và đồng ý cho người ta đi đánh giặc một cách rất là cứng rắn. Đó là những vấn đề rất lớn của đạo đức học.
Đạo đức học thuyết minh: Siêu đạo đức học là một môn triết học rất quan trọng hiện giờ, tại vì nó có thể làm nền tảng cho các ngành đạo đức học khác. Chúng ta có một ngành đạo đức học gọi là Đạo đức học thuyết minh hay Đạo đức học miêu tả (Descriptive ethics). Phận sự của ngành triết học này là miêu tả thôi, nghĩa là chỉ nhận xét, nghiên cứu và nói ra quan điểm về thiện ác, miêu tả về những nền đạo đức có mặt trong xã hội này, xã hội kia để cho chúng ta thấy được sự thật thôi chứ không khuyên răn người ta nên làm cái này hay không nên làm cái kia.
Ví dụ như nói về chế độ nô lệ ở Trung Quốc ngày xưa như thế nào, người ta làm đầy tớ ra sao? Ở Tây Phương người ta buôn bán nô lệ thế nào? Và ở thế kỷ nọ, thế kỷ kia người ta đối xử với những người nô lệ ra sao? Rồi qua những biến động xã hội, người ta thay đổi quan niệm và giải phóng cho những người nô lệ như thế nào? Đó là thuộc về phạm vi của đạo đức học miêu tả, Descriptive ethics. Rất là có lợi. Hoặc ví dụ như là diễn tả cách hành xử trong gia đình, cha mẹ với con cái, mẹ chồng với nàng dâu, cách thức cưới hỏi trong mỗi xã hội.v.v.. Tóm lại là họ nghiên cứu về tất cả các nền đạo đức trên thế giới và diễn tả lại cho người ta hiểu.
Đạo đức học quy định: Ngoài ra lại còn có thêm một ngành đạo đức nữa gọi là ngành Đạo đức học quy định (Prescriptive ethics). Ngành này đưa ra những đề nghị mình nên làm cái này thì mới có hạnh phúc, không nên làm cái kia để đừng bị đau khổ. Như bà bác sĩ kê cho bệnh nhân một toa thuốc rồi dặn, uống thuốc này thì phải kiêng không ăn đồ cay, đồ nóng thì mới nhanh lành bệnh. Đó gọi là prescriptive, tức là quy định, chỉ định. Mười Lời Răn của Chúa bên đạo Cơ Đốc cũng thuộc về đạo đức học quy định. Và Năm Giới của đạo Bụt cũng thuộc về Đạo đức học quy định. Chúng ta đã sử dụng danh từ gọi là Đạo đức học tiêu chuẩn (Normative ethics), mười giới bên đạo Cơ Đốc và năm giới của đạo Bụt cũng thuộc Đạo đức học tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn tức là đưa ra một cái thước đo, cho mình biết đâu là đúng, đâu là sai; còn quy định là chỉ định đâu là ranh giới của cái đúng và sai, của cái thiện và cái ác, của cái chánh và cái tà. Nhưng siêu đạo đức học vượt thoát cả hai khuynh hướng này, nó đặt vấn đề một cách căn bản.
Quý vị nói về tốt – xấu, nhưng thế nào là tốt, thế nào là xấu? Vì vậy siêu đạo đức học trước hết đặt vấn đề về ngữ nghĩa, tức là ý nghĩa thật sự của chữ đó. Ví dụ khi bàn về vấn đề có Thượng đế hay không có Thượng đế, có thể chúng ta sẽ mất rất nhiều thời gian mà không đi tới đâu hết vì chúng ta không biết Thượng đế là ai. Trước hết chúng ta phải đồng ý với nhau Thượng đế là cái gì, sau đó mới tới cái chuyện có hay không được. Cho nên tuy chúng ta có danh từ đó nhưng mỗi người lại hiểu danh từ đó một cách khác nhau, không sao đồng ý với nhau được. Vì vậy Siêu đạo đức học bắt buộc chúng ta phải xét lại hết những danh từ, những ý niệm chúng ta đang có. Nói cái này tốt, cái này xấu, cái này đúng, cái này sai. Nhưng thế nào là tốt, thế nào là xấu? Cũng như khi nói tu tập là để đạt tới Niết bàn, và người ta hỏi, thế Niết bàn có hay không ? Niết bàn nằm ở đâu? Trước khi đặt những câu hỏi ấy thì ta phải hỏi Niết bàn là cái gì đã. Bạn dùng chữ Niết bàn nhưng bạn hiểu về chữ đó như thế nào ? Bạn mới chỉ có khái niệm thôi chứ chưa chạm tới sự thật.
Biệt nghiệp và cộng nghiệp: Trong đạo Bụt có luật gọi là biệt nghiệp và cộng nghiệp. Cái gì cũng có hai mặt chung và riêng. Ví dụ mặt trời là của chung tất cả muôn loài nhưng có nơi thì có nhiều ánh nắng mặt trời, có nơi ít hơn. Mỗi trung tâm tu tập là một cộng nghiệp, trong đó mỗi người có mức độ an lạc khác nhau gọi là biệt nghiệp. Ở trong cái riêng có cái chung. Người kia có đau khổ, thì khổ đau của họ cũng có một chút ít dính líu tới mình. Nếu trước đây mình làm công việc bồ tát khá hơn thì chưa chắc bây giờ họ đã khổ nhiều như vậy. Tại vì lâu nay mình cứ lo cho bản thân nhiều hơn lo cho họ, cho nên họ không có đường đi, họ rơi vào nẻo khổ, trách họ hoàn toàn cũng không được. Cố nhiên là họ đi trên con đường lầm mê thì họ khổ đã đành rồi nhưng trong quá khứ nếu mình ưu ái đến họ một chút, mình hướng dẫn cho họ một chút thì bây giờ họ đâu đến nỗi như vậy? Vì vậy cho nên trong cái biệt nghiệp của họ cũng có cái cộng nghiệp với mình. Nếu trong đời sống mình để một chút thì giờ, một chút năng lượng can thiệp vào thì họ sẽ bớt khổ hơn. Vì vậy thuyết gọi là báo ứng có thể thay đổi bằng lý tưởng Bồ tát. Bồ tát có mặt để làm cho cuộc đời bớt khổ.
Nhất Hạnh
TRƯỜNG TIỂU HỌC PHẬT PHÁP
DUY NHẤT Ở CHÂU ÂU
- PSN 20.12.2013 | Văn Công Hưng
Trường Tiểu học Phật pháp ở Brighton (The Dharma Primary School, in Brighton), Vương quốc Anh, cung cấp nền giáo dục trọn vẹn bắt nguồn từ chánh niệm - giúp trẻ em phát triển sự sáng tạo, sự đồng cảm, tự nhận thức và sự tự tin.
Trường Tiểu học Phật pháp ở Brighton là trường tiểu học duy nhất ở Anh cung cấp một nền giáo dục dựa trên giá trị Phật giáo. Ngôi trường tư thục này mở cửa cho trẻ em từ 3-11 tuổi thuộc tất cả các tín ngưỡng tôn giáo và các nền văn hóa, cung cấp một nền giáo dục chất lượng kết hợp với giáo lý Phật giáo nhằm hỗ trợ sự phát triển của chánh niệm, từ bi và trách nhiệm xã hội.
The Dharma Primary School, in Brighton
Thiền tập từ bé thơ - giúp các em có đời sống chánh niệm, tỉnh thức
Văn Công Hưng (Theo The Buddhist Channel)
Nguồn: GNO
The Dharma Primary School, in Brighton
Mặc dù là một trường học cộng đồng nhỏ, nhưng Trường Tiểu học Phật pháp được dẫn dắt bởi đội ngũ nhân viên có tay nghề cao và tận tâm, trong đó trẻ được chuẩn bị chu đáo để phát triển trong một môi trường an toàn và chăm sóc.
Nhà trường cung cấp một nền giáo dục học tập chất lượng thông qua Chương trình Đào tạo Quốc gia, nhưng với sự linh hoạt và sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu, tài năng và quyền lợi của trẻ em. Trẻ em phát triển sự tự tin, động lực và tình yêu học tập cho phép chúng học tốt và chuyển cấp thành công sang các trường trung học tư ở địa phương và nhà nước.
Nhà trường cung cấp một nền giáo dục học tập chất lượng thông qua Chương trình Đào tạo Quốc gia, nhưng với sự linh hoạt và sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu, tài năng và quyền lợi của trẻ em. Trẻ em phát triển sự tự tin, động lực và tình yêu học tập cho phép chúng học tốt và chuyển cấp thành công sang các trường trung học tư ở địa phương và nhà nước.
Thông qua Phật giáo dựa trên các đặc tính, thiền định hàng ngày và thực tập chánh niệm, giáo viên khuyến khích các em trau dồi sự tập trung, tự phản ánh, trí tuệ và từ bi. Phật giáo không dạy như một “đức tin” mà là một tập hợp các nguyên tắc và công cụ để sống một cuộc sống hữu ích và trọn vẹn.
Tại Trường Tiểu học Phật pháp, chánh niệm được tích hợp như một phần của cam kết rộng rãi hơn đối với nguyên lý Phật giáo. Các buổi thực tập thiền từ một đến hai phút, im lặng hoặc được hướng dẫn, vài lần trong một tuần được dạy cho trẻ, kết hợp chánh niệm với các hoạt động thường xuyên hàng ngày như ăn uống, làm việc và vui chơi.
Những hoạt động này đã được chứng minh là hữu ích trong việc phát triển sự kiên nhẫn, lòng từ bi và tự nhận thức. Trong thiền, trẻ nhận thức được suy nghĩ của mình và nhận thức được làm thế nào mà tâm trí của chúng di chuyển nhanh từ một suy nghĩ này sang một suy nghĩ khác. Bằng cách này, trẻ em được hướng dẫn để hiểu được sức mạnh của tư tưởng và cảm giác và có cơ hội để quan sát và tìm hiểu cách mà chúng phản ứng với các tình huống và những người xung quanh.
Những hoạt động này đã được chứng minh là hữu ích trong việc phát triển sự kiên nhẫn, lòng từ bi và tự nhận thức. Trong thiền, trẻ nhận thức được suy nghĩ của mình và nhận thức được làm thế nào mà tâm trí của chúng di chuyển nhanh từ một suy nghĩ này sang một suy nghĩ khác. Bằng cách này, trẻ em được hướng dẫn để hiểu được sức mạnh của tư tưởng và cảm giác và có cơ hội để quan sát và tìm hiểu cách mà chúng phản ứng với các tình huống và những người xung quanh.
Thiền tập từ bé thơ - giúp các em có đời sống chánh niệm, tỉnh thức
Trong thiền hàng ngày, những trẻ lớn hơn được đưa ra hàng loạt các cơ hội để phản ánh và thảo luận về những kinh nghiệm đã ảnh hưởng đến thế giới nội tâm của các em. Những loại thiền như vậy có thể liên quan đến những tình huống không như ý muốn và những trải nghiệm tách biệt từ những người hoặc vật nuôi đặc biệt.
Trẻ em được dạy để phản ánh theo kinh nghiệm và cuộc trò chuyện sau đó trẻ thường bày tỏ một số trợ giúp hoặc sự hiểu biết. Điều này đòi hỏi việc nghe một cách tiếp nhận và không phán xét của giáo viên; đồng thời thường xuyên mang lại trải nghiệm tích cực và có ý nghĩa cho trẻ em, giáo viên và quan sát viên.
Trẻ em được dạy để phản ánh theo kinh nghiệm và cuộc trò chuyện sau đó trẻ thường bày tỏ một số trợ giúp hoặc sự hiểu biết. Điều này đòi hỏi việc nghe một cách tiếp nhận và không phán xét của giáo viên; đồng thời thường xuyên mang lại trải nghiệm tích cực và có ý nghĩa cho trẻ em, giáo viên và quan sát viên.
Giáo viên nhấn mạnh cách tiếp cận tích cực để sống chứ không phải là một sửa chữa nhanh cho các vấn đề. Để có hiệu quả, nó cần phải được tích hợp vào giáo dục trẻ em như là một đặc tính, một thực hành hàng ngày được khuyến khích trong dài hạn giống như việc ăn uống lành mạnh và tập thể dục.
Một số câu hỏi thường gặp khi tìm tới trường
Những câu hỏi này được trích ra từ website của nhà trường...
Phật giáo được dạy ở trường như thế nào? Phật giáo không dạy như một đức tin, mà là một tập hợp các nguyên tắc và công cụ để sống một cuộc sống hữu ích và trọn vẹn. Trẻ không những tìm hiểu về Phật giáo, mà còn về các tôn giáo khác cũng như thế giới. Các nguyên tắc cơ bản của Phật giáo được dạy một cách thiết thực giúp trẻ hiểu cả thế giới xung quanh và xây dựng cảm xúc và tình cảm bên trong. Các em tìm hiểu về nhân và quả (trong Phật giáo gọi là nghiệp), hợp tác và sự thay đổi, sự phụ thuộc lẫn nhau và vô thường.
Ngũ giới Phật giáo tạo thành một quy tắc ứng xử cho phép trẻ cân nhắc hành động đúng dẫn đến kết quả tích cực. Thiền và chánh niệm được dạy như một thực hành hàng ngày để giúp phát triển tự phản ánh, tập trung và chú ý; các buổi thiền ngắn có hiệu quả tốt nhất cho trẻ và có tác động mạnh mẽ và tích lũy. Sau khi thiền, trẻ được khuyến khích chia sẻ bất kỳ những hiểu biết hoặc cảm giác trải nghiệm trong việc thực hành.
Những học sinh lớn cho rằng những buổi thiền chánh niệm thường xuyên và ngắn gọn như là một phần tích cực trong sự phát triển của mình. Để tiếp cận thiền về mặt thể chất chúng tôi giới thiệu trẻ thực hành yoga hay giáo dục thể chất nhằm phát triển sự nhận thức tâm sinh lí cũng như sự phối hợp, sự cân bằng và sức khỏe thể chất tốt.
Những gì được coi là lợi ích chính của một nền giáo dục tiểu học dựa trên nét đặc trưng của Phật giáo? Chúng tôi tin rằng cùng với sự phát triển của sự tự tin, lòng tự trọng và kỹ năng xã hội của trẻ, thông qua việc phản ánh hàng ngày trẻ sẽ đạt được một ý thức trách nhiệm và cái nhìn sâu sắc. Với việc thực hành này trẻ sẽ hiểu rõ hơn về tình cảm và cảm xúc của mình và tự tin hơn trong việc thể hiện bản thân một cách hiệu quả.
Các nguyên tắc cơ bản như sự ân cần, chia sẻ, tập trung và kiên nhẫn được dạy như một ứng dụng thực tiễn của Phật giáo, cùng với một nền giáo dục chất lượng dựa trên chương trình giảng dạy quốc gia. Nghiên cứu chỉ ra rằng đặc điểm tính cách cốt lõi và phản ứng cảm xúc của trẻ em được hình thành ở giai đoạn 7 tuổi, cách mà các em học để liên kết bản thân và những người khác trong những năm học tiểu học là một chỉ số hành vi quan trọng của giai đoạn vị thành niên và người lớn.
Chúng tôi tin rằng phương pháp tiếp cận của chúng tôi sẽ trang bị cho trẻ những kỹ năng sống cốt lõi cũng như một nền giáo dục đúng đắn - trí tuệ cũng như kiến thức.
Con của tôi sẽ thích hợp với hệ thống giáo dục chính thống sau khi học xong trường Tiểu học Phật pháp? Về mặt học tập và xã hội, trẻ em sẽ hòa nhập vào các trường trung học một cách rất thành công. Các em thường phấn khích khi được chuyển qua những thách thức và sự đa dạng của nền giáo dục trung học lớn hơn. Chúng tôi đã nhận được những phản hồi tích cực từ các giáo viên trung học, những người mô tả cựu học sinh trường Phật pháp là tự tin, biểu cảm và tập trung.
Theo lời của một học trò cũ: "Sự khác biệt chính giữa tôi và bạn bè của tôi ở trường trung học là tôi có nhiều khả năng để là con người của riêng tôi và hạnh phúc hơn trong chính bản thân tôi".
Phần lớn học sinh của chúng tôi tiếp tục học trung học ở khu vực nhà nước, tại các trường như Dorothy Stringer, Blatchington Mill và Varndean, mặc dù một số thì tiếp tục trong nền giáo dục tư nhân và đã đạt được học bổng của các trường Brighton College, Brighton and Hove Girls School, Lewes Old Grammar and Shoreham College.
Bọn trẻ có phải ăn chay không? Ăn chay có phải là điều mà nhà trường truyền bá như một phần của nét đặc trưng Phật giáo? Trường của chúng tôi cung cấp các bữa ăn trưa chay như một lựa chọn, tuy nhiên chúng tôi không ép buộc trẻ hay gia đình phải ăn chay.
Chúng tôi dạy trẻ tôn trọng tất cả mọi thứ - người, động vật và hành tinh này, và có xem xét đến phúc lợi của tất cả chúng sinh, nhưng phải thừa nhận rằng ăn chay là một quyết định của cá nhân và gia đình.
Những câu hỏi này được trích ra từ website của nhà trường...
Phật giáo được dạy ở trường như thế nào? Phật giáo không dạy như một đức tin, mà là một tập hợp các nguyên tắc và công cụ để sống một cuộc sống hữu ích và trọn vẹn. Trẻ không những tìm hiểu về Phật giáo, mà còn về các tôn giáo khác cũng như thế giới. Các nguyên tắc cơ bản của Phật giáo được dạy một cách thiết thực giúp trẻ hiểu cả thế giới xung quanh và xây dựng cảm xúc và tình cảm bên trong. Các em tìm hiểu về nhân và quả (trong Phật giáo gọi là nghiệp), hợp tác và sự thay đổi, sự phụ thuộc lẫn nhau và vô thường.
Ngũ giới Phật giáo tạo thành một quy tắc ứng xử cho phép trẻ cân nhắc hành động đúng dẫn đến kết quả tích cực. Thiền và chánh niệm được dạy như một thực hành hàng ngày để giúp phát triển tự phản ánh, tập trung và chú ý; các buổi thiền ngắn có hiệu quả tốt nhất cho trẻ và có tác động mạnh mẽ và tích lũy. Sau khi thiền, trẻ được khuyến khích chia sẻ bất kỳ những hiểu biết hoặc cảm giác trải nghiệm trong việc thực hành.
Những học sinh lớn cho rằng những buổi thiền chánh niệm thường xuyên và ngắn gọn như là một phần tích cực trong sự phát triển của mình. Để tiếp cận thiền về mặt thể chất chúng tôi giới thiệu trẻ thực hành yoga hay giáo dục thể chất nhằm phát triển sự nhận thức tâm sinh lí cũng như sự phối hợp, sự cân bằng và sức khỏe thể chất tốt.
Những gì được coi là lợi ích chính của một nền giáo dục tiểu học dựa trên nét đặc trưng của Phật giáo? Chúng tôi tin rằng cùng với sự phát triển của sự tự tin, lòng tự trọng và kỹ năng xã hội của trẻ, thông qua việc phản ánh hàng ngày trẻ sẽ đạt được một ý thức trách nhiệm và cái nhìn sâu sắc. Với việc thực hành này trẻ sẽ hiểu rõ hơn về tình cảm và cảm xúc của mình và tự tin hơn trong việc thể hiện bản thân một cách hiệu quả.
Các nguyên tắc cơ bản như sự ân cần, chia sẻ, tập trung và kiên nhẫn được dạy như một ứng dụng thực tiễn của Phật giáo, cùng với một nền giáo dục chất lượng dựa trên chương trình giảng dạy quốc gia. Nghiên cứu chỉ ra rằng đặc điểm tính cách cốt lõi và phản ứng cảm xúc của trẻ em được hình thành ở giai đoạn 7 tuổi, cách mà các em học để liên kết bản thân và những người khác trong những năm học tiểu học là một chỉ số hành vi quan trọng của giai đoạn vị thành niên và người lớn.
Chúng tôi tin rằng phương pháp tiếp cận của chúng tôi sẽ trang bị cho trẻ những kỹ năng sống cốt lõi cũng như một nền giáo dục đúng đắn - trí tuệ cũng như kiến thức.
Con của tôi sẽ thích hợp với hệ thống giáo dục chính thống sau khi học xong trường Tiểu học Phật pháp? Về mặt học tập và xã hội, trẻ em sẽ hòa nhập vào các trường trung học một cách rất thành công. Các em thường phấn khích khi được chuyển qua những thách thức và sự đa dạng của nền giáo dục trung học lớn hơn. Chúng tôi đã nhận được những phản hồi tích cực từ các giáo viên trung học, những người mô tả cựu học sinh trường Phật pháp là tự tin, biểu cảm và tập trung.
Theo lời của một học trò cũ: "Sự khác biệt chính giữa tôi và bạn bè của tôi ở trường trung học là tôi có nhiều khả năng để là con người của riêng tôi và hạnh phúc hơn trong chính bản thân tôi".
Phần lớn học sinh của chúng tôi tiếp tục học trung học ở khu vực nhà nước, tại các trường như Dorothy Stringer, Blatchington Mill và Varndean, mặc dù một số thì tiếp tục trong nền giáo dục tư nhân và đã đạt được học bổng của các trường Brighton College, Brighton and Hove Girls School, Lewes Old Grammar and Shoreham College.
Bọn trẻ có phải ăn chay không? Ăn chay có phải là điều mà nhà trường truyền bá như một phần của nét đặc trưng Phật giáo? Trường của chúng tôi cung cấp các bữa ăn trưa chay như một lựa chọn, tuy nhiên chúng tôi không ép buộc trẻ hay gia đình phải ăn chay.
Chúng tôi dạy trẻ tôn trọng tất cả mọi thứ - người, động vật và hành tinh này, và có xem xét đến phúc lợi của tất cả chúng sinh, nhưng phải thừa nhận rằng ăn chay là một quyết định của cá nhân và gia đình.
Văn Công Hưng (Theo The Buddhist Channel)
Nguồn: GNO
NỀN ĐẠO ĐỨC TOÀN CẦU
Tình huynh đệ là con đường cao thượng nhất,
đẹp hơn tất cả mọi chủ thuyết, mọi tín ngưỡng.
Mọi hiện tượng trong đời sống đều thay đổi và tiến hóa không ngừng. Đức Bụt của chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải học cách quán chiếu sâu sắc để thấy rằng khổ đau của nhân loại chúng ta không giống khổ đau của thời đức Bụt, cho nên phương pháp thực tập không thể nào giống nhau. Đức Bụt trong ta, như vậy, cũng cần phải tiến hóa để thích ứng với thời đại mới.
Trong thời đại mới, đức Bụt của ta có thể sử dụng điện thoại, kể cả điện thoại di động nhưng không phải vì vậy mà ta bị lệ thuộc. Đức Bụt của thời đại mới biết bảo vệ trái đất, ngăn ngừa thiên tai, giữ gìn những cái đẹp của hành tinh mẹ, và không phí phạm thì giờ trong việc tranh chấp với người khác.
Đức Bụt của thời đại mới muốn cống hiến cho đời một nếp sống có đạo đức thật sự để mọi người và mọi loài trên trái đất có thể chung sống với nhau trong hòa bình và tình huynh đệ, biết nương vào nhau để giữ gìn môi sinh, ngăn ngừa những hành vi làm hư hoại trái đất như phá rừng, thải quá nhiều chất độc làm ô nhiễm bầu khí quyển.
Chúng ta là sự tiếp nối của Bụt, chúng ta cũng cống hiến cho đời một con đường sống chung cao quý, biết giúp nhau bảo vệ môi trường thiên nhiên, cùng nhau ngăn chặn chiến tranh, bạo động, hận thù và tuyệt vọng. Chúng ta phải giúp Bụt tiếp tục những gì Bụt đã làm cách đây 2600 năm.
Hành tinh của chúng ta có rất nhiều loại sinh vật khác nhau, mọi loài đều nương tựa vào nhau để giúp nhau tồn tại, cho nên chúng ta luôn có mặt cho nhau, chúng ta cần phải ôm lấy đất mẹ với tất cả trái tim của mình và dang rộng hai cánh tay để bảo vệ tất cả các loài sinh vật trên trái đất. Chúng ta phải là hiện thân của Bồ Tát Trì Địa, vị Bồ Tát giúp bảo vệ giữ gìn trái đất mà kinh Hoa Nghiêm nói đến.
Trì Địa là nguồn năng lượng đưa chúng ta trở về với nhau như một cơ thể. Ngài như một người kỹ sư, một nhà kiến trúc tạo ra không gian cho ta ở, xây những con đường và bắc những chiếc cầu nối liền từ bờ này với bờ kia để chúng ta có thể đến được với nhau. Ngài làm công tác bảo vệ môi trường, thiết lập truyền thông giữa con người và các loài sinh vật khác. Trong kinh nói rằng khi đức Bụt viếng thăm mẹ của Ngài là hoàng hậu Maya đã qua đời thì chính đức bồ tát Trì Địa đã làm đường cho Bụt đi. Mặc dù trong kinh Hoa Nghiêm không có một chương riêng nói về bồ tát Trì Địa nhưng chúng ta vẫn nhận diện được Ngài để cùng hợp tác với Ngài. Có lẽ chúng ta sẽ dành một chương riêng nói về Ngài vì trong thời đại toàn cầu hóa chúng ta rất cần đến bồ tát Trì Địa.
Khi chúng ta quán chiếu về trái cam, chúng ta thấy rằng mọi thứ trong trái cam đã cùng nhau góp mặt để làm nên trái cam. Không phải chỉ có những múi cam mới thuộc về trái cam mà cả vỏ cam và hạt cam đều thuộc về trái cam. Đó là bản chất thật của trái cam. Mọi thứ trong trái cam đều là trái cam, tuy vậy vỏ cam vẫn được gọi là vỏ cam, hạt cam vẫn là hạt cam, múi cam vẫn là múi cam, không có sự lầm lẫn. Địa cầu chúng ta cũng thế. Mặc dù cả thế giới chúng ta là một đại gia đình, nhưng người Pháp vẫn được gọi là người Pháp, người Nhật vẫn là người Nhật, phật tử vẫn là phật tử, con chiên vẫn là con chiên. Cũng như vỏ cam vẫn là vỏ cam, múi cam vẫn là múi cam. Múi cam không cần phải trở thành vỏ cam mới có thể sống hài hòa với vỏ cam.
Tuy sự thật là vậy, nhưng chúng ta muốn sống chung với nhau có hòa hợp lâu dài ta cũng cần một hướng đi chung, một nếp sống đạo đức căn bản. Nền đạo đức căn bản đó là sự thực hành năm giới theo lời Bụt dạy. Trong thời đại khủng hoảng hiện nay, sự thực hành năm giới quý báu là một điều hết sức khẩn thiết vì đó là con đường xây dựng tình huynh đệ, giúp ta hiểu nhau và thương nhau, để cùng nhau bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài trên trái đất. Năm giới là nền tảng của chánh niệm, giúp ta sống có tỉnh thức có trách nhiệm, biết chấp nhận nhau, tha thứ cho nhau, cho nên không phải là phật tử mới thực hành năm giới, bởi vì năm giới không thuộc riêng một tôn giáo nào, một chủng tộc hay một học thuyết nào. Người cơ đốc giáo, người do thái giáo, người hồi giáo, người Pháp, người Nhật, người Trung Quốc hay người Mỹ…tất cả chúng ta ai cũng có thể thực hành năm giới. Khi ta sống có hiểu biết có thương yêu là ta đi theo con đường Bụt dạy dù ta không dùng một danh từ Phật học nào. Những người bạn của chúng ta là đạo Hồi, đạo Cơ Đốc, hay đạo Do Thái khi đến với chúng ta là để có dịp trở về với gốc rễ của họ để khám phá ra rằng những châu báu trong truyền thống của họ cũng tương đương với năm giới của chúng ta.
Thực hành năm giới, ta sẻ trở thành một vị Bồ tát có khả năng chế tác thương yêu, biết bảo vệ môi trường, sống hòa bình với mọi người để nuôi lớn tình huynh đệ. Chúng ta biết giữ gìn những văn hóa đẹp nước mình và cả những cái đẹp của các nền văn hóa khác. Thực hành năm giới là ta đang bước trên con đường chuyển hóa và trị liệu cho chính mình và cho cả thế giới.
NĂM GIỚI QUÝ BÁU
Thực tập giới thứ nhất ta nguyện tôn trọng và bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài trên trái đất, ta không yểm trợ bất kỳ một hành vi nào đưa đến sự giết hại. Giới thứ hai, ta nguyện thực tập tâm bố thí, biết chia sẻ thì giờ và tài vật của ta với những kẻ thiếu thốn, và không tán thành những áp bức và bất công xã hội. Giới thứ ba, ta nguyện sống có trách nhiệm với những người ta thương, nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của ta. Giới thứ tư là thực tập ái ngữ và lắng nghe để làm vơi bớt khổ đau của người khác.
Giới thứ năm là thực tập ăn uống và tiêu thụ có chánh niệm. Đây là con đường thoát cho tình trạng khó khăn trên thế giới hiện nay. Thực tập giới thứ năm ta biết rõ cần phải tiêu thụ gì để thân tâm được khõe mạnh, ta biết giữ gìn bảo vệ sự xanh tươi của trái đất và tránh không gây tổn hại và khổ đau cho ta và người khác. Tiêu thụ có chánh niệm là con đườn trị liệu cho bản thân và cho thế giới. Nếu chúng ta cùng nhau thực tập năm giới như một đại gia đình tâm linh, chúng ta có thể tránh được vấn đề hâm nóng toàn cầu. Chúng ta phải ý thức sự có mặt của bồ tát Trì Địa trong mỗi chúng ta. Chúng ta phải là cánh tay đắc lực của bồ tát Trì Địa để hành động kịp thời.
Ta vẫn nghĩ rằng trong ta có Bụt, có Chúa, tuy nhiều người vẫn còn thấy đó là một ý niệm trừu tượng. Chúng ta vẫn chưa biết rõ Bụt là ai, Chúa là ai. Trong đạo Bụt, Bụt trong ta chính là năng lượng của Niệm, Định và Tuệ. Nguồn năng lượng này giúp ta hiểu biết thương yêu mà không kỳ thị, giúp ta duy trì niềm vui và tình đoàn kết. Những người bạn Cơ Đốc giáo thì tin rằng Đức Chúa Trời là nguồn năng lượng của Thượng Đế, ở đâu có Đức Chúa Trời, ở đó có sự trị liệu và thương yêu. Niệm, Định, Tuệ cũng thế, đó là năng lượng của Bụt, giúp ta chế tác năng lượng hiểu biết thương yêu, giúp ta biết tha thứ bao dung, nhờ vậy ta có khả năng chuyển hóa và trị liệu, nuôi dưỡng được niềm vui và hạnh phúc... Nếu ta biết sống với nguồn năng lượng này thì ta là Bụt, chưa phải là Bụt toàn giác thì cũng là Bụt ngay trong giây phút mà ta thực tập chánh niệm. Và nguồn năng lượng này sẽ tiếp tục phát triển dồi dào trong ta.
Giới thứ nhất: Bảo vệ sự sống
Ý thức được những khổ đau do sự giết chóc gây ra, con xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và lòng Từ Bi để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Con nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hàng ngày của con. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sự sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị, con nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con và trong thế giới.
Giới thứ hai: Hạnh phúc chân thực
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, con nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng và hành động của đời sống hàng ngày. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Con nguyện thực tập nhìn sâu để thấy rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết với khổ đau và hạnh phúc của chính con, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Con đã ý thức được rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của con chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc con có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại nếu con có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc mà con đã có sẵn. Con nguyện thực tập theo chánh mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất và để chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
Giới thứ ba: Tình thương đích thực
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Con biết tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau, rằng những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang đến hệ lụy, đỗ vỡ cho con và cho kẻ khác. Con nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức và lâu dài. Con sẻ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đỗ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong con, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của con và của người khác. Con biết thực tập tứ vô lượng tâm ấy, con sẽ được tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau.
Giới thứ tư: lắng nghe và ái ngữ
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và do thiếu khả năng lắng nghe gây ra, con xin nguyện học các hạnh ái ngữ và lắng nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người , làm vơi bớt nỗi khổ đau của người, giúp đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, con nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói năng gì khi biết cơn bực tức đang có mặt trong con, nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của những bực tức ấy, nhận diện những tri giác sai lầm trong con và tìm cách hiểu được những khổ đau trong con và trong người mà con đang bực tức. Con nguyện học nói sự thật và lắng nghe như thế nào để có thể giúp người kia thay đổi và thấy được nẻo thoát ra ngoài những khó khăn đang gặp phải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thực, không nói những điều có thể tạo nên những sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Con nguyện thực tập chánh tinh tấn để có thể nuôi dưỡng khả năng hiểu, thương, hạnh phúc và không kỳ thị nơi con và cũng để làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức.
Giới thứ năm: Nuôi dưỡng và trị liệu
Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không chánh niệm gây nên, con nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khõe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống tiêu thụ bất cứ một sản phẩm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới internet , phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả chuyện trò. Con nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu trong con và chung quanh con, không để cho tiếc nuối và ưu sầu kéo con trở về quá khứ và không để cho lo lắng và sợ hãi kéo con đi về tương lai. Con nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lắp khổ đau, cô đơn và lo lắng trong con. Con nguyện nhìn sâu vào tự tánh tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào mà duy trì được an vui trong thân tâm con, trong thân tâm của xã hội, và trong môi trường sự sống.