Thứ Bảy, 29 tháng 5, 2010

CANH TÂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM


LỜI ĐẦU


Canh Tân là vấn đề luôn được cân nhắc cho mọi tổ chức, mọi sinh hoạt và mọi ngành nghề trong cuộc sống. Bởi vì mọi vật luôn biến thiên theo thời gian và không gian. Vũ trụ, thiên hà có chu kỳ sinh biến tính theo tỷ năm ánh sáng. Đại địa quốc thổ sinh hoại theo vạn niên kỷ; Học thuyết đạo lý có giá trị theo nhịp điệu phát triển của dân trí; Tôn giáo cũng tồn tại và cải biến theo thời gian lẫn không gian.

Việt Nam khởi nguyên so với vũ trụ mênh mông chỉ là hạt sương trên đầu ngọn cỏ, thế mà phải kinh qua lắm phen chìm nổi; chủng tộc và địa dư cũng đã lắm lúc đổi dời. Chỉ tính chưa được một trăm năm, tức là đời người thôi, đất nước cũng trãi qua bao binh biến, chủ nghĩa học thuyết cũng bao lần đổi thay, và dĩ nhiên, xã hội cũng theo đó mà khoát lên người lớp áo phù hợp với sắc màu tri kiến. Phật giáo cũng thế, từ khi hưởng ứng phong trào chấn hưng Đạo Phật của các Thiền sư Hoa Lục, xuyên qua các nước châu Á, Việt Nam cũng lột xác lớp áo lỗi thời, rồi đến đất nước chia đôi đến khi miền Nam chịu dưới sự cai trị của nhà Ngô, một lần nữa Phật giáo Việt Nam lại thay đổi cơ cấu tổ chức và kiến thức Phật học để nâng cao dân trí và khế hợp với thời đại. Cho dù thời bình hay lúc chiến, một sách lược, một tổ chức đều có một chu kỳ nhất định duyệt xét quá trình sinh hoạt, ghi nhận ưu và khuyết để bổ sung cho giai đoạn kế tiếp. Thế tục đã vậy thì Phật giáo cũng không thể khác hơn, nhất là phương diện tổ chức và hành hóa. Một hành giả hành trì miên mật một pháp môn mà không thâu lượm kết quả, phải thay đổi pháp khác thích hợp với căn cơ để có tiến triển.

Hơn 30 năm sau ngày thống nhất đất nước, Phật giáo nếu không dậm chân tại chỗ thì cũng không tiến bước được bao nhiêu. Với một cơ chế tổ chức và hiến chương tượng trưng, không giải quyết được vấn đề gì cho Phật giáo mà gọi là thích ứng với xã hội mới trong thời đại hội nhập; Thỉnh thoảng bổ sung những phân ban mà vì nhu cầu cấp thiết đòi hỏi, ví dụ Phân Ban Gia Đình Phật Tử, phân Ban Ni giới…

30 năm quá đủ để chỉnh lý bổ sung những sai sót cho một tổ chức, dù là tổ chức tôn giáo, thế nhưng, Phật giáo vẫn dậm chân tại chỗ so với những tôn giáo bạn. Tuy nhiên, do cơ chế ràng buộc, Phật giáo khó thoát khỏi những trì trệ, thì các tông môn, giáo phái cũng phải tự lột xác chuyển mình để được phát triển, vươn lên, như Thiền phái của HT T.Thanh Từ, các khóa tu cho mọi giới của chùa Hoằng Pháp và một số tỉnh Thành; hoặc những tổ chức trẻ như Câu Lạc Bộ Hoằng Pháp trẻ, Ban Hoằng Pháp sinh viên Thiện nguyện Học Viện Phật Giáo Việt Nam, và một vài đòan thể thanh thiếu niên các tỉnh phía Bắc. Quy luật cùng tắc biến, cái gì rồi tự nó cũng biến tướng hoặc tốt hoặc xấu; Một vài chùa cũng thành lập Ban Hộ Niệm, Đạo tràng, đoàn thể sinh viên, học sinh…mà không nhất cứ phải thông qua các Ban trong Giáo hội; Đó là cách thoát khỏi những ràng buộc của cơ chế cô đặc để đáp ứng nhu cầu thực tế của mỗi chùa, mỗi địa phương!

Về hình thức sinh hoạt như thế, chưa đủ đáp ứng cho một bộ mặt mới của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Cái mà làm cho Tinh hoa Phật giáo khởi sắc, đó là pháp môn hành trì. Thuở sinh tiền, pháp môn hành trì của Phật chỉ thuần về Thiền, sau vài thế kỷ, qua nhiều quốc độ, có thêm Tịnh, Mật, Kim Cang , Pháp Hoa. Ngay cả Thiền cũng biến sanh nhiều pháp phái cho thích hợp với đương cơ thời đại. Như Thiền Công Áng, Thiền Thoại đầu, hay Nhĩ Căn Viên Thông…Chư Tổ linh hoạt sáng tạo pháp hành mà không đi lệch ngoài chính lý Đạo Phật. Dĩ nhiên bước đầu khởi xướng cũng bị những người cố chấp chống đối mãnh liệt. Bồ Đề Đạt Ma bị Lương Võ Đế nghi là Tà giáo khi dùng Thiền ngôn đối đáp với lý nhị nguyên của Phật giáo đương thời. Minh Sát Tuệ cũng là biến tướng của pháp hành Tứ Niệm xứ; Chính bất định pháp đó mới lột tả được tinh túy Phật giáo và giúp Đạo Phật thăng hoa, thích nghi trong mọi thời đại. Một thân cây tăng trưởng thì lớp vỏ bên ngoài phải nứt; một tôn giáo phát triển thì tông môn pháp phái càng có nhiều chi hệ sáng tạo. Cho dù thân cây bị hạn chế tăng trưởng trong lồng kính, trong chậu hoa, không phát triển tự nhiên thì nó cũng biến thể dị dạng chứ không cứng ngắc như loại cây giả.

Một Thiền Tri Vọng chỉ vọng của HT Thanh Từ, Thiền Hiện Pháp lạc trú của Thiền Sư Nhất Hạnh đều là loại sanh biến thiền pháp cho hợp với căn cơ đương đại. Nhưng vẫn chưa đủ để Phật Giáo Việt Nam có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, vẫn có nhiều vị tu sĩ lạm dụng sáng tạo để lạc dẫn quần chúng bằng những loại giáo lý mà gọi là hàng đêm đem từ cỏi trên xuống để dạy. Có chánh phải có tà, giáo lý Đạo Phật giúp con người biết cách trạch pháp.

Phật giáo Việt Nam ngày nay, cần cải cách hệ thống tổ chức hành chánh cũng như tổ chức hội đoàn, cần phát triển pháp phái tu tập, cần xét lại phương cách từ thiện mà lâu nay vẫn làm theo tập quán thiếu hiệu quả, và nhất là cần có phương cách tạo kinh tế tự túc hơn là chuột sống trên miệng bao. Cuộc sống ngày nay không thể là xã hội hàng trăm năm trước. chủ động kinh tế mới chủ động sinh hoạt; không thể nhất nhất phải quyên góp hay chờ đợi cúng dường đủ mới làm. Phật giáo Đài Loan hay một số tổ chức Phật giáo trên thế giới cho ta bài học như thế; Kinh tế dồi dào mình mới nói đến Hoằng Pháp lợi sinh, vì có lợi sinh mới hoằng pháp được. Tin Lành đã đi trước Phật giáo hàng trăm năm trong kế hoạch truyền bá như thế; Nếu cứ bảo thủ “xưa bày nay làm” thì Phật giáo sẽ chết đứng và bị đào thải giữa cuộc sống ngày càng thay đổi chóng mặt của nền kinh tế toàn cầu và khoa học tân tiến của nhân loại.

Phật giáo Việt Nam hiện nay bị giam hãm trong Hiến chương mang nhiều khuyết tật, được bao bọc bởi cơ chế bảo hộ; bị ngủ quên trong chăn êm nệm ấm bởi ảo giác đồng hành cùng dân tộc, là điểm son của dân tộc, một thời gắn liền với dân tộc, mà quên rằng, tôn giáo bạn đang gánh vác trách nhiệm thế ta để biến Việt Nam là vùng đất Thánh dâng hiến cho Chúa!

Các Tăng Ni, cư sĩ trẻ tự mình là những cánh hoa bung nở cho dù tô điểm cho cây đại thụ già cổi, còn hơn là những cánh hoa giả gắn trên nhánh nilon chưng trong một đại sảnh. Việc canh tân Phật giáo không chỉ là trách nhiệm của các chức sắc mà là của tất cả Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam.
Tuy loạt bài canh tân sau đây chưa đủ để chọn một phương án khả dĩ, nhưng là ánh sáng le lói để những bậc có tâm huyết tiếp nối ngọn đèn Phật pháp mà chư tổ đã canh tân qua nhiều thế hệ.

Đó là lý do để tập sách nhỏ nầy đếy tay quý vị, xin nhận được những minh kiến từ các bậc cao minh để sqch được hoàn chỉnh hơn.

Cẩn bái.

MINH MẪN
Tháng 7/2010


************************


CANH TÂN PGVN …(bài số 1)


Khi đất nước còn trong sự chi phối của Pháp, chư tôn đức và một số cư sĩ , các nhà trí thức ái quốc, đã ý thức được vấn đề PG VN cần phải chấn hưng.
Trên bình diện quốc tế, Trung Hoa cũng khởi xướng phong trào canh tân PG; Trung Hoa có Đại sư Thái Hư cùng một số thiện hữu tri thức; ở Ấn Độ, Miến, Thái, Srilanka có David Hewavitarane, Đại tá Henry steel Olcott; và một số trí thức phương Tây có cảm tình với văn hoá PG và giáo lý đạo Phật, vận động hổ trợ.
Trước trào lưu văn hoá Tây phương, nhất là sự xâm lược của các đế quốc, PG các quốc gia sở tại phải xét lại sự sinh hoạt truyền thống của mình
Cuộc canh tân của tổ chức PG mục đích thích ứng với sinh hoạt từng thời đại, để tồn tại và phát triển;
Ngay cả Kitô giáo vẫn phải canh tân, việc canh tân của Roma qua những công đồng, không phải canh tân trong chính quốc Vatican để tồn tại, mục đích là để công cuộc truyền bá thích nghi với các tập quán của những quốc gia mà Kitô giáo cần đặt chân đến.; công đồng Vatican II ( 11/10/1962 – 7/12/1965 ) qua 2 đời Giáo Hoàng Gioan 23 và Paul 6. đã xét lại sự thất bại những giáo điều làm trở ngại việc đem Tin mừng vào cộng đồng văn hoá phương Đông.
*
* *

CANH TÂN lần thứ 1. Vào thời VN còn bị thống trị bởi ngoại bang, các nhà chí sĩ, ái quốc thấy rằng, một dân tộc không thể đơn thuần chống lại ngoại xâm bằng tấm lòng ái quốc, cần phải kết hợp với tinh thần tôn giáo, nhất là tôn giáo từng là linh hồn một dân tộc, để làm nồng cốt cho công cuộc chấn hưng dân tộc; Tinh thần ái quốc và linh hồn dân tộc là vũ khí tối ưu để phát động phong trào.Hội nghị Diên Hồng, các cuộc chiến chống Nguyên Mông đã minh chứng điều đó

Vì thế, sau những năm tháng mòn mỏi vì nô lệ, Tam giáo đồng lưu trong xã hội VN bị cơ chế sinh hoạt truyền thống lỗi thời ru ngũ, không còn thích ứng với trào lưu mới từ phương Tây, cũng như gươm đao không còn thích hợp với cuộc chiến tàu bay đại pháo. Các nhà cách mạng văn hoá, tôn giáo đã khởi xướng công cuộc phục hưng PG, làm linh hồn chiến đấu cho nền độc lập tự trị của dân tộc
Năm 1920 , ba miền VN đã ý thức việc chấn hưng, nhưng vì tính u trệ thiếu tổ chức, thiếu giáo quyền mà PGVN đã chậm trể hàng thập kỷ; và sự canh tân vào thập niên 1930, cũng chỉ mang tính chất chuyển mình theo tổ chức xã hội trong các tông môn, chứ chưa làm được một bước đột phá mang tầm vóc tổng thể như 1963.

Bác sĩ Tâm Minh, Lê Đình Thám, HT Trí Hải và chư tôn đức đã đào tạo một thế hệ kế thừa, làm tươi nhuận hệ thống PG từ Bắc vô Nam; Nhưng đất nước lại lâm vào cuộc nội chiến mới, cuộc chiến Ý thức hệ đẩy đất nước vào cuộc ly loạn, hao tài tổn mạng suốt 30 năm.

Khi đất nước chia đôi, phía Bắc dồn tổng lực cho công cuộc giải phóng miền Nam, triển khai chủ nghĩa CS, PG cũng không tránh khỏi sự chi phối, chư tăng bị huy động vào chiến trường, chùa đình được tận dụng làm nơi công ích, một số bị tiêu thổ kháng chiến xóa sạch nền tảng tín ngưỡng; đặc biệt các nhà thờ vẫn còn nguyên vẹn. 30 năm dưới Xã hội Chủ Nghĩa, không có tu sĩ PG kế thừa, một số ít trở về bằng thân hình không trọn vẹn, làm ông từ giữ chùa,.Trình độ giáo lý không có, kiến thức phổ thông không quá cấp 2; hoặc một số vị không còn sức lao động, phải về chùa phụng sự Tam Bảo theo truyền thống tín ngưỡng dân gian, không còn trường lớp đào tạo tu sĩ, không ai đủ khả năng tự tìm hiểu học hỏi giáo điển để có một pháp tu chân chánh đúng nghĩa, vì không còn trường lớp đào tạo tu sĩ, do vậy PG miiền Bắc bị pha tạp tín ngưỡng thần giáo, Tứ Phủ, mê tín.; các sư không biết ăn chay là gì, tình trạng nầy kéo dài đến ngày nay.

Đây là hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhà cầm quyền miền Bắc chưa thấy được tầm quan trọng của tinh thần PG, tốc đoán: tất cả các tôn giáo đều làm trì trệ dân trí, cản bước tiến xã hội, vì thế gom tất cả vào một tổ chức để quản lý, và dùng nó như một phương tiện điều động qưần chúng, phục vụ cho chính sách của Đảng và nhà nước trong thời chiến; những danh tăng không đồng tình với chế độ bấy giờ như HT Tố Liên, HT Vĩnh Tường, HT Mật Thể, đều bị quản thúc hoặc bức tử. ( vì thế,lực lượng PG miền Bắc suy yếu trầm trọng )

Nhưng sau khi thống nhất tổ quốc, Bắc Nam giao lưu, nhà nước phân biệt được bản chất của từng tôn giáo, chính sách thông thoáng hơn, PG miền Bắc bắt đầu được ảnh hưởng PG phía Nam, trường lớp giáo dục tu sĩ bắt đầu xuất hiện, vài năm trở lại đã có những trường Phật học cho tu sĩ;.nhất là trường Cao Cấp tại Sóc Sơn, với một quy mô tương tự Vạn Hạnh Sài Gòn và Học Viện PG Huế. Lúc nầy, tu sĩ phía Bắc tương đối nghiêm túc hơn, thiền môn quy củ hơn, nhưng chùa thiếu sư vẫn còn khá nhiều, vì thế, một vị kiêm nhiệm nhiều chùa.; chưa đủ cán bộ hoằng pháp giúp cho quần chúng có Đạo tràng tu tập.Riêng tỉnh Thanh Hóa trên trăm chùa không có trụ trì.. Bốn triệu dân, chỉ được vài chục vị sư, phần lớn già nua bệnh tật, còn lại độ 10 vị thì hơn phân nửa còn trẻ và chưa đủ trình độ Phật học lẫn thế học!.

CANH TÂN lần thứ 2. Phía Nam,Sau khi đất nước chia đôi, nhà Ngô bận tay ổn định vương vị, tảo thanh các thành phần giáo phái võ trang chống Pháp còn lại, và phải đối đầu với mối đe dọa Việt Cộng nằm vùng, lợi dụng buổi giao thời đó, chư tôn đức đã củng cố hạ tầng cơ sở PG miền Trung khá chu tất; tổ chức các trường Phật học cho Tăng Ni, các thời giảng cho cư sĩ, niềm tin của tín đồ vững chắc, ổn định.Vả lại, các tu sĩ được xuất thân từ các Phật Học Viện hoặc Già Lam được đào tạo nghiêm túc như Báo Quốc, Lưỡng Xuyên, Thập Tháp… đều là những lương đống của PGVN trong hậu bán thế kỷ 20, hàng loạt tăng tài xuất hiện, đã vực dậy một cơ thể PGVN mòn mỏi; Song song những danh tăng chuyên tu và hành hoạt, một tổ chức Thanh thiếu niên Phật tử được xây dựng có giáo trình nề nếp, đặc thù, làm nồng cốt và là mũi nhọn cho PGVN, một lực lượng mà nhà Ngô rất lưu tâm, chính vì thế, cũng là nạn nhân trực tiếp của Ngô triều, các anh chị em Gia Đình Phật Tử VN đã bị thủ tiêu, tù tội khá nhiều;

( Khởi đầu tổ chức Thanh thiếu niên là đoàn Phật Học Đức Dục, sau đổi danh xưng Gia Đình Phật Hoá Phổ, do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám khởi xướng, đến 1951, hội nghị toàn quốc Gia Đình Phật Hoá phổ tại Huế, chính thức đổi danh xưng Gia Đình Phật tử VN, một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên có niềm tin, có nhân cách xứng đáng là một công dân tốt, một con người hữu ích cho xã hội, và là một tín đồ mẫu mực; vì thế, sau 1975 tuy các đơn vị Gia Đình Phật Tử VN (GDPTVN ) gặp nhiều khó khăn về pháp nhân,không trực thuộc quản lý của nhà nước, nhưng xét thấy vô hại, nhà nước cũng lơ cho các em sinh hoạt và tồn tại, đến thập niên 2000, Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ mới đặt vấn đề quản lý về tổ chức GDPT, yêu cầu các đơn vị gia nhập Phân Ban trực thuộc Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ, đồng thời thành lập một số đơn vị GDPT mới, tuy nhiên GHPGVN chưa thành công trong việc quản lý các đơn vị GDPT, vì chưa thuyết phục được Ban Hướng Dẫn Trung Ương GDPTVN gia nhập. Một số huynh trưởng trong Phân Ban cũng chưa thể hiện được tài năng, uy tín và nhân cách lãnh đạo để các đơn vị sinh hoạt ngoài luồng có thể tùng phục! )

Sau khi nhà Ngô bị Quân đội triệt hạ, 1964, các tông môn, hội đoàn PG, Nam truyền, Bắc truyền đoàn kết trong một tổ chức chung gọi là Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất ( GHPGVNTN ); Tổ chức GH có tầm vóc hoàn chỉnh về phương diện hành chánh. Bấy giờ PG xem nhẹ truyền thống Tông Môn cá biệt, chú hướng đến điều hành hành chánh; nói cách khác, các lãnh đạo GHPGVNTN chuyển hướng PG vào lãnh vực xã hội và chính trị nhiều hơn là hoạt động tôn giáo, văn hóa, giáo dục, xem nhẹ đào tạo tu sĩ; Phật học viện Huệ Nghiêm, Giác Sanh, Hải Đức, Già Lam…chỉ là học xá nội trú để chư tăng theo đuổi chương trình thế học hơn là phật học; các trường Bồ Đề và Đại học Vạn Hạnh chỉ là cơ sở giáo dục phổ thông. Một lối đào tạo tu sĩ mới thiên về thế học, xem nhẹ tu tập và giới luật đã đưa tu sĩ PGVN đến một tệ nạn mà di chứng sau 40 năm vẫn còn tác hại.

Chúng ta cũng phải cảm thông, khi đất nước lâm vào binh biến, PG không thể vô trách nhiệm với xã hội, chỉ biết thủ phận, an thân,.nhưng lún sâu vào chính trị để đem hoà bình sớm trở lại cho dân tộc, PG phải trả một giá rất đắt, vể tổ chức, đã bị chia rẽ, GHPGVNTN tại Việt Nam Quốc Tự do HT Tâm Châu lãnh đạo, được chính phủ Thiệu Kỳ bảo trợ hợp pháp, lực lượng PG đấu tranh với chế độ phải rút qua cố thủ tại Ấn Quang, cũng danh xưng GHPGVNTN, gọi là PG Ấn Quang, không đủ yếu tố pháp nhân, nhưng thừa uy tín với quần chúng, tiếp tục đấu tranh chính trị qua nhiều chính phủ, gặp không ít khó khăn, một số tôn túc rút khỏi GH để thành lập một tổ chức mới! nhưng tất cả các tổ chức PG bấy giờ đều bị phe phái chính trị thao túng Về nhân sự, phần lớn tu sĩ bị cuốn hút vào sự xáo trộn xã hội, một số ít có điều kiện ăn học, một số tìm nơi trú ẩn tu tập, phần lớn còn lại, học hành không suông sẻ, tu tập thiếu sự hướng dẫn, lỡ thầy lỡ thợ, nhận chùa trụ trì hoặc cất cốc cất am, thiếu tăng phong đạo hạnh, gây tai tiếng không nhỏ trong xã hội .Về nội lực, PG bấy giờ như mất phương hướng hướng nội; giữa cao trào bát nháo đó, HT Thiền Tâm lên Đại Ninh, Đức Trọng, Đà lạt ẩn tu, HT Thanh Từ về Vũng Tàu lập Chơn Không truyền giảng thiền pháp và nhập thất, lúc bấy giờ chưa đủ nội lực để quần chúng nương tựa. Các tông môn rút lui, trở về đời sống truyền thống môn phái.

Nội bộ PG cũng bất đồng quan điểm đấu tranh, nhiều khuynh hướng đối chọi lẫn nhau, tranh chấp nhau vì quyền lực, Thiền sư Nhất Hạnh, người có công thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh bấy giờ, đã bị chế độ và nội bộ loại khỏi đất nước vì có khuynh hướng tiến bộ và phản chiến. Ra xứ người, Ngài tiếp tục vận động hoà bình cho VN, lên án chiến tranh; Ngài thành lập trường Thanh Niên Xã Hội, được tu sĩ, cư sĩ, sinh viên và các nhà trí thức ủng hộ tham gia, mục đích của Ngài, PG phải đóng góp bàn tay mình để xây dựng những đổ nát, mất mát của người dân, nâng kiến thức vệ sinh và đời sống cho cộng đồng xã hội vùng sâu vùng xa, thế nhưng, chính thiện chí đó trở thành một nghi ngại cho các thế lực, các tác viên đã phải hy sinh khá nhiều dưới bàn tay bạo lực từ mọi phía, đây là một nhiệt huyết đơn độc, phiêu lưu giữa chiến cuộc, cuối cùng đổ vỡ.

Cuộc đấu tranh liên tục qua nhiều chính phủ miền Nam, quần chúng và dư luận thế giới cảm thấy ngờ vực GHPG Ấn Quang, GH ngã sang chính trị hơn là hoạt động tôn giáo. GH đã mất dần uy tín, nhất là sau vụ đem Phật xuống đường, mang hình thức tôn giáo vào đấu tranh chính trị, bị Nguyễn Cao Kỳ vô hiệu hóa, HT Trí Quang đánh chiêu cuối cùng, một ăn một thua, Ngài tuyệt thực vô thời hạn, phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đem máy bay đưa thẳng vào bệnh viện Duy Tân của Bác Sĩ Tài để cô lập; hàng ngày, các tấm hình của HT Trí Quang phô bày bộ xương ốm đói, tung ra ngoài để kích động quần chúng Phật tử, nhưng không mấy hiệu quả, và gần trăm ngày nhịn ăn, chế độ TT Thiệu vẫn không chùn bước,Viện Hoá Đạo yêu cầu Đức Tăng Thống chỉ thị ngưng tuyệt thực; qua thất bại của HT Trí Quang mà năm 1963 , Ngài được xem như linh hồn PG VN bấy giờ, ngài vĩnh viễn ở lại miền Nam, không về miền Trung cho đến ngày nay.
( Một may mắn cho Phật giáo miền Trung, nhóm Cần Lao và tín hữu Kito cực đoan, sau khi Ngô Triều thất lộc, để phục hận nhà Ngô, họ lợi dụng kế hoạch triệt hạ đem bàn thờ xuống đường, có những công điện triệt tiêu toàn bộ chư Tăng tín đồ và chùa chiền vào ngày N và giờ G, được thao dợt rất kỷ, tuyển chọn lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến toàn tòng, và một số thanh niên không theo Phật mà chẳng phải thờ lư hương, do Tổng Giám Mục Đổ Quang Thuận, còn có tên Đinh bình Thuận, Võ công Thuận… mang lon Đại úy, từ Bình Thuận ra chỉ huy TĐ2/3 thực hiện cuộc đàn áp tiêu diệt Phật giáo miền trung một cách triệt để. Mỗi bàn thờ xuống đường đều được hai thanh niên vận sắc phục Gia Đình Phật tử tăng viện gọi là bảo vệ bàn thờ, có giấy tờ hợp pháp do Ban Bảo Vệ Tranh đấu tỉnh Thừa Thiên cấp. Khi được lệnh, nã súng và lựu đạn nhắm vào đám biểu tình, bất kể sư sãi. Nhưng giờ chót, khi Thích Trí Quang bị bắt đưa vào Sài Gòn, cuộc biểu tình bị thất bại, phải giải tán, kế hoạch triệt tiêu Phật giáo chưa kịp thực hiện)

Sau khi nội bộ phân hoá trầm trọng, GH Ấn Quang vẫn tiếp tục lao vào đấu tranh chính trị với chế độ bấy giờ, không còn lối thoát, các Ngài liên kết với Linh Mục Hoàng Quỳnh, hy vọng người Bắc Kito giáo di cư có thể làm áp lực với chế độ, nhưng dự tính sai lầm đó, đã bị Hoàng Quỳnh bấy giờ chơi trò hai mặt, chẳng những không giúp gì cho PG mà còn tạo thế ly gián cấp lãnh đạo GH Ấn Quang, cài người giả danh tu sĩ và tín đồ làm hoen ố PG, đồng thời mách nước cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ biết mưu tính của Ấn Quang để dể bề bẻ gãy kế hoạch tranh đấu. Vì thế GH Ấn Quang lâm vào bế tắc; HT Quảng Liên được Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trao sử liệu hạch tội chế độ, hàng ngày ra rả phát thanh, bị thiếu tá Trụ bắn bể loa trên nóc chùa Ấn Quang; Trong khi đó, Đại Đức Nhật Thiện được tình báo Tây Phương chỉ đạo tung tin lệch lạc cho cấp lãnh đạo PG Ấn Quang làm chệch hướng mục tiêu hầu hạ uy tín PGVNTN; Ni sư Huỳnh Liên, HT Pháp Lan, một vài vị lãnh đạo trung ương GH cũng bị tác động kế hoạch của Mặt Trận để hổ trợ cho cuộc phản chiến sớm thành công;

Hàng lãnh đạo Trung Ương GH Ấn Quang lúc bấy giờ chia làm nhiều phe phái khác nhau, một tốp bị Mặt Trận giựt giây, một ít bị phương Tây cài vào, một số trung lập, nhưng dù phe phái nào, tất cả đều bị cuốn hút vào cuộc tranh đấu, tất cả cho đấu tranh, tuy lâm vào bế tắt, nhưng khía cạnh khác, PG Ấn Quang đã góp phần giúp cho cuộc chiến sớm kết thúc, vì Mỹ xét thấy, đổ máu xương và tiền bạc vào một chiến trường không có lối thoát, ngay tại Mỹ, cũng đã có nhiều phong trào phản chiến chống chính phủ; Binh sĩ Mỹ và đồng minh tử thương ngày một tăng; chiến tranh ngoại giao đã nghiêng phần thắng về Hà Nội; Báo chí hàng ngày đưa tin bất lợi cho Mỹ, tạo một dư luận chống đối Mỹ rầm rộ, đã có người Mỹ tự thiêu để phản đối chiến tranh VN;

GH Ấn Quang không kiện toàn được tổ chức chặt chẽ, bên ngoài bị chế độ trấn áp, một số dư đảng Cần Lao, công bộc của Ngô Đình Diệm thừa gió bẻ măng, trả thù PG, vu khống, chụp mũ các cấp cơ sở; máy bay thả bom các chùa miền quê lấy cớ thả nhầm; những nhân sĩ, Phật tử trong các cấp chính quyền bị vu vạ có liên hệ với CS, tìm cách loại trừ ảnh hưởng PG trong cơ cấu nhà nước, đưa tín hữu Kitô giáo lồng vào hy vọng tạo một chế độ Diệm không có Diệm; một số linh mục vẫn còn thao túng chế độ.

Tu sĩ PG, Tăng cũng như ni, quá mỏi mệt vì đấu tranh, nhân dân cũng ngán ngẩm cuộc chiến, không còn thời giờ tu tập, học hành cho tu sĩ lẫn cư sĩ; mười một năm đăng đẳng, nếu PG chú hướng vào củng cố nội bộ, chuyên tu và đào tạo tăng tài, có lẽ PG VN ngày nay không có một khoảng trống về đạo đức, không xa rời quần chúng, không bị tai tiếng và không có khuynh hướng thụ hưởng của giới tăng trẻ, mà sân chơi đang được tôn giáo bạn làm chủ tình hình, hẳn nhiên, không chỉ đe dọa vận mạng PG mà còn là nổi lo cho nền văn hóa dân tộc
-Khả năng chính trị và hành động chính trị.: Suốt thời gian PG nép mình tu tập trong thiền môn, tông phái, hoà nhập và thấm sâu vào quần chúng như một kỷ niệm đẹp đầy lý tưởng, hình ảnh tu sĩ PG bấy giờ là thần tượng của quẩn chúng, mặc dù bị áp lực từ nhiều phía, đến khi áp lực cuối cùng đầy bất trắc của nhà Ngô đối với PG, mà thủ phạm chính là Ngô Đình Thục và một số cuồng tín, muốn Kitô hoá miền Nam VN, PG và quần chúng vùng dậy, có cả một số tu sĩ và tín hữu Kitô giáo yêu chuộng công bằng, cũng lên tiếng ủng hộ PG, chống lại Ngô quyền; PG đã được thế giới quan tâm giúp đỡ, quân đội phần lớn nghiêng về PG, kết quả chế độ độc tài gia đình trị họ Ngô đã bị Mỹ hy sinh.

Sau khi hình thành một GH thống nhất, lãnh đạo GH nêu rõ lập trường Đạo Pháp và Dân Tộc; GH đấu tranh để đất nước sớm có hòa bình, nhân dân bớt đổ máu là đúng hướng, nhưng một khi nội lực chưa đủ kiện toàn, vội lao vào chính trị là việc làm tự sát; Tu sĩ và tín đồ mất định hướng; GH đòi hỏi cải thiện chế độ nhưng không đưa ra một kế sách cải thiện và nhân sự để cải thiện, vì thế đảng Cần Lao tiếp tục thao túng chế độ, PG chỉ dọn đường cho kẻ thời cơ nhảy vào hưởng lợi. PG đứng bên ngoài chống đối, la làng và trở thành nạn nhân của chính trị lẫn những thành phần cuồng tín trong tôn giáo bạn. Qua những năm tháng dưới chế độ sau Ngô Đình Diệm, ai bảo PG không làm chính trị? nếu là chính trị, khả năng chính trị đó hoàn toàn ngẩu hứng tự phát mà không có một chính sách, kế hoạch , và không qua trường lớp đào tạo, vì thế thất bại và cũng chỉ là con rối cho các thế lực chính trị lợi dụng, bản thân PG chẳng được gì, ngoài hậu quả bệ rạc, một hình thức trống ruột bị quần chúng trí thức căm phẩn nguyền rủa, và kéo theo những thế hệ tu sĩ thiếu phẩm chất để xã hội kinh tởm khinh bạc!

PG không thể là một GH chi phối chính trị như Vatican; PG muốn làm một Vatican của VN và tu sĩ PG muốn là một Quốc sư như thời Lý Trần là một chuyện không tưởng; vì PG không có một tổ chức và không thể là một tổ chức chặt chẽ như Vatican; tu sĩ PGVN ngày nay không có tầm vóc đạo lực như một Vạn Hạnh thiền sư, một Khuông Việt quốc sư; nếu PG quay lại nội bộ, phát triển đạo lực cho tu sĩ, sẽ là một đóng góp không nhỏ cho dân tộc về lãnh vực tâm linh, đạo đức xã hội, và phong phú văn hoá như Lý Trần đã từng làm!
Vạn Hạnh thiền sư và Lý Công Uẩn không phải là hoạt động chính trị mà là thái độ chính trị, hành xử bằng tuệ giác chứ không phải một lực lượng đối đầu với một lực lượng để chiếm ưu thế chính trị và quyền lực, một hành xử chính trị như thế cũng chỉ vì lợi ích muôn dân chứ không vì quyền lợi cá biệt của tập đoàn.
Tu sĩ PG là một đoàn thể hướng về Tuệ giác, sống bằng Tuệ giác, Tuệ giác hướng dẫn mọi hành hoạt trong cuộc sống; Những động thái không có Tuệ giác được xem là phàm tục; Đó là sắc thái đặc thù của PG đối với mọi tôn giáo và tổ chức chính trị. Vì thế, nêú tu sĩ PG có khả năng chính trị hay hành động chính trị, thái độ chính trị, phải là loại chính trị phi chính trị, đứng ngoài sự đối lưu chính tri, không để thế lực chính trị chi phối tác động, và không thể hiện phong cách ngang tầm thế tục, phải là phong cách của một Thiên Nhân sư biểu!

Qua mười một năm đấu tranh trong chế độ cũ, và hơn 30 năm trong chế độ hiện hành, Tu sĩ PG luôn thể hiện một thái độ chính trị ăn thua; không chứng tỏ được thiện chí kẻ cả nhằm cải thiện đối tượng mà duy nhất là triệt tiêu đối tượng, đó không phải là tinh thần PG, càng không phải là thái độ chính trị Tuệ giác.
Vì thế, đối với PG, tu sĩ, cho dù có khả năng chính trị, thái độ chính trị hay hành động chính trị mà không đặt trên nền tảng Tuệ giác, sẽ là một thất bại đau thương, vì người tu không bao giờ có thủ đoạn chính trị! Nhiệm vụ của PG không phải đối đầu với quyền lực thế tục mà cải thiện quyền lực thế tục, nếu có thể và có đủ tầm vóc của kẻ bề trên, bằng không, hãy trở về tu dưỡng nội lực, vì con đường tâm linh, văn hoá, giáo dục là sở trường của PG từ ngàn xưa.;
*
* *

Vì thế, PGVN hiện nay, để cùng tồn tại với dân tộc, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu dân tộc trong thời đại mới, thời đại hội nhập toàn cầu, cần phải Canh Tân tổ chức GH hiện tại.


MINH MẪN
09/3/07

*****************




CANH TÂN PHẬT GIÁO ( bài thứ 2)

NGUYÊN NHÂN RẮC RỐI

Cuộc chiến VN trước 1975 đạt đến đỉnh điểm quyết định. Mặc dù chính quyền miền Bắc lúc bấy giờ hao binh tổn tướng khá nhiêù qua những chiến đoạn mùa Hè Đỏ Lửa, Mậu Thân, Lam Sơn Hạ Lào, nhưng dốc toàn lực khi thấy rằng chính quyền Mỹ lúng túng trước sách lược VN và ý định giải trừ chiến tranh lạnh với Liên Xô, Trung Quốc;

Một số thành phần trí thức và tu sĩ Kito giáo cũng thấy được mối đe dọa từ miền Bắc, linh mục Trần Hữu Thanh, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định.. đứng ra hô hào chống tham nhũng, thanh lọc và củng cố miền Nam, tổ chức nhiều lực lượng chính trị, trong đó lực lượng người Nùng của linh mục Hoàng Quỳnh, cơ sở tại giáo xứ An Bình, mong cưú vãn chế độ; ngược lại linh mục Phan Khắc Từ, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… lại hoạt động những phong trào dưới chiêu bài xã hội làm nhộn nhịp thêm trong tình thế nhiều hoảng loạn; ví dụ phong trào Cứu Đói, thật tế miền Nam bấy giờ có ai đói đâu; Cải thiện chế độ Lao Tù…làm căng thẳng tinh thần quần chúng, giữa lúc chiến tranh gia tăng khốc liệt. Hằng ngày tin binh sĩ tử thương, thất trận dồn dập trên các trang nhật báo; Sinh viên, học sinh, các sư xuống đường liên miên. Lực lượng PG đấu tranh, có ni sư Huỳnh Liên, không trực thuộc cuộc đấu tranh của PG Ấn Quang, mà liên kết với bà Ngô Bá Thành theo mật lệnh của Mặt Trận; Tình hình chính trị miền Nam bấy giờ như quả bóng đang căng; Nguyễn văn Thiệu càng ngày càng lâm vào bế tắt, thế nhưng ông ta vẫn cố bám vào ngôi vị Tổng Thống đến khi Mỹ cắt viện trợ hoàn toàn, tinh thần binh sĩ miền Nam xáo trộn, không còn cưú vãn, và bị áp lực nhiều phía, ông ta mới chấp nhận ra đi.

PG Ấn Quang bấy giờ tiến thoái lưỡng nan; cuộc đấu tranh ngày càng lún sâu vào chính trị; chính phủ miền Nam từ thập niên 1966 - 1974, muốn xoa dịu PG, nhường một số ghế trong chính quyền. Trần Quang Thuận làm bộ trưởng Bộ Xã Hội. Vũ Văn Mẫu và liên danh Hoa Sen có các ông Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, vào quốc Hội, nhưng tất cả cũng chỉ phụ thuộc vào nhân sự đầu tàu Kito giáo, như chủ tịch Thượng Hạ nghị viện đều là người của GH Kito đưa ra, tỉnh trưởng, quận trưởng cũng là tín đồ Kitô giáo, các cấp chính quyền đều bị các linh mục, các thành phần dư đảng Cần Lao chi phối; Thậm chí nhân sự đại diện PG trong các cấp chính quyền cũng tùy hứng hoạt động mà không theo chủ trương của GH Ấn Quang, hay nói cách khác, GHPG lúc bấy giờ, ngoài việc chống đối , không có một kế sách, một chiến lược rõ ràng, không đào tạo nhân sự thực thi chính sách của GH khi tham gia chính quyền, vì thế, những nhân sự được GH đưa vào chính quyền, lại là người thụ hưởng cá nhân, hoặc công bộc chế độ chứ không đóng gop gì cho PG. đáng kể.Lúc bấy giờ PG Ấn Quang vừa đối đầu vừa hợp tác, có nghĩa đối đầu để có một vị trí trong chính quyền chứ không phải chống đối vì cuộc chiến nồi da xáo thịt. Đã đi lệch mục đích ban đầu.

Tăng sĩ trẻ không thể tách rời hoạt động của GH ẠQ, vì vậy bị lệnh Tổng động viên, phải nhập ngũ, chỉ có tu sĩ thuộc GHPGVNTN của Việt Nam Quốc Tự mới được cấp giấy hoãn dịch; Chư ni trẻ ở Dược sư, Huê Lâm, Từ Nghiêm.. buộc phải tham gia biểu tình, không còn thời gian tu học. Một số vị rút khỏi GHTN để thành lập GH mới, cũng không khá hơn trong việc giáo dục, đào tạo tu sĩ, bị không khí chính trị nóng bỏng chi phối; so với tu sĩ các dòng của Kito giáo, PG bấy giờ chông chênh, khó tìm một vị thế an trụ. Nếu GH bên Việt Nam Quốc Tự hay bất cứ GH tông môn nào đủ bản lãnh thiên hướng chuyên tu cho tăng chúng, hoặc đào tạo đồ chúng theo thiền môn quy củ của chư Tổ, chắc chắn PGVN không bị trống chân như căn nhà bị nước ngầm xâm thực;

Nếu những bậc cao tăng lúc bấy giờ như HT Trí Tịnh, HT Thanh Từ, HT Thiền Tâm, HT Thiện Hòa, HT Bửu Huệ…can đảm khởi xướng phong trào chuyên tu, chắc chắn không ít tu sĩ hưởng ứng khi quá mỏi mệt vì đấu tranh, và như thế, tuy không chính thức làm cuộc canh tân, nhưng thật sự đã canh tân PG trong một trong một xu thế bị kiêu binh tồn đọng sau hào quang thành tựu 1963 của GHPGVNTN Ấn Quang; Riêng GH Việt Nam Quốc Tự, HT Tâm Châu cũng không có lực lượng tăng sĩ hậu thuẩn như Ấn Quang,chỉ một số ít người Bắc di cư và chính quyền bấy giờ ủng hộ, thay vì tách rời Ấn Quang, Ngài có thể thành lập đạo tràng hay một viện chuyên tu để ổn định tăng sĩ, HT Tâm Châu lại an phận chức Viện trưởng VHĐ một cách hữu danh vô thực, để rồi danh tiếng một thời bị mai một trong cuộc sống vô vị!

Khi cuộc chiến kết thúc vào 30/4/1975, PG một số tỉnh thành tham gia tiếp đón bộ đội, một số hòa vào dòng người chạy nạn vô Sài Gòn hoặc vượt biên; Ban Đại diện PG các nơi chờ đợi sự điều động, chỉ thị hoặc hướng dẫn của GH Trung Ương, nhưng tại Ấn Quang, sau khi HT Trí Quang đề nghị TT Dương Văn Minh đầu hàng để tránh đổ máu nhân dân và binh sĩ hai bên một cách vô ích khi mà CS đã chiếm lĩnh các nơi, bao vây SG từ mọi hướng; các HT, TT lãnh đạo GH Trung Ương, mỗi vị suy tư một cách khác nhau, nhưng một cách giống nhau là đứng trước tình hình mới, GH không biết ứng xử thế nào, chờ thái độ của chính phủ Lâm Thời Cọng Hòa Miền Nam VN đối xử với tôn giáo ra sao; Nghĩa là GH chỉ có thái độ đấu tranh trong lúc chiến tranh, không có một kế sách cho thời hậu chiến, hay ít ra chuẩn bị tư thế trong buổi giao thời; có người bảo rằng GHTN chỉ thành lập để đấu tranh chứ không phải phát triển PG, đào tạo tu sĩ và hướng dẫn quần chúng tu tập, vì thế không giữ được tầm vóc và sắc thái liên tục của một tôn giáo trong mọi tình huống, như Kitô giáo! Một số tín đồ người Bắc di cư đã đến các Ngài mong tìm được một sự trấn an, chính các Ngài cũng không an, HT Tâm Châu, HT Huyền Vi, HT Giác Đức, HT Mãn Giác đã ra di, vài tháng sau đó, HT Hộ Giác, HT Tắc Phước, HT Huyền Tôn, TT Thiện Nghị, TT Chơn Điền,… đều tìm cách trốn ra khỏi nước, không thiếu tu sĩ bỏ mình nơi biển cả, trong đó có TT Viên Đức, tu Mật Tông ở Thủ Thiêm; không thể bảo vì lý do kinh tế, cũng không thể nói tỵ nạn chính trị, vì các Ngài không can hệ đến chính trị, một lý do duy nhất là vì an ninh cuộc sống, một số chùa bị trưng thu, một số tu sĩ bị bắt, hầu hết đều nằm trong vòng kềm tỏa khắc nghiệt của chính sách Quân quản lúc bấy giờ.

Trong tình hình mới, khi nước nhà thống nhất, chính phủ miền Bắc và Mặt trận Giải Phóng Miền Nam VN tổ chức Hiệp Thương để thống nhất quản lý, thống nhất tiền tệ, thống nhất kinh tế, thì Tôn giáo, các hội đoàn miền Nam trước đây cũng được gom vào Mặt Trận Tổ Quốc; Riêng PG, giai đoạn trung chuyển để kết hợp giữa PG miền Bắc và PG miền Nam, HT Minh Nguyệt được lịnh thành lập Ban Liên Lạc PG Yêu Nước, sau đó HT Trí Hải, HT Đức Nhuận ( miền Bắc ) vào Nam để gặp chư tôn Đức GH Ấn Quang , đặt vấn đề thống nhất PG, nhưng các Ngài không giải trình rõ mô hình ngôi nhà chung PGVN mà quyền hạn và sự độc lập của GH cần phải có như PG miền Nam trước đây, vì thế, chư tôn đức trong GH Ấn Quang, một số không chấp nhận, một số ngần ngại thiếu dứt khoát, một số chấp nhận tham gia GH mới. Riêng HT T. Trí Thủ chấp thuận tham gia, nhưng yêu cầu nhà nước cho GHPGVNTN Ấn Quang tổ chức một Đại Hội lấy biểu quyết của Đại Biểu, nếu tham gia, GHTN có một sự giải thể công khai và hợp pháp; nhưng do tính chủ quan, cửa quyền áp đặt, nóng vội phía Ban Tôn Giáo và Mặt Trận, xem thường yêu sách của GH Ấn Quang, vượt nguyên tắc, Đổ Trung Hiếu, tức Mười Anh, phó Ban Tôn Giáo TP lúc bấy giờ, cả quyết với HT Trí Thủ một cách vô trách nhiệm để lấn áp PG đồng thời lập công với thượng cấp: Ôn yên tâm, ổn cả rồi, không cần tổ chức Đại Hội, các ngài thỏa thuận cả rồi!
Nhưng HT Trí Thủ không chuyên về nguyên tắc pháp lý, cả tin lời hứa của Mười Anh
Tuy nhiên, bức xúc trước tình trạng xem thường GHPG Ấn Quang mà cán bộ Tôn Giáo cứ ngỡ dễ áp đặt, năm 1977, HT Tổng Thư Ký VHĐ, T. Quảng Độ triệu tập Đại hội kỳ 7, cũng là đại hội bất thường, để quyết định đường lối mới của GH Ấn Quang.
HT Minh Nguyệt và HT Thiện Hào, vừa chấm dứt chiến tranh, vội vã vào Ấn Quang thăm chư vị tôn túc lãnh đạo GH; HT Thiện Hòa, trưởng Ban Tài Chánh GH Ấn Quang nói: Mời hai HT tham gia GH, chúng tôi sẽ đề bạt các thầy trong một trọng trách của GH. Nhưng khi Đại hội 7 hoàn mãn, HT Quảng Độ đã loại trừ hai Ngài, gây hố ngăn cách bước đầu mà GH đang đối mặt trước nhiều khó khăn sắp tới; liền sau đó, hai HT được nhiệm vụ thành lập Ban Liên Lạc PG Yêu Nước.

Chuyện gây cấn giữa GH Ấn Quang và nhà nước trong buổi giao thời ngày một căng thẳng; Ban tôn giaó tuy móc nối thành công một số giáo phẩm Ấn Quang ngã về mình; khi HT Minh Châu đồng ý tham gia GH nhà nước, cơ sở 2 của Viện Đại Học Vạn Hạnh ở Nguyễn Kiệm được trả lại làm chổ dung thân cho HT viện trưởng. HT Trí Thủ tuy cá nhân gia nhập tổ chức PG quốc doanh, Ban Tôn Giáo vẫn xem như GHTN Ấn Quang mặc nhiên sáp nhập nhà nước, vì HT Trí Thủ nguyên là Viện Trưởng VHĐ lúc bấy giờ. HT Tổng Thư Ký VHĐ, T.Quảng Độ dùng lý để đối kháng, không chấp thuận, vì cá nhân HT Viện Trưởng VHĐ không đủ tư cách giải quyết bức tử GH, cần có cuộc Đại Hội khoáng đại để lấy biểu quyết của đại biểu. Trong lúc nhùng nhằng chưa ngã ngũ, Ấn Quang vẫn còn là văn phòng GHPGVNTN; cô nhi viện Quách thị Trang, phía sau Việt Nam Quốc Tự, TT NHật Thiện tự động cho phòng Công Nghiệp UBND Q.10 mượn làm cơ sở sản xuất mây tre lá, mặc dù cơ sở đó đã hiến cúng cho GH; để chuẩn bị ngày lể khai trương, phòng Công Nghiệp Q.10 cho người thay bảng mới, một số em cô nhi vội báo cho Viện Hoá Đạo, HT Quảng Độ nghĩ là nhà nước tiếp quản cơ sở, vì không được TT Nhật Thiện thông báo cho GH biết. Một cuộc tranh chấp nổ ra giữa GH và chính quyền TP; Thông tư, thông cáo từ văn phòng VHĐ lên án gay gắt chế độ. Một sự ngộ nhận gây ra không phải vô tình của TT Nhật Thiện, làm cho Ấn Quang và nhà nước CSVN thêm ngày một ngăn cách vì thành kiến và mặc cảm.

CANH TÂN lần thứ 3. Gọi là canh tân cũng chưa chính xác khi mà GHPGVN do Ban tôn giáo và Mặt Trận Tổ Quốc thành lập, khung sườn gần giống với GH cũ, chỉ chuyển đổi vài danh xưng và thay vì Tứ Chúng lãnh đạo, GHPGVN chỉ duy nhất chư tăng điều hành, bổ cử mà không thông qua bầu bán.
Canh tân là sự đổi mới về tổ chức và tính hiệu quả, nhưng thật tế đi ngược lại những gì đã có, nó trì trệ và phát sanh nhiều tệ nạn trong cơ cấu tổ chức, hệ thống lãnh đạo và bản chất cán bộ tu sĩ, đưa đến tiêu cực phổ biến trong các tầng lớp tu sĩ.
Thống Nhất các hệ, giáo phái PGVN trong một GH là điều tất yếu, hẳn nhiên là để nhà nước dễ quản lý, đồng thời PG hoạt động theo một nề nếp có tổ chức, có hiệu quả hơn, đoàn kết hơn; Nhưng do cách thống nhất thiếu tế nhị trong bước đầu, cứ nghĩ với quyền lực trong tay, nhà nước dễ dàng điều động các sư như từng làm ở miền Bắc; Các tông môn giáo phái đã ký tên tham gia GH mới, cá nhân Ấn Quang không tham gia cũng chẳng sao, hai vị HT Quảng Độ, HT Huyền Quang không thể chống lại một tập thể lớn , do chủ quan đó mà nhà nước tiến hành thành lập GHPGVN vào năm 1982, để dọn sạch sự cản trở, năm 1980 -1981, các thành phần nhân sự và lãnh đạo GH Ấn Quang đều bi quản thúc hoặc đi tù. HT Q. Độ đã cho tẩu tán con dấu GH, nhà kế cận đi vượt biên, ấn tín VHĐ đã hoàn toàn thất lạc.

Đây là giai đoạn 3, PGVN chuyển mình theo xu thế mới, ra đời một tổ chức mới; Ban tôn Giáo cứ ngỡ đã thuận buồm xuôi gió, đến khi, HT T, Đôn Hậu viên tịch, một bản di chúc làm xôn xao PG, mở đầu cho một cuộc trổi dậy của GHTN Ấn Quang cũ, nay gọi là PGTN Thanh Minh, vì văn phòng VHĐ đã dời về Thanh Minh Thiền Viện, đường Trần Huy Liệu.Q.3. TP H.C.M.
Sau khi hệ thống các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, 1985, VN mở cửa thị trường, cơ chế quản lý thông thoáng hơn, vấn đề tôn giáo cũng được cân nhắc tương xứng với tầm vóc một GH mà trước kia bị xem như những hội đoàn! Nhà nước ít can dự vào nội bộ những chuyện vặt vảnh, phần lớn trao quyền quyết định nội vụ cho các chức sắc tôn giáo; chính vì thế, cơ cấu tổ chức GHPGVN mang tính phong kiến, gia trưởng, đã đưa đến một số chức sắc GH lạm quyền, kiêm nhiệm, tha hoá, tiêu cực, phe nhóm, bất tài, cậy thế… làm cho tổ chức PG trì trệ, hủ hoá. Những tu sĩ có uy tín, có khả năng bị dìm ẩn, gây khó khăn, hoặc bị kích động chống đối, bôi xấu, kết án lẫn nhau. Không ai có thể đoàn kết PG thật sự giữa thế giới đang hoà nhập và đất nước chuyển mình thăng tiến;

Trong tinh thần dân chủ của nhà Phật, Tăng – Ni -thiện nam –tín nữ đều có bổn phần đóng góp xây dựng ngôi nhà chung của Như Lai, nhưng Hiến chương của GHPGVN qua 25 năm vẫn tồn đọng cửa quyền độc tài, ni chúng và tín đồ chỉ biết gọi dạ, bảo vâng, không có quyền đóng góp tài năng, sáng kiến cho GH. Vì thế, hàng cư sĩ đã quây lưng lại với GH, vì trách nhiệm đều do các sư đảm đương. Bất cứ tổ chức nào, cơ chế, chính sách cũng chỉ có giá trị trong một thời gian nhất định, buộc phải sửa đổi cho thích hợp tình hình mới, riêng PGVN, một tổ chức lạc hậu, lỗi thời, không được xét lại phương sách hoạt động, cơ cấu tổ chức; Đây là di chứng sai lầm của cơ chế bao cấp do nhà nước CSVN đặt để vào những thập niên trước đây, do lối mòn đó, cấp lãnh đạo PG không muốn thay đổi, vì thụ động hay vì sợ ảnh hưởng quyền lợi cá nhân. Nhưng PG trì trệ, kéo theo một đất nước trì trệ, vì thế, nhà nước nhiều lần muốn cải thiện PG, nhưng không biết khởi sự từ đâu. Một hạt cát nhỏ nằm trong con ngươi của PGVN, đó là GHTN, dù muốn dù không, về pháp lý, đó là một thực thể cần giải quyết ổn thỏa; cho dù qua 30 năm ngoài vòng pháp luật, nhà nước không chấp nhận, cũng không thể phủ nhận những khó khăn từ GHTN tạo nên mà GH hải ngoại đã hổ trợ trong nước làm áp lực với chính quyền. Dẫu sao GHTN vẫn là một cơ phận của cộng đồng PGVN.

Về phương diện GHTN, các Ngài bảo: ai gút người ấy mở, có nghĩa tình trạng bế tắt PG hiện nay do giải quyết sai lầm bước đầu của nhà nước, phải do nhà nước chủ động tháo gở. Những cán bộ nông nổi đốt giai đoạn bước đầu đã không còn tại chức. Thế hệ kế thừa không hiểu được nút rối từ đầu, do đó không thể quy trách cho họ; Đấu tranh vì quyền lợi PG là điều đúng, nhưng lợi dụng thế lực chính trị để đạt yêu cầu là phương tiện sai. Tinh thần kiên nghị là tốt, nhưng thiếu linh động trong phương cách đấu tranh để đạt yêu cầu là thất bại; có những lúc đối đầu, đôi khi cũng cần hoà hoãn để không bị kẻ xấu kích động cho họ hưởng lợi, để rồi thiệt thòi vẫn là PG
Khi HT Huyền Quang tuyên bố: Nhà nước ra văn bản giải thể GHTN,các ngài sẳn sàng quy ẩn chuyên tu, chưa có văn bản giải thể, tức GHTN còn tồn tại, các ngài không thể phủ nhận trách nhiệm trước lịch sử, hiện giờ HT quá mệt mỏi trong cuộc đối đầu vô vọng, ngài giao trọn quyền cho HT Q. Độ điều hành, xin được gác kiếm. Nhưng nhà nước VN cũng không thể đơn phương làm chuyện vô lý: Nhà nước không chấp nhận GHTN thì làm sao ký văn bản giải thể; ký văn bản giải thể tức chấp nhận sự tồn tại pháp nhân của GH. Nếu chấp nhận GHTN là đi ngược chủ trương của nhà nước. Vì thế, vấn đề không giải quyết theo nguyên tắc hành chánh, mà đôi bên, mặc nhiên thỏa thuận thế nào đó để chấp nhận một phương án chung cuộc. Thời gian qua, nhiều bậc tôn túc muốn đứng ra hoà giải, nhưng không đủ tầm vóc hợp pháp; Nhận được sai lầm trong quá khứ của mình, Nhà nước cũng tạo điều kiện để hai bên xích lại gần nhau, nhưng một số chống đối kích động chia rẽ. Chuyến đi về Bắc của HT H.Q là một ví dụ điển hình, bước đầu cảm thông nhưng rồi ra chẳng thông cảm nhau vì phía sau là những thế lực ngầm ngăn cản! Chuyến thăm quê của Thiền sư Nhất Hạnh, năm 2005, dịp nầy Ngài cũng muốn dung hòa để PGVN hòa hợp, vượt qua những bế tắc, thế nhưng, sự ý thức chính trị phiến diện và sự khích động, tô vẽ từ ngoài, tạo nên một tự ái chính trị vô lý, anh em đồng đạo đã quay lưng lại nhau như một lên án tiếp tay cho kẻ thù. Vâng, những thất bại cho sự đoàn kết đó, PG không lợi gì, kể cả dân tộc, mà chỉ có lợi cho kẻ hoạt đầu chính trị và ngoại giáo mà thôi; Để ý đồ chia rẽ PG thành công, họ tạo một cái nhìn thiếu thiện cảm về TS Nhất Hạnh, HT H.Q khi được hỏi: Tại sao HT không tiếp TS NHất Hạnh? Ngài đáp; Ổng dắt bồ về để phá hoại hạ tầng cơ sở GHTN tại Huế! Còn HT Q. Đ được hiểu , tiếp TS N.H là lọt vào âm mưu của C.S; Nếu là nhà chính trị lão luyện, dĩ kế tựu kế, cứ việc giao tiếp để tạo thế đứng mà bấy lâu bị phủ nhận, để có thể tiến tới một lối thoát mới mà từ lâu bị bế tắc, nhưng vì bị kích động từ mọi phía, cùng với tính bộc trực và thiếu cố vấn, ngài không tiếp Thiền sư Nhất Hạnh; Cũng thế, chào đón chuyến về VN lần thứ hai vào mồng 4 tết Đinh Hợi của Tăng thân Làng Mai, hàng loạt bài chống đối, xuyên tạc trên mạng cũng như ấn phẩm truyền tay tại VN để phá vỡ sự đoàn kết PG mà chỉ có ngoại đạo và các thế lực chính trị mới mong muốn như thế, rất tiếc, một số tu sĩ Huế, vì cạnh tranhg uy tín và sợ mất quyền lợi, đã làm thay việc đó cho ngoại đạo, vẫn mang danh tướng chủng tử Như Lai, thử hỏi, ai làm được như TS Nhất Hạnh và Thiền sư Than h Từ, với tầm vóc quốc tế, cho PGVN hiện nay???

Thật sự, trong giới tu sĩ cũng như tín đồ PG, trong chính quyền cũng như dân tộc, quá mệt mỏi vì truyền thống chống đối, đấu tranh của GHTN, hoặc sự rạn nứt trong cộng đồng tu sĩ, sự xuống cấp đạo đức của một số tăng ni trẻ hiện nay, mà hậu quả do nền giáo dục sau thập niên 1964 về sau; Một trì trệ PG do cơ cấu tổ chức thiếu dân chủ của GHPGVN hiện tại, PG cần có 1 cuộc canh tân để bắt kịp mức tiến hoá của xã hội và nhân loại; Một giáo phái Shiah và Sunni của Hồi giáo đem lại tan thương cho loài người thì sự kiên cường bất khuất đem lại gì cho GHTN, cho PGVN đang cần một đoàn kết để tồn tại và phát triển; sự chia rẽ đem lại lợi gì cho cộng đồng PGVN mà quá khứ từng là điểm son của dân tộc.
Phải chăng Canh Tân PG hiện nay là việc tối cần,cấp lãnh đạo PG cũng như nhà nước VN cần phải xem như một vấn đề cấp thiết hậu WTO cho dân tộc vươn lên!

MINH MẪN
13/02/07

*******************

CANH TÂN PGVN (bài thứ 3)

Tại sao phải Canh Tân?

Trong cuộc sống dịch biến, nhà Phật gọi là Vô Thường, không một cái gì, dù là vô hình đến hữu hình, từ tinh thần đến vật chất, có thể tồn tại một hình thái nhất định, luôn bị chi phối, nghĩa là phải biến dạng, thay đổi. Các tổ chức, thể chế chính trị cũng thế, để tồn tại, thích nghi với thời cuộc, phải thay đổi danh xưng, thay đổi sách lược, cải tổ nội bộ. v.v…

Sau 1963, để thích ứng với tình hình mới, các tập đoàn PG kết hợp thành một hình thái mới, gọi là GHPGVNTN, là lẽ tất yếu!

Sau biến cố 1975, PGVN thay đổi tổ chức, cải biến danh xưng, cho thích nghi với xã hội mới, cũng là điều dể hiểu và hợp lý, nhưng cách thức tiến hành đã vướng vấp nhiều điều phi lý.

Sau 1975, GHPGVNTN, chống đối, bất hợp tác với tổ chức mới vì yêu sách quyền lợi cho tổ chức mình, đòi hỏi hành xử trên nguyên tắc pháp lý, nhưng thái độ hành xử, phong cách đối kháng không thích ứng với tình thế của mỗi giai đoạn, là sai và còn nhiều phi lý từ cơ bản Pháp nhân..

Kiểm điểm thực tại

Càng ngày GHTN càng đánh mất chinh nghĩa, nhập nhằng giữa tôn giáo và chính trị. Sai lầm khi tham gia Liên Tôn Chống Cộng, bị các linh mục quá khích lạc dẫn; kêu gọi Mỹ cấm vận và không bang giao với VN; để Võ Văn Ái thao túng GHTN; Đưa Không Tánh tham gia nhóm 8406 làm tà lọt, tống đạt thư văn tài liệu chống Cộng và chống Thiền sư Nhất Hạnh trên mạng; 2005, vì quan điểm sai lầm, không tiếp TS Nhất Hạnh, làm mất cảm tình giới trí thức Phật tử và bị giới hiểu biết đánh giá thấp về ý thức chính trị của hàng lãnh đạo GHTN; Thiện Minh Bạc Liêu thành lập Câu Lạc Bộ cựu Tù Nhân CS, mang màu sắc chính trị; GHTN lớn tiếng mạt sát nhà nước bằng thái độ sân si, đánh mất hậu thuẩn lớn với quốc tế mà thời Ngô vốn đã có. Chẳng những thế, trong nội bộ làm suy giảm niềm tin đồng đội, TT Tuệ Sĩ phải rút lui; gần đây nhất, một số cơ sở hải ngoại cũng không tin vào sự ồn ào của GHTN do các tổ chức chính trị thổi phồng. Gia Đình Phật Tử VN ( GĐPTVN ), một tổ chức lâu đời của PG, có mặt trước khi GHTN có mặt, xây dựng một hệ thống và giáo trình giáo dục thanh thiếu niên khá hoàn chỉnh, Ban Hướng Dẫn có trình độ, có tu tập, sau 1975 vẫn tồn tại lây lất để góp phần giáo dục con em Phật tử, bị bắt buộc phải đăng ký chính thức tham giai GHTN, tạo một khó khăn không cần thiết cho đoàn thể Thanh thiếu niên Phật tử như vậy; Lê Công Cầu được chỉ định làm Trưởng BHD trong khi đẳng cấp còn là đàn em của các anh chị trong BHD đương nhiệm, nghĩa là vượt quyền hệ thống GĐPTVN và phủ nhận luôn GĐPTVN hải ngoại!, dĩ nhiên các em không chống đối, nhưng nổi buồn sâu xa mà từ lâu GĐPTVN vẫn sùng phụng các ngài, xem các ngài như một thần tượng khả kính, bổng chốc, bị các ngài đưa vào thế bí, bơ vơ trong cộng đồng PGVN hiện nay, các ngài tự đánh mất một lực lượng nồng cốt trung kiên như thế, cánh tay đắc lực mà đoàn thể Thanh thiếu niên PG đã từng góp phần không nhỏ bảo vệ PGVN, đã thành một đứa con vô thừa nhận.( các em vẫn trung thành với các ngài, đã không gia nhập Phân Ban của Ban Hướng Dẫn Nam Nữ Cư Sĩ thuộc GHPGVN hiện nay, giờ đây, chính các ngài buộc các em lăn lóc bụi đời, không nơi nương náu, không có điểm tựa, chính các ngài đã xoá sổ GĐPTVN và làm tan nát nội bộ chứ không phải nhà nướcVN hay Thiền sư Nhất Hạnh như các ngài đã vu kết! Liệu các đơn vị GĐPT như thế, tồn tại dưới tập thể áo lam, có được tiếp tục sinh hoạt đoàn thể hay phải sinh hoạt theo quần chúng bình thường không có tổ chức, không có anh chị hướng dẫn, nếu thế, đây là điểm son nổi bậc của GHTN, GH truyền thừa có công xoá sổ GĐPTVN thay cho nhà nước từng mong muốn mà chưa đạt được!
Làm sao đòi hỏi tính Pháp nhân khi GHTN bị chia đôi vào thời Thiệu Kỳ, chỉ có VNQT của HT Tâm Châu là hợp pháp. Trên cơ sở nào để nhà nước giải quyết sự tồn tại như thế, hiện nay, nếu tự thân các Ngài không tìm cách hoà nhập một cách linh động mà xã hội cảm nhận được sự thoải mái dể chịu, không tạo vết thương cho đất nước, không cấn cái về pháp lý, không làm tổn thương cho hàng triệu tín đồ PGVN đang cần sự sáng suốt đoàn kết từ các bậc Thầy!
Vô số những sai lầm trong cung cách lãnh đạo đã đưa GHTN vào bế tắc, để rồi HT Huyền Quang phải quy sơn ẩn tích vì quá mỏi mệt và bị vượt quyền. Không trách những sai lầm đó vì không ai cố vấn cho các ngài, đồng thời các ngài cũng không tin vào cố vấn nếu không cùng quan điểm chống Cộng cực đoan như vậy! Thật sự các ngài quá cô đơn giữa bầy tôi thừa hành ăn theo, hành xử tuỳ tiện, thiếu trình độ, làm giảm uy tín PGTN và tạo sự bực bội cho các ngài; Các ngài nghĩ rằng các Ngài phải mạnh mẽ chống Cộng để PG khỏi mang tiếng là thân Cộng, nhưng thật tế bao nhiêu người không chống, cũng chả ai bảo họ là Cộng Sản, vì thế các Ngài lọt vào quỷ đạo của những tổ chức cực đoan chính trị, làm vật lót đường, tạo một vết đen trong lịch sử PGVN hiện nay.
Nếu dùng lý để đối chọi nhau, cuộc đối đầu không bao giờ chấm dứt. Thiếu thiện chí, sự cảm thông, và tầm nhìn chiến lược, tất cả đều bế tắc.

GHTN đã thế, GHPGVN hiện tại cũng va vấp sai lầm không ít, phần lớn sai lầm do cung cách tuỳ tiện của cán bộ trong GH; Chư tôn túc trung ương cứ nghĩ một tổ chức GHPGVN như thế là ổn, nhưng các ngài không thấy được nhiều mặt hạn chế tiêu cực mà cách 25 năm trước không có, ngay cả Hiến Chương của ngày ra đời GH cũng không còn thích hợp với đà tiến hóa của đất nước hiện nay. Hiến chương đưa đến tình trạng độc đoán, phong kiến, trái với tinh thần dân chủ của nhà Phật; trách nhiệm PG hiện nay nằm trong tay chư tăng, còn chư ni và thiện nam tín nữ không có một trọng trách quyềt định trong tổ chức; nguyên tắc tổ chức đã bị lỗi thì sự vận hành bị treo máy là chuyện tất yếu, đáng ra 26 năm có mặt, GHPGVN phải đạt một kỳ tích giữa lòng dân tộc thái bình, ngược lại, tầm hoạt động yếu dần, ảnh hưởng PG bị thu hẹp trước sự lớn mạnmh của tôn giáo bạn, với tình trạng nầy, PGVN không bao lâu nữa sẽ đi vào con đường thụ động của PG Nam Triều Tiên và bị động như PG Thái Lan trước tinh thần quá khích của Hồi giáo.
Đừng nghĩ rằng PGVN hiện nay có vài trăm học vị Tiến sĩ, có khoảng 30.000 ngôi chùa và gần 40.000 tu sĩ, đã đạt hơn PGTN trước 1975; thống kê không nói lên được thực chất của vấn đề; Cơ cấu giáo dục và cơ sở giáo dục, hệ thống Hoằng pháp và cán bộ Hoằng pháp có bề mặt nổi nhưng chưa giải quyết được tính âm trì của lực lượng PGVN hiện nay; không lấp được khoảng cách xa dần quần chúng vì những tệ hại của những thành phần biến chất; Một tăng đoàn Làng Mai, một lượng số tu sĩ chân tu của hệ thống Trúc Lâm Thiền Viện, một chỗ an trú cho tín đồ Tịnh độ của chùa Hoằng pháp, một nghệ thuật thuyết giảng vào lòng quần chúng của Phật Quang Núi Dinh, cũng chưa đủ cho PG lấy lại phong độ của quá khứ và chưa tạo cho đại bộ phận xã hội VN vững tin vào sự chân thành của tu sĩ hiện tại; Những tăng sĩ du học trở về cầm mãnh bằng Cao học, Tiến sĩ vẫn không thay đổi được thực trạng, hoặc thiếu khả năng, hoặc bị khống chế bởi tổ chức . Một số ít vị có tâm, có tầm, không thoát khỏi sự đố kỵ nội bộ, bị áp lực từ nhiều phía, nhưng cố gắng làm được một số việc cần thiết, có lợi cho cho xã hội trong giáo dục, văn hoá, từ thiện và nghệ thuật, những vị như thế thật ít ỏi, hình như có một không hai hiện nay!

Sai lầm quá khứ và thiện chí hiện nay

Chủ thuyết Marx triển khai tại VN, Đảng CSVN chỉ thấy đó là con đường duy nhất lãnh đạo đất nước, tiến lên XHCN, tất cả hội đoàn tôn giáo phải được vào tổ chức chung để quản lý, vì nhà nước CS nghĩ rằng, tất cả phải phục vụ cho XHCN; Tôn giáo chỉ là phương tiện dân vận, huy động quần chúng hưởng ứng và thực hiện chính sách của đảng và nhà nước, ngoài nhiệm vụ đó, tôn giáo không thể phát triển, và không cần phát triển, Kito giáo được sự bảo kê của tòa Thánh, các tôn giáo khác như Phật, Khổng, Lão, đã không bảo toàn được lực lượng; Các chức sắc giáo phẩm phải phục vụ cho tôn giáo của nhà nước quy định, ai không thích ứng, tự mình chọn con đường đào thải của guồng máy xã hội lúc bấy giờ; Các cơ sở thờ phượng, đình chùa miếu mạo phần lớn bị san bằng hoặc trưng dụng; Đó là sai lầm lớn của một học thuyết xem nhẹ tổ chức tâm linh; dưới mắt Duy Vật, tôn giáo là hiện tượng đảo ngược xã hội khách quan, mang tính phản động từ tiềm thức, là một trở lực của sự tiến hoá khoa học. Quan niệm nầy đúng một phần với Thần học, riêng PG, hoàn toàn sai;

Đạo đức tôn giáo cũng bị xem là sản phẩm của Phong kiến, tư sản, chính vì thế mà hậu quả thiếu đạo đức, ngoài xã hội cũng như trong học đường, ngày nay trở nên tệ hại.
Ngoài vật chất, tín ngưỡng tâm linh là tố chất tối cần để cuộc sống có ý nghĩa hơn. Xã hội phương Tây, vật chất sung mãn, tín ngưỡng Thần học không đáp ứng đủ nhu cầu tâm linh, vì thế tự tử, bắn giết, thác loạn phạm pháp trở thành cơm bữa.
Sau khi mở cửa, nhà nước nghiêm túc nhận định lại giá trị của từng tôn giáo, nhưng cũng chỉ trên mặt học lý, có cởi mở và thoáng hơn, đưa đến tình trạng dễ dãi, phát sinh nhiều tệ nạn mới trong Phật giáo, trong đó mê tín nơi quần chúng và cửa quyền trong chức sắc GH phát sanh. Những hình thái mê tín mà trước đây bị lên án, nay được coi là truyền thống tín ngưỡng dân gian, văn hoá dân tộc, tự do phát triển!
Các tỉnh phía Bắc, thiếu cán bộ PG có trình độ Phật học, không hướng dẫn quần chúng sinh hoạt đúng tinh thần PG, từ đó,Tứ Phủ, đồng bóng, vàng mã, xin xăm bói quẻ phát triển nơi Thiền môn; chùa, sư không biết hầu Đồng, sẽ bị quần chúng xa lánh!
Các tỉnh phía Nam, múa Rỗi, một biến dạng của Tứ phủ ít tràn lan nơi cửa chùa, chỉ xuất hiện trong dân chúng tư gia; nhưng hình thức mê tín khác vẫn tồn tại, một số sư duy trì vì cuộc sống; một bộ phận quần chúng Phật tử hiểu đạo và các sư có trí thức cũng phát triển được một hình thái PG trong sáng hơn, tuy nhiên, vì quyền lợi, một số sư nương PG tìm lợi nhuận dưới hình thái khác, một dạng kinh doanh tín ngưỡng, áp phe quyền lực, lạm dụng chức quyền sách nhiễu tu sĩ, vẽ vời với tín đồ kém hiểu biết…
Một ít sư cán bộ GH, có quyền thế, thường cấu kết với các viên chức nhà nước như Công An, Ban Tôn giáo một vài địa phương, biến chất, đôi bên cùng có lợi mà chỉ có tu sĩ và tín đồ phải gánh chịu những khó khăn khi hữu sự, lúc cần đến sự ký nhận của GH , hay xin phép chỉnh tu cơ sở…như TP HCM, Bình Phước… tại Đồng Tháp, chính quyền thao túng với các sư bê tha làm đình trệ Phật sự tỉnh, những thành phần tốt trong BTS không hợp tác với phần tử xấu, chính quyền làm áp lực buộc họ giao lại con dấu, hồ sơ cho những kẻ có hậu thuẩn từ chính quyền, Ban tôn giáo và Mặt trận tỉnh làm thỉnh nguyện thư xin Trung Ương Gh bổ cử người theo ý họ…
Một số địa phương xa, quen thói bao cấp,chính quyền quản lý cả thùng công đức, bán vé vào cửa nơi danh lam thắng cảnh; sai khiến, cấp phát lương thực cho sư, xem sư như một ông từ giữ chùa cho nhà nước. Nếu sư không đồng ý, sẽ không được địa phương cho cư trú;

Các chức sắc GH phần lớn không muốn thay đổi cơ chế sinh hoạt hiện nay, vì sợ ảnh hưởng quyền lợi cá nhân, cho dù GH chỉ còn là cái vỏ. Những nhân sự GH đều có ô dù riêng, chổ dựa riêng, vị thế chức sắc trong GH đã ngầm xác định thành phần lý lịch bản thân, ngoài xã hội cũng như trong PG, địa vị là món quà đáp đền ơn nghĩa đã có công đóng góp với cách mạng trong quá khứ,vì vậy quyền lợi họ quan trọng hơn quyền lợi PG. Những tu sĩ có khả năng, không chịu dưới sự chi phối của họ, thường bị áp lực, dè xiểm và bị hạn chế khả năng đóng góp!
GH không có khả năng điều động tu sĩ về nhiệm sở vùng sâu, vùng xa thiếu tiện nghi vật chất, các tu sĩ hoàn tất học trình, thường thích ở lại thành phố, một số ít vị chân tu, ngán ngẩm sự tha hoá của tu sĩ thị thành, họ về lại chùa quê thầy tổ để an thân tu tập, họ không có quyền tự do hoằng hoá vùng quê khi không được GH bổ cử. Ngay cán bộ được GH chỉ định, một số địa phương,chính quyền không chấp nhận cho cư trú, cũng phải khăn gói trở về, thường là do người được bổ cử, không biết điều với GH và chính quyề địa phương; một số cán bộ chính quyền vùng xa, còn bảo lưu tính bao cấp chuyên chế, xen vào nội bộ PG mà Ban Trị Sự sợ mất chức quyền, đành phải im lặng, không dám lên tiếng bênh vực quyền lợi cho PG, cho tu sĩ của mình.Chẳng những thế, Chánh Đại Diện còn hùa theo địa phương để triệt hạ chùa chiền như quận 2, chùa Nam Đào, vì địa phương thấy được giá trị to lớn của khu đất mà chùa đang tọa lạc. Cứ như thế, giữa cán bộ GH và chính quyền sở tại chỉ thấy quyền lợi mà không cần lòng dân. Dĩ nhiên đây là cá biệt chứ không phải chính sách, tuy chẳng đẹp gì cho đất nước!

Tất cả những tệ nạn đã và đang có trong PGVN hiện nay, song hành với các tệ nạn trong xã hội, phát xuất từ cội nguồn quản lý sai lệch, xem PG chỉ là một cơ chế tổ chức trong xã hội chứ không phải là một thể cách Tâm linh!
Nhà cầm quyền muốn giải quyết bế tắt PGVN hiện nay, muốn bù đắp cái gì đó để sửa sai trong buổi giao thời 1975, cũng như trong quá khứ khi chủ thuyết CS phủ trùm lên miền Bắc; PG bị xóa sạch gần hết, chỉ còn vài biểu tượng .Khi CSVN không còn chổ dựa quốc tế, họ quay về với dân tộc, tôn danh văn hoá truyền thống dân tộc, trong đó có PG và tín ngưỡng dân gian, họ không biết bắt đầu từ đâu để khôi phục tín ngưỡng truyền thống có nề nếp, đạt hiệu quả, để xã hội có đủ những nguyên trạng như các quốc gia trong khu vực, hổ trợ, giúp đỡ các chức sắc GH hiện tại, càng tạo thế ỷ lại, cậy quyền của một số cán bộ PG; hoặc tỏ thiện chí với thành phần dị kiến bằng sự khẩn thiết, để rồi từ bế tắt nầy phát sanh bế tắt nọ, họ đâm ra lúng túng. Nhà nước hiểu rằng, một đất nước phồn vinh, để bắt kịp đà tiến hoá thế giới, phải cần một xã hội đồng bộ và ổn định, không chỉ an ninh chính trị, còn cần ổn định tâm lý tôn giáo, nhất là PG còn chông chênh, rạn nứt.

Nhà nước tạo điều kiện để HT Huyền Quang hoà nhập với sinh hoạt tôn giáo hiện tại, nhưng kết quả không như mong đợi.
Nhà nước mời Ts Nhất Hạnh về làm nhịp cầu cảm thông cho các bất đồng trong PG, cũng bị những cực đoan phá vỡ.Cũng như trong quá khứ, qua trung gian một vài chức sắc PG cũ để gỡ bí, cũng không thành, phải chăng vận mệnh PGVN phải như vậy hay do tính cố chấp bảo thủ của cấp lãnh đạo PG mà PGVN phải u uẩn chiều Thu?
Nhà nước đã ra Bạch thư tôn giáo
Chính sách thông thoáng hiện tại, ngoài 6 tôn giáo được chấp nhận sinh hoạt hợp pháp, nhà nước cho đăng ký tiếp những tông môn hệ phái mà Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Tịnh Độ cư sĩ đang được xét duyệt nay mai, phải chăng đây là lối thoát cho những ai đứng ngoài GHPGVN, chuyển mình hợp lệ, vượt qua những cấn cái lâu nay, để hoà nhập vào sự phát triển PG nói chung mà trên 30 năm nay tự mình trì trệ, bế tắt!
Nhà nước cố gắng tạo nhiều nhịp cầu, mở nhiều lối thoát, liệu PG có bắt kịp thời cơ để thăng tiến, liệu các thành phần đối đầu có nắm lấy cơ hội để mở đường sống cho tổ chức mình hay vẫn một mực chấp nhận chết trong tức tưởi cô đơn!
Về quan điểm giải tỏa những mắc mứu nội bộ PG thì như thế, việc nới tay cho các hình thái sinh hoạt cộng đồng, có lúc dễ dãi quá mức, lắm khi khó khăn đến độ vô lý thể hiện tính bất nhất của cán bộ và thống nhất của chính sách
Một số thị thành trùng tu cơ sở tôn giáo không nằm trong quy hoạch tổng thể đô thị, mỹ quan thành phố và văn hoá PG, tính dể dãi của nhà nước và tự phát của tu sĩ PG kém trình độ mỹ thuật, dẫn đến hao tốn kinh phí vô ích mà không đạt tầm vóc cần thiết, ngược lại, một số địa phương xa, như Daklak chẳng hạn, các chùa trên 40 năm, chùa Liên Trì, xuống cấp trầm trọng, chỉ xin trùng tu chứ không tái thiết quy mô, thế mà vẫn không được chấp thuận, 800 hộ dân PG đành bấm bụng nhìn cảnh hoang phế của ngôi Tam Bảo, cách đó không xa, một nhà thờ chỉ có 300 hộ dân, kinh phí trên 3 tỷ, đã hoàn tất hoành tráng. Những nơi cần giúp, không giải quyết thỏa đáng, tạo hiểu lầm chán nản trong quần chúng, người Phật tử có cảm tưởng bị thiên vị, đâu còn chí công vô tư! Những khó khăn đó, hoặc do sự e dè trách nhiệm lâu dài, hoặc cán bộ chức quyền muốn vòi vĩnh, hoặc vì thành kiến tôn giáo, hoặc chứng tỏ uy quyền của chức năng…Bảo rằng không đủ thủ tục hành chánh hay các nguyên nhân pháp lý, thật ra giúp quần chúng có nơi thờ phượng, sinh hoạt tôn giáo, những lý do trên đây không phải là việc bế tắc.
Nhà nước cũng như quần chúng PG không muốn tình trạng trì trệ của PGVN hiện nay, muốn chỉnh đốn, họ cũng không biết bắt đầu từ chổ nào; duy trì nhân sự và ban bệ cũ thì không những không cải thiện mà còn nát bét như tương; kiêm nhiệm quá nhiều chức mà không chức vụ nào hoàn thành, trong khi rất nhiều tu sĩ và cư sĩ có năng lực khoanh tay đứng nhìn tiền đồ PG đang rệu rã. Hiện trạng PG, trong cơ cấu tổ chức, trên nói dưới không nghe, tuy nề nếp tông môn vẫn còn tôn ti trật tự.Một số BTS, BĐD có thay đổi, hoán chuyển nhân sự, nhưng không đủ can đảm trọng dụng nhân sự trẻ có năng lực, không biết dùng trợ lý phụ tá giỏi, không tận dụng cư sĩ có năng lực, không có óc sáng tạo, làm theo lối mòn. GH nầy cứ như chỉ dành riêng cho tăng sĩ. Những nhân sự có tài, không dám vượt quyền và áp dụng sự sáng tạo trong công việc, vì không dám qua mặt các Ôn, chưa được các Ôn cho phép hoặc không dám biểu lộ tài năng, sợ tạo thành kiến, đố kỵ, ganh ghét nơi đồng sự…
Thay đổi, bổ sung nhân sự chưa phải là liệu pháp nếu Hiến chương không được điều chỉnh, vì Hiến chương là khuôn thước chỉ đạo để hành hoạt, là mô hình để vận hành. Một tổ chức mạnh không chỉ có năng lực mà luận cương, đề án, Hiến chương phải thoáng, hoàn chỉnh, thể hiện tính dân chủ tác động sự hiệu quả của tổ chức bề rộng lẫn bề sâu.Một Hiến chương GH trên 25 năm trở nên lỗi thời, không thích hợp với đà tiến của xã hội, tự mình đi lùi nếu không nói là ngăn trở mọi tiến hoá của tập thể. Chức sắc đầu ngành thuộc hàng trưởng lão luôn cản trở công việc vì tính thụ động bởi tuổi tác và năng lực cống hiến.
Canh tân PG có cần thay đổi Hiến chương, có cần thay đổi nhân sự, có cần làm mới tổ chức nếu không giải tỏa mọi chông chênh trong cộng đồng PG?
Canh tân PG có cần sự hổ trợ từ luật pháp, có cần sự góp tay của tăng sĩ, cư sĩ, ni giới từ trong và ngoài nước?
Canh tân PG có cần phải canh tân tổ chức hay canh tân con người?
Đó là vấn đề cần đặt ra cho PGVN hiện nay.

MINH MẪN
09/3/07

*******************







CANH TÂN PHẬT GIÁO (bài số 4)


HÌNH THÁI TỔ CHỨC (1)

Có người nghĩ rằng, Phật giáo vốn là một chân lý bất di bất dịch, không cần phải canh tân; nói như vô thưởng vô phạt thế thì PG cần gì phải tổ chức. Trong thời đức Phật còn tại thế, Phật cũng lập một giáo đoàn, giáo hội, tuy không quy mô ban bệ, chỉ cần 4 vị trở thành một Giáo Hội, không nặng về cơ cấu tổ chức hành chánh, bởi lẽ xã hội lúc bấy giờ chưa có nhiều nhu cầu hội đoàn, đời sống còn đơn giản, các tập đoàn trong xã hội chỉ là những tôn giáo và các doanh nhân độc lập, chưa kết thành tập thể.

Suốt nhiều thập kỷ, PG phát triển theo tông môn; sinh hoạt tông môn mang tính cơ chế hệ tộc gia phong, vì thế, ngoài sự liên kết chặt chẽ tình cảm, còn mang nặng truyền thống giáo hoá, hành đạo chuyên biệt của môn phái. Mỗi môn phái, tuy sắc thái tôn chỉ đặc thù nhưng không hề chướng ngại chống chỏi nhau, vì thế PG phát triển thật ôn hòa và đồng bộ. Nhưng, từ khi PGVN đi vào hệ thống hoá tổ chức, các tông môn vẫn duy trì sắc thái cá biệt của mình, ít nhiều vẫn bị chan hoà, chi phối lẫn nhau, vì thế, trong tổ chức vẫn gặp phải những lỏi chỏi vì cơ chế PG không có giáo quyền, không có chế tài, đưa đến hệ quả trì trệ, dẫn theo những trì trệ trệ tha hoá của những thành viên bị chi phối bởi cái chung, pha loãng cái riêng của từng tông môn; để rồi, ngày nay, tại VN phần lớn không ai biết mình đang hành trì pháp môn nào, do tính hoà nhập pha trộn đó mà cố HT T. Thiền Tâm đã khởi xướng Thiền Tịnh Mật viên dung.

Qua những hiện tượng bất cập trong PGVN, những nhà có trách nhiệm, nhất là chư tôn túc và hàng hậu học, kể cả giới bạch y đang kêu ca, báo động, đòi hỏi một sự thanh lọc, canh cải, xét lại phương cách giáo dục, truyền bá, tổ chức, hành trì, nhất là nội lực và phẩm hạnh của tu sĩ trước nhu cầu cấp bách của xã hội hoá trong thế giới đa nguyên hiện nay.

Canh tân thế nào và canh tân cái gì?

Nhu cầu trước mắt của một tổng thể PGVN là tổ chức Giáo Hội PGVN. Nhiều người tâm huyết đưa ra nhiều mô hình cho một ngôi nhà chung, nhưng từ cơ bản vẫn chưa giải quyết những bất đồng để cái chung đó mang tính thống nhất và hiệu quả của thống nhất.

Gần đây, một tài liệu phát tán trong cộng đồng PG tại TP HCM đưa ra mô hình và hiến chương cho một Tổng Giáo Hội PGVN, nhưng còn quá nhiều thiếu sót, họ dựa trên mô hình tổ chức của GHPGVNTN trước 1975, thay đổi một vài danh xưng, thêm bớt vài vụ và tổng vụ… nhưng chưa đủ tầm vóc của một GH mang tầm vóc quốc gia. Hiến chương thì quá đơn giản. Nhất là yếu tố pháp nhân của từng GH và nguyên tắc thống nhất các GH.

Sau 1981, một GHPGVN ra đời, được coi là GH duy nhất đại diện cho PGVN, trên nguyên tắc là vậy, nhưng thật tế không thể! điều nầy quá rõ, hậu quả đưa đến cái bất toàn cho hiện tại. Một phần trách nhiệm bắt nguồn từ cơ quan chủ quản Tôn giáo của nhà nước, nóng vội, chủ quan và áp đặt, thiếu tôn trọng các đối tượng và đối tác để hình thành một PG chung. (Đổ Trung Hiếu là một ttrong những người tạo hậu quả khó khăn cho nhà nước và PG hiện nay). Còn GHTN, trên danh xưng tồn tại bởi hào quang quá khứ, nhưng thực tế không có thực lực, không có quần chúng và không có nhân sự. Phương thức đấu tranh trên 30 năm tự đưa mình vào thế bế tắt bị động, ngày càng suy giảm nội lực, biểu lộ cái bất toàn qua phản ứng và hành xử, giảm uy tín của một tầm vóc mà quá khứ đã có. ( thậm chí người lãnh đạo tối cao có những ngôn ngữ nóng nảy, không tương xứng vai trò lãnh đạo. Nhân sự thừa hành thiếu đĩnh đạc, nông cạn, ồn ào và bộp chộp; đó là sự hổ thẹn cho PGVN chứ không thể hãnh diện với lời lẽ thiếu ái ngữ nơi một tu sĩ lãnh đạo một tôn giáo. Còn GHPG hợp pháp thì không chứng tỏ bản lãnh quyết định của mình trước nhiều yêu cầu cấp bách; không có sáng tạo để cởi trói hoặc không dám đưa ra một sáng tạo, sợ mích lòng bề trên đưa đến lung lay chiếc ghế danh lợi đang có.

Do những bế tắc của tình trạng PGVN hiện nay, rất nhiều người nhiệt tâm với đạo mong muốn có sự chuyển mình để PG có sức sống theo kịp toàn cầu hoá mà đất nước đang bị cuốn hút vào quỷ đạo chẳng đặng đừng! vì thế có nhiều sáng kiến, mỗi sáng kiến chỉ thể hiện một khía cạnh khả dĩ, nhưng toàn bộ không thể khả thi.

Thử phân tích mô hình của một Tổng GH đã nêu trên:
Trước nhất là danh xưng, Tổng GH có nghĩa chấp nhận có nhiều GH hiện hữu. Nhiều GH có nghĩa có đủ yếu tố pháp lý và pháp nhân theo luật pháp hiện hành. Nhưng nhà nước hiện nay chỉ chấp nhận GHPGVN là GH duy nhất của PGVN. Có người nghĩ rằng, không cần lệ thuộc pháp lý, từ lâu các tông môn hệ phái vẫn tồn tại, duy trì và hiện hữu; tông môn hệ phái là chi phần của một GH. Nói đến GH là nói đến một tổ chức bao gồm nhiều hệ phái, điều hành sinh hoạt theo nguyên tắc hành chánh. Một tổng GH có nghĩa gồm nhiều GH chứ không phải có nhiều hệ phái. Muốn có một tổng GH là các GH phải đủ yếu tố pháp nhân, nhưng hiện nay, ngoài GHPGVN hiện tại, GH nào đủ yếu tố pháp nhân? Không đủ yếu tố pháp nhân thì dựa vào cơ sở pháp lý nào để cùng ngang cấp ngồi với nhau bàn chuyện Tổng GH? Đó là mới đặt vấn đề pháp nhân; chưa nói đến quan điểm bất đồng để có thể ngồi lại , ví dụ:

Quý ngài lãnh đạo GH hiện nay xem những vị bên GHTN là tay sai ngoại bang, hay ít ra là đi chệch hướng quyền lợi dân tộc, tiếp tay cho ngoại bang và những thành phần quá khích. Nhưng thật tâm quý ngài vẫn ngại uy tín và tài năng của đối lực đe doạ quyền lợi của mình. Không muốn ngồi chung nói chuyện với GHTN.
Quý ngài lãnh đạo GHTN thì tự hào cho mình là GH truyền thống dân lập, không làm tay sai như GH đương nhiệm, hãnh diện giữ vững lập trường trước sau như một, không ngồi chung với kẻ khom lưng, nhưng thực chất cái gọi là lập trường kiên định đó chỉ để thoả mãn tánh cố chấp hận thù mà không đem lại lợi ích gì cho PG, đưa tập thể vào bế tắc, để bên ngoài lợi dụng tung hô. Nếu thật tâm vì sự tồn vong cho PG thì phải tìm cách cởi trói những bế tắc trên 30 năm nay. Nếu bảo rằng ai cột, người ấy mở nghe cũng đúng đấy, nhà nước VN nhiều lần đã tạo điều kiện để nội bộ PG tìm lối thoát, nhưng những cơ hội vàng đó đã bị hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai, tự mình bít lối để tồn tại một hào quang đối lập số một tại VN, một hư danh vừa tổn hại cho thực lực PG, vừa trì trệ bước tiến của dân tộc.

Muốn có một Tổng GHPG nói trên, phải có những GH đủ tư cách pháp nhân, muốn những GH đủ tư cách pháp nhân, phải cho đăng ký sinh hoạt GH; hiện nay nhà nước mới công nhận sáu Tôn giáo lớn, nghĩa là các tôn giáo có tín đồ, có cơ sở đang sinh hoạt, về phía Ban Tôn Giáo chính phủ vẫn một mực không chấp nhận GHTN là một thực thể, chẳng những thế, GHTN trong nước càng ngày tự mình càng xa rời quần chúng, đánh mất tình cảm của giới trí thức bởi văn phong ngôn cách của giới lãnh đạo và cán bộ của GHTN, bị đánh giá thấp dưới mắt các nhà chiến lược chính trị; và quần chúng phật tử thất vọng trước một tập thể lãnh đạo thiếu linh động.
Xét như thế, GHTN làm sao cùng vào bàn với GH hiện nay để làm nên cái gọi là Tổng GH, một lối thoát cho PGVN? Nghĩ rằng bất hợp tác để lên án nhà nước VN về vấn đề Tự Do Tôn Giáo, đối với nhà nước, có GHTN hay không cũng chẳng quan trọng, nhưng quan trọng là GHTN tồn tại để làm gì, có lợi gì cho PGVN và cho bản thân GHTN, vì GHTN chịu hoá giải hay không thì nhà nước vẫn là một thực thể, đang tồn tại và bắt tay với quốc tế, tại sao GHTN không thương mình mà đòi nhà nước phải thương mình?

Ý kiến một Tổng GH như thế là một thiện ý, nhưng người đưa ra mô thức đó không nắm vững những mắc mứu về lý cũng như tình hiện nay trong PGVN. Chư tôn túc cổ thụ PGVN hiện nay đều ngang cơ, ngang tầm, không ai đủ uy tín và uy đức vượt trội để làm mắc xích kết nối những mảng rời của tổng thể PGVN hiện nay, biến PG thành một tổng lực đạo đức và giáo dục, trả PG trở về một thể năng trí tuệ, tâm chứng góp phần xây dựng dân tộc như Lý Trần. PG không thể là một lực lượng tôn giáo thế tục đe doạ tính an nguy của một thể chế. Đoàn kết PG không chỉ là ý thức trách nhiệm của các chức sắc PG, mà còn là bổn phận của nhà nước và sự đoàn kết của tín đồ.

Năm 2005, Thiền sư Nhất Hạnh về, mọi người hy vọng có luồng gió mới cho đạo Phật do uy tín và tầm vóc của Thiền sư trên trường quốc tế và tình đồng đạo đối với quốc nội mà từ lâu mọi người đã dành sẳn.Thế nhưng, trước ma lực không muốn có sự đoàn kết trong PG, từ mọi phía, họ đã khích động vào ý thức chính trị hẹp hòi của các nhà lãnh đạo PG trong nước, biến tình đồng đạo thành chướng đạo, biến tình cảm thành ác cảm, một sự phá vỡ ngoạn mục và thành công, để PG VN chông chênh mãi đến nay, quần chúng áy náy đau buồn, nhưng các chức sắc PG vẫn bình chân như vại. Thêm vào đó, một số tu sĩ chống đối ngầm Thiền sư vì đố kỵ uy tín nhưng quên nghĩ đến tiền đồ của đạo Phật.
Có người nghĩ, muốn Canh Tân PG, trước tiên Canh Tân tổ chức GH, mô hình một Tổng GH như thế không thể thành tựu. Đó là giải pháp bất khả thi. Ta hãy tìm xem các giải pháp khác trong loạt bài Canh Tân PGVN tiếp theo.

MINH MẪN
06/6/07

*****************


CANH TÂN PPGVN (bài thứ 5)



HÌNH THÁI TỔ CHỨC (2)

Chúng ta đang lắng nghe những ý kiến Canh Tân PG qua Hình Thái Tổ Chức của một số vị ưu tư cho tiền đồ Phật Giáo VN, trong đó, cư sĩ góp mặt không nhỏ, không những bằng sáng kiến, bằng tư duy, bằng phát biểu mà còn thể hiện trong đời sống thường nhật Hộ trì Tam Bảo. Canh Tân 4 vừa rồi là một trong những hình thái nói về tổ chức của loạt bài Canh Tân PG.

Canh Tân 5, xin được nêu ra ý nguyện của một Phật tử đứng tên: Ngô Cơ Điềm, PD Như Tĩnh.
Qua Thư Thỉnh Nguyện của Ngô Cơ Điềm kính dâng: Đại lão HT Đệ Tứ Tăng Thống- Đại Lão HT Viện Trưởng VHĐ vào mùa Phật Đản 2550 và bài Tham Luận mang tên: Xiểng Dương Chánh Pháp& Bảo Vệ Dân Tộc cùng tác giả, không ghi ngày tháng, sau khi hoàn tất thủ tục – Kính Bạch, kính thưa, tán thán công đức của nhị vị HT, nêu một số bất như ý trong giới tăng lữ hiện tại trong nước, hơn một trang rưỡi giấy khổ A 4, Ngô Cơ Điềm nêu 7 thỉnh nguyện thư như sau:

Một là: Xét rằng, pháp thể của nhị vị Tôn Túc đã quá yếu nên không thể để cho thời gian làm xói mòn theo ý đồ của nhân thế; Khi GH không còn ai xứng đáng để kế thừa, kể cả những vị đã và đang được nhị vị phong cách hiện nay trong hàng ngũ GH, trừ HT Thiện Hạnh và TT Tuệ Sĩ, cùng một số tương đối khác. Tuy có tích cực nhưng năng lực còn quá giới hạn.

Hai là: Xét rằng PGVN đã đến lúc phải triệt để áp dụng tinh thần BI-TRÍ-DŨNG, phải can đảm nhìn lại sự thật, đừng tiếp tục bưng bít dấu diếm những biểu hiện tiêu cực trong PG về một số vị thiếu Đạo phong, Đạo kỷ của tầng lớp tăng lữ hiện nay trong các tổ chức gọi là GH. Thật sự mà nói: Hiện nay không mấy ai tin vào tổ chức nầy nọ của PG, kể cả GHPGVNTN, vì hàng tăng lữ PGVN xem tổ chức GH là cứu cánh trong nếp sống thường nhật, để rồi quên mất nếp sống cao quý của bậc Thiên nhân chi đạo sư. Đã là bậc Thiên Nhân chi đạo sư thì phải triệt để xiểng dương Tam Lậu Học của nhà Phật. Trong Tam Lậu Học: Giới là kim chỉ nam của một hành giả tu tập.

Ba là: Xét rằng, Ngôi nhà PGVN cần phải có sự góp mặt của nhị vị Tôn Túc trong vấn đề củng cố nội lực cho hàng Tăng lữ hiện nay. Xin nhị vị đừng quan tâm nhiều đến chuyện nầy nọ nữa. Song, nếu có tổ chức GHPG thì tổ chức ấy cũng rất cần đến nhị vị tôn túc lãnh đạo và cộng tác chân tình trong quan điểm: Xây dựng một ngôi nhà PG VN lý tưởng trong tương lai. Hiện nay trong dư luận rất khát khao muốn biết quan điểm ấy của nhị vị Tôn Túc.

Bốn là: Xét rằng, muốn triệt để xiểng dương lý tưởng Tam lậu học trong hàng ngủ tổ chức Tăng lữ VN nói riêng, trong hàng ngủ tổ chức GH nói chung; để khiến cho hàng Phật tử tại gia chúng con đang ở trong cũng như ngoài nước; cùng những quan chức chính thể trong xã hội: Tâm phục khẩu phục đối với một Tín ngưỡng Đạo giáo luôn tự hào là đã có nhiều công sức trong tinh thần giữ nước và dựng nước; xuyên suốt hơn hai nghìn năm lịch sử PGVN.

Năm là: Kính mong nhị vị Tôn Túc hoan hỷ, ân xá tất cả những gì không vừa ý của nhị vị Tôn Túc trong tinh thần khoan dung độ lượng, vô ngã vị tha của nhà Phật. Để từ đó, từng bước chư vị Tôn Túc trong ngôi nhà chung của PGVN sẽ hoan hỷ ngồi lại với nhau để tìm ra một Kế Sách khả thi nhất. Có thể giải toả những mắc mứu trong nội tình của PGVN kể từ sau ngày đất nước thật sự và vĩnh viễn được hưởng Hòa Bình Độc Lập và Thống Nhất. Xoá bỏ tất cả quá khứ dù chuyện như mới diễn ra ngày hôm qua.!!!

Sáu là: Cần gấp rút mở ra một cuộc Đối Thoại “ Hiểu để mà Thương”.
Dân tộc nầy vốn đã trải qua bao năm tao loạn vì chiến tranh, Đạo pháp cũng từ đó mà biến thiên nhiều cách, lòng người cũng từ đó mà nảy sinh ra nhiều quan điểm có phần cá nhân quái lạ.. Khiến hàng Phật tử tại gia chúng con mỗi lần nghĩ lại phải giật mình. Song chúng con xem đó như một cơn ác mộng và mong sao sớm có ngày chấm dứt.

Bảy là: Kính mong nhị vị Tôn Túc thử nêu đề án mà vị thầy quá cố của chúng đệ tử đã thành kính dâng trình lên nhị vị Tôn Túc từ lâu. Để xem dư luận trong quảng đại Tăng Tín đồ PGVN trong cũng như ngoài nước, cũng như Thể chế đương thời có đồng tình hay không (?!)

Gọi là bảy Thỉnh nguyện, thật ra chỉ có ba điều mang tính Thỉnh Nguyện, ngoài ra là nhận xét. Và Ngô Cơ Điềm tiếp theo ước vọng của mình:
Ngôi nhà lý tưởng của PGVN trong tương lai sẽ do ba cấp GH lãnh đạo về cả ba phương diện: Đời-Đạo và Bồ Tát Hạnh. Ba cấp ấy là: Một là biểu thị về lập pháp có Hội Đồng chứng minh( giáo phẩm). Hai là biểu thị về Hành pháp có Hội Đồng Viện Hoá Đạo ( Hội Đồng Trị sự TW). Ba là biểu thị về Tư pháp có Viện Tăng Thống.
Phương pháp bầu cử, ứng cử: độc lập, tự nguyện của toàn thể Tăng Tín đồ trong và ngoài nước. Theo thể thức Đại cử tri và lấy các BĐD PG đương thời trên cả nước làm đơn vị Bầu cử và ứng cử.

Phương án Đối thoại: Hai bên GH hoan hỷ ngồi lại với nhau sau khi nhà nước CHXHCNVN chấp thuận đề án do hai GH đề xuất đúng với tuần tự của luật pháp đã quy định trong các điều khoảng của Nghị định về Tôn Giáo&Tín Ngưỡng.

Sau khi đối thoại đạt được những quan điểm đồng nhất để tiến tới bước kế tiếp là: Hai GH đều tuyên bố Giải thể thông qua nghị quyết một Đại hội hay một Hội nghị của mỗi GH. Thứ đến bầu ra Ban Vận Động Tổ chức Bầu cử và ứng cử có chức năng như sau::
-Quy định số Đại biểu trong hai Hội Đồng: Chứng Minh (Giáo phẩm) và Hội Đồng VHĐ (HĐTSTW)
- Đúc kết ứng cử viên của hai Hội Đồng
- Địa điểm và thời gian tổ chức Đại Hội để bầu cử Hội Đồng Chứng Minh, chư HT đắc cử sẽ bầu ra các chức danh cho HĐCM.( HĐGP)
Chư vị HT,TT,DĐ, Tăng ni và hàng Thiện Tri thức Phật tử đã đắc cử vào HĐVHĐ (HĐTSTW) sẽ ngồi lại với nhau để bầu các chức danh trong HĐVHĐ (HĐTSTW). Sau đó Ban vận độnbg tổ chức Bầu cử, ứng cử xem như giải thể, vì đã hoàn tất nhiệm vụ.
Cuối cùng, HĐCM sẽ suy cử các chức danh trong Viện Tăng Thống, HĐVHĐ sẽ long trọng tổ chức lễ Tấn Phong Viện Tăng Thống.
……………………………………….

Ý chung của tác giả muốn hai GH cùng đối thoại, tìm ra điểm đồng nhất, sau đó giải thể và lập Ban Vận Động Tổ chức Bầu và ứng cử.
Tại sao tác giả chỉ Thỉnh Nguyện cho 2 vị HT thuộc GHTN trong khi muốn hai GH cùng đối thoại với nhau?
1/ có lẽ theo tác giả, mắc mứu chính thuộc GHTN và tính nan giải cũng thuộc GHTN
2/ Có lẽ tác giả thấy sự bế tắt của hai HT nên đưa thỉnh nguyện riêng cho các ngài.
Nếu mục đích Thỉnh Nguyện nhị vị HT chấp nhận ngồi lại với GH đương nhiệm tìm lối thoát, tại sao tác giả đưa thêm mô hình tổ chức để các ngài thẩm định, mà đáng ra phải để hai bên tự tìm mô hình thích hợp, chẳng khác nào mình vẽ sẳn đường đi rồi mời các ngài nhập cuộc! cái cày đặt trước con trâu!
Mô hình tổ chức hoàn toàn giống mô hình GHTN cũ, chỉ thêm PG Đối ngoại. Như vậy đi vào lối mòn, chẳng có sáng kiến gì mới đủ khả năng giải quyết tình hình thực tế hiện nay đang bế tắt.

Mục đích chính là giải quyết bế tắt chứ không phải đưa ra mô hình tổ chức, nếu cùng hoà hợp được, các Ngài còn có những mô hình tổ chức hay hơn thế .
Bốn tờ A 4 thỉnh nguyện để thống nhất PG, chỉ nêu ra ba câu duy nhất: Phương án đối thoại…mà không có kế hoạch đối thoại cụ thể.Làm thế nào để đối thoại khi mà GHTN chưa đủ tư cách pháp nhân? Và ai đủ tư cách đứng ra khởi xướng Đối thoại?
Giả thử GHTN đăng ký Tổ chức sinh hoạt GH để có tư cách pháp nhân, theo Văn Bản Pháp Luật VN về Tín ngưỡng, Tôn giáo, thì tình trạng GHTN thuộc chương nào, mục nào, điều khoản nào đã quy định?
- Liệu các ngài GHTN có chịu ngồi lại với chư vị Tôn Túc GHPGVN hiện nay khi các ngài cứ nghĩ GH là tay sai của nhà nước?
- Quan điểm của GHTN, sự bế tắt là do nhà nước tạo ra, ai gút, nấy mở; GH đương nhiệm không phải là đối tượng để nhị vị HT đặt vấn đề
- Giả thử hai GH đồng thuận sáp nhập, ta hãy xem Mục 2, điều 9, khoản 3 của Văn Bản Pháp Luật VN về Tín Ngưỡng, Tôn Giáo: Việc sáp nhập, hợp nhất tôn giáo trực thuộc phải đáp ứng các điều kiện sau: a/ Có văn bản đề nghị của tổ chức tôn giáo. b/ Tổ chức được sáp nhập, hợp nhất vẫn thuộc hệ thống tổ chức quy định trong Hiến chương, điều lệ đã được nhà nước chấp thuận.
Tổ chức được sáp nhập, hợp nhất vẫn thuộc hệ thống tổ chức quy định trong Hiến chương, điều lệ đã được nhà nước chấp thuận. có nghĩa nếu GHTN sáp nhập thì vẫn lệ thuộc Hiến chương GHPGVN. liệu các ngài có chấp thuận? Vả lại Việc sáp nhập, hợp nhất tôn giáo trực thuộc…chứ không quy định hợp nhất hai GH biệt lập. Hiến chương và luật pháp VN cũng chưa có điều khoản quy định việc hợp nhất hai GH, thì việc ngồi lại trên cơ sở pháp lý nào? Việc đồng đạo ngồi lại đàm đạo là việc khác, việc hai tổ chức ngồi lại phải mang tính nguyên tắc chứ không phải bạ đâu ngồi đó như ở vỉa hè.

Tóm lại GHTN xin được đối thoại hay chủ động ngỏ ý đối thoại là việc không thể có.
Đứng về phía GHPGVN hiện tại, ổn định sinh hoạt và được bảo vệ bởi luật pháp, tự nhiên ngỏ ý mời GHTN đến đối thoại là chuyện không tưởng, dẫu sao, vị thế và uy tín của các chức sắc lãnh đạo sẽ bị đe dọa, đó là điều các ngài không bao giờ muốn. Chưa nói đến nhà nước có chấp thuận hay không. Và đơn thỉnh nguyện chỉ đề cập đến nhị vị HT của GHTN chứ không đả động gì GH đương nhiệm. Vì thế việc ngồi lại đã là khó, đối thoại cảm thông nhau thêm một việc khó mà trên 30 năm hố ngăn cách được phân luồng bởi dải băng lạnh

Đó là mới xét cái chướng ngại để đến với nhau chứ chưa vào nội dung đối thoại mà bên nào cũng giữ thế như Miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng giữ thế với Mỹ và Miền Nam VN trên bàn hội nghi trước kia.

Giả dụ cả hai đạt được kết quả chung, tác giả Ngô Cơ Điềm bảo hai bên tự tuyên bố giải thể để thành lập Ban Vận Động Bầu cử…Có lẽ tác giả quá mơ mộng chăng, cứ như kể chuyện Thần tiên không bằng.

GHTN lấy tư cách pháp nhân nào tuyên bố tự giải thể? Chưa nói đến sự ngờ vực khi tuyên bố giải thể, sau đó bị hụt hẩng nếu bị loại ra khỏi tổ chức…
GHPGVN căn cứ mục nào trong Hiến chương hay luật giải thể của luật pháp VN để tự giải thể? chả lẽ áp dụng luật giải thể của doanh nghiệp?

Hợp nhất GHPG hiện nay là nhu cầu cấp thiết, nhưng phải dựa vào cơ sở pháp lý chứ không thể trên tình cảm. Sáng kiến của Ngô Cơ Điềm chỉ là lý thuyết vui tai nhưng bất khả thi; ngoài những chướng ngại nêu trên, còn vô vàn khó khăn khi nhập cuộc mới thấy rõ, ngoại trừ duy nhất, cá nhân nhị vị HT đột biến, tình nguyện tham gia như người không bình thường, may ra mới thoát khỏi những cơ chế nhiêu khê ràng buộc, nhưng đây chỉ là mơ mộng.

Canh Tân PG không chỉ trên hình thái tổ chức, nếu thế thì ta gọi là Canh Tân tổ chức GH; mà Canh tân tổ chức GH chỉ là một phần trong chiều hướng canh tân để PGVN lột xác, xác định tầm vóc và uy tín của mình đối với dân tộc và thế giới, hầu góp phần xây dựng văn hoá và hoà bình cho nhân loại.

Về phương diện nhà nước, Ban Tôn giáo chính phủ không hề biết đến GHTN hay bất cứ GHPG nào ngoài GH đương nhiệm, và chỉ biết cá nhân một công dân tu sĩ T.QĐ- T.H.Q, nếu có vấn đề thì vấn đề của cá nhân nhị vị HT đó, và nhà nước cũng nhận thấy rằng những lợn cợn mắc mứu từ cá nhân của hai HT chứ không công nhận vấn đề của một tổ chức GH, vì xem GHTN đã đi vào dĩ vãng, vai trò GHTN đã chấm dứt theo trang sử được lật qua của một giai đoạn. Vì thế đặt vấn đề hợp nhất hay tự giải thể, cả GHTN, GHPGVN và Ban Tôn Giáo đều bất khả thi.

Nếu Canh Tân Tổ Chức GHPGVN, chỉ canh tân nhân sự và Hiến chương chứ không thể một hình thái GH nào khác, vì nằm ngoài luật pháp và Hiến chương hiện hữu. Hai ý kiến Canh Tân bằng hình thái tổ chức qua bài 4 và 5 xin được khép lại để tìm đến phương án khác, một phương án không đặt vấn đề hợp nhất các tổ chức khác nhau.




MINH MẪN
24/6/07

********************

CANH TÂN PGVN (Bài thứ 6)

Tái Tạo hay Lập thành?

Trong buổi tiếp chuyện với luật sư Võ Văn Quới, một nhân sĩ trí thức âm thầm góp công phiên dịch kinh điển cho PG Phát Triển ( PG Đại Thừa), ông có nhận định như hầu hết nhận định của PG đồ hiện nay về ngôi nhà Phật Pháp, chúng ta lắng nghe ý kiến riêng của ông về việc canh tân PG, một mô hình tuy viễn tưởng, nhưng vẫn là tâm nguyện của một Phật tử đối với tiền đồ PG và Dân Tộc.

Trong văn phòng không được rộng tại quận Phú Nhuận, ông tiếp tôi bằng sự ưu ái thâm tình, khi tôi đặt vấn đề Canh Tân PGVN, ông đem hình ảnh Thiết kế Đô Thị ra ra làm mẫu:
…” Mỹ muốn chỉnh trang Đô Thị, họ không cần giải tỏa, quy hoạch, nới rộng lộ giới phải bồi thường phiền phức, gây xáo trộn, cản trở đời sống người dân, họ xây dựng một TP khác với mô hình mới, tiện nghi hơn, khoa học tiến bộ hơn, dĩ nhiên đẹp và trật tự hơn, tối tân hơn. mọi người sẽ chọn một TP hiện đại chứ không ai muốn bảo thủ những nơi thiếu phương tiện và nhiều bất tiện…”

Vâng, nhà quản lý và thiết kế Đô thị họ có quyền và có khả năng chọn một mặt bằng khác để thực hiện cấu trúc xây dựng qua một tập thể Kiến trúc sư nhiều kinh nghiệm. Thời gian và tiền bạc không khống chế họ, họ được phép và có giấy phép để thực hiện công trình; đó là những cơ sở vật chất được cấu kết theo mô hình vật chất.

Phật giáo VN hiện nay là một tòa lâu đài cổ, Giáo hội PGVN hiện nay là ngôi nhà đang xuống cấp trầm trọng, các cột trụ vững chắc không thể chống đỡ ngôi nhà, vì tất cả trên 80% bị rệu mục. Nhưng bằng khoáng Đỏ đã xác định chủ quyền ngôi nhà hiện tại là ngôi nhà GHPGVN duy nhất của PG VN, nghĩa là ngoài ngôi nhà hợp lệ nầy, không một ngôi nhà nào của PG mang tầm vóc tương đương được chấp nhận!


Lời Nói Đầu của Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam viết: …”Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức Giáo Hội duy nhất đại diện cho tăng ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước…”

Lời xác định trong phần Nói Đâu đã quyết định một không gian duy nhất cho một Giáo Hội duy nhất tồn tại, ngầm hiểu rằng tất cả mọi tổ chức Giáo Hội PG khác đều bất hợp pháp, không được luật pháp VN cho phép.

Cũng trong Lời Mở Đầu Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trước 1975 tự xác định:
…” Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại của mình nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc…”

Ngoài việc xác định vị thế của hai tổ chức GHPG nói trên, các chuẩn định khác đều có nội dung giống nhau.

Qua câu xác định vị thế của mình giữa lòng dân tộc, GHPGVNTN trước 1975 ngầm bảo rằng mình là một phần của dân tộc, dân tộc còn, nhân loại còn là mình còn, những tổ chức GHPG khác có cùng tính chất như trên thì không thể có hai GHTN giống nhau, Phật Giáo Thống Nhất của Hòa Thượng T. Tâm Châu tuy cùng danh xưng với PG Ấn Quang, nhưng tính chất đã khác nhau, nếu giống nhau về tính chất và vị thế trong cộng đồng dân tộc và nhân loại, nhưng khác danh xưng thì GHPGVNTN cũng chẳng là sự cá biệt riêng của GHPGVNTN. Như vậy GHPG trước 1975 không tự xem mình là GH duy nhất, tức là còn có những khoản không gian để mọc lên cho bất cứ GH nào.

Tình hình PGVN sau 1975, cũng như bất cứ tổ chức đoàn thể, tôn giáo nào trong xã hội đều được hợp nhất và duy nhất như sự thống nhất của đất nước về lãnh thổ và lãnh đạo. Tất cả mọi Tôn Giáo, đoàn thể, ngành nghề cũng đều chung quy vào một tổ chức duy nhất, đó là Mặt Trận Tổ Quốc. Như thế, tùy tình hình chính trị và quan điểm điều hành của mỗi thể chế mà tôn giáo nói riêng và các đoàn thể của người dân nói chung, hoặc thống nhất một mối như hiện nay hoặc tự do nẩy lộc đâm chồi như trước kia; Mỗi tình trạng xã hội có những cái hay và cái dở; nếu trình độ dân trí cao thì xã hội tự do như thế giúp cho mọi hình thái được tinh anh phát tiết và sắc màu xã hội sinh động hơn, nếu dân trí chưa đủ cân bằng với những tự phát như thế thì những bất toàn sẽ đua nở như sự đua nở của những tâm địa đen tối, đưa đến bạo loạn, xáo trộn như tình hình Miền Nam VN trước 1975 và cái loạn Hồi giáo cực đoan hiện nay; Ngược lại, một xã hội được điều hành thông qua một tổ chức duy nhất và chặt chẽ, nó sẽ trật tự hơn, nhưng sự sáng tạo và nét linh động sẽ bị giới hạn bởi tính thụ động và bị động, như chậu hoa bị gọt tỉa, uốn nắn, tuy đẹp, nhưng cành lá và sự phát triển của thân cây cũng bị hạn chế theo cái quan điểm của người chăm sóc. Tình hình xã hội VN hiện nay cũng thế, mọi tổ chức và sinh hoạt bị hạn chế trong một khuôn khổ nhất định, nhưng bù lại, mọi sinh hoạt có trật tự hơn, ổn định hơn và vì thế an ninh hơn, tuy không tránh khỏi những tiêu cực phát sanh.

Thế thì một Đô Thị mới như ý kiến của Luật sư Võ Văn Quới được phát triển như thế nào? Hiến chương của GHPGVN hiện nay và luật pháp CHXHCNVN hiện nay chưa có một không gian trống thoáng để một Đô thị phát triển song hành.

Giả thử luật pháp VN cho phép một GHPG khác phát sanh, liệu tầm vóc GH đó có tương xứng với GH hiện hành hay chỉ là hình thái nhánh con, bởi lẽ phần lớn chư tôn túc đã được huy động tham gia GH hiện tại, ngay cả một tổ chức PG trước 1975 với danh xưng GHTN trong nước hiện giờ, ngoài nhị vị đại Lão Hòa Thượng T.Huyền Quang và T. Quảng Độ, nhân sự cũng chẳng còn ai có uy tín và khả năng khi TT.Tuệ Sĩ, Thiện Hạnh rút lui, thì nhân sự đâu để lập một GH khác song đôi có uy tín và tầm vóc?

Trước 1975, tại miền Nam VN cũng thế, đã từng có những GHPG như Thiền Tịnh Đạo Tràng, Tịnh Độ cư sĩ, GH Lục Hòa Tăng Cổ Sơn Môn, GH Tăng Già Khất Sĩ…cũng chỉ là những vệ tinh của GHPGVNTN lúc bấy giờ, không đủ tầm vóc và khả năng phát triển song hành, nhưng một phần nào đó cũng góp phần đa sắc cho bộ mặt PGVN.

Giả thử một GH mới được khai sanh hợp pháp, hiện nay trong nước ai là người đủ uy tín và tầm vóc để huy động nhân sự hay là tác nhân thu hút những thành viên mới, mà thành viên mới hiện nay không ai nằm ngoài tổ chức GH đương nhiệm; Một bậc uy đức nào đó khởi xướng lập thành để thu hút nhân sự khác thì đe dọa sự tồn tại của GH hiện nay, liệu Ban tôn Giáo và Mặt Trận có chấp nhận? và một GH như thế có nằm trong sự quản lý của Mặt Trận hay ngoài vòng cương tỏa? Nếu tự do đứng ngoài Ban Tôn Giáo thì các tôn giáo hội đoàn khác cũng sẽ rút khỏi Mặt Trận, chắc chắn đó là điều nhà nước hiện nay chưa muốn nghĩ tới. Và nếu một GH mới thành lập vẫn chịu sự điều động và kiểm soát của Ban Tôn Giáo thì cần gì có thêm GH nào nữa?

Hiện tại, những bậc chân tu không thiếu, nhưng đủ uy đức để đa số quần chúng Phật tử trong và ngoài nước biết và kính trọng, chỉ có hai HT: - T.Nhất Hạnh và T. Thanh Từ; Thiền sư Nhất Hạnh tuy vang danh lừng lẫy nhưng gặp phải một số chống đối ở trong nước. Riêng HT Thanh Từ, với bản chất ôn tịnh, ngài không bao giờ muốn tổ chức, thành lập những việc không cần thiết cho việc chuyên tu. Ngày xưa cũng như hiện nay, ngài không nhận một chức vụ nào trong GH hay tham gia những công tác huyên náo; Hoà Thượng Quảng Liên hoàn toàn không đủ uy tín với tăng ni phật tử. HT Thiện Bình chỉ tạo được một ít sự kiêng nể tại Khánh Hoà. HT Thiện Nhơn, Bình Định có năng lực nhưng rất ít được ai biết đến. Còn một số vị chân tu ẩn danh thì không bao giờ có ý muốn ra nhận lãnh trách vụ nào trong GH, chứ đừng nói đứng ra thành lập GH mới.

Như vậy việc Thiết kế một đô thị mới cho ngôi nhà PGVN khó mà hình thành. Ta thử đặt vấn đề Chỉnh trang đô thi: Nếu GHPGVN hiện tại được xem là ngôi nhà xuống cấp, việc duy tu là sự chắp vá cũng đã vất vả, đòi hỏi thời gian; nhưng mặt bằng của PG có trương độ của một Đô thị, thì việc chỉnh trang lại càng đòi hỏi một quyết tâm và kế hoạch đồng bộ, tự thân PG khó có thể chuyển mình như ý mà cần có sự hổ trợ của Quốc vương Hộ Giáo. Quá trình lịch sử tại VN cũng như các quốc gia PG trước kia cũng đã minh chứng; bất cứ tôn giáo nào, cho dù được quần chúng mà thiếu sự hổ trợ của Hộ giáo từ Vương quyền, cũng khó mà phát triển như ý.

Một tôn giáo như thế nào để được sự hổ trợ từ thế lực?

- Nếu một tôn giáo có khả năng bảo vệ và phát triển quyền lực thế tục như các Độc Thần giáo thì tôn giáo đó được quyền lực và vũ lực kết cấu để cả hai song hành tồn tại.Có giai đoạn tôn giáo bị lạm dụng, cũng có lúc tôn giáo thao túng quyền lực thế tục, biến giáo quyền thành thế quyền, quá khứ Vatican, hiện tại là Hồi giáo, chẳng những tôn giáo cầm quyền quốc gia mà còn phát triển tội ác bởi cực đoan, đem lại nhiều khốn đốn cho dân chúng bởi quan điểm Giáo luật hẹp hòi, đi ngược lại tinh thần Tự do-Dân chủ mà bước đầu họ hô hào.

-Nếu một tôn giáo mang nội tố Tình thương- xã kỷ, bất vụ lợi để hướng thượng, văn hoá và đạo đức tự thân tôn giáo đó đủ và có khả năng xây dựng một xã hội an bình, một tinh thần yêu nước, cộng thêm một minh quân có tâm đạo, vì tiền đồ tươi sáng của đất nước, thì chắc chắn tôn giáo đó được sự trợ lực từ chính sách nhà nước để phát triển hầu đem lại lợi ích cho một dân tộc.Và dĩ nhiên, điều đó đã xẩy ra, được minh chứng bởi các triều đại Trung Quốc, VN, Nhật Bản, Ấn độ, Srilanka, Miến, Lào, Campuchea, Thái…và vì thế, tôn giáo đó đã một thời gian dài đem lai an bình thịnh trị cho đất nước họ.

-Nếu một tôn giáo được nhà nước lạm dụng để duy trì quyền lực, tôn giáo đó chết, nếu tôn giáo được nhà nước nâng đỡ như một thần tượng, tôn giáo đó sẽ lạm phát quyền lực.

Tuy nhiên, cái gì tốt quá cũng hoá xấu, những tăng sĩ PG lúc bấy giờ cũng vì quá được ưu đãi, đã lạm dụng thế quyền, đưa PG vào tệ nạn của thế tục.Lý -Trần-Lê một thời PG cực thịnh và đem lại cực thịnh cho đầt nước, đồng thời nhiều tệ nạn phát sanh, thậm chí triều đình phải làm Điệp Độ để kiểm soát, khảo thí kinh điển để loại bớt tăng nhân. Tăng lữ chiếm phân nữa tục nhân. dẫn đến các chùa giàu có ruộng đất phải dùng dân nghèo làm công cho chùa gọi là Tam Bảo nô!, dĩ nhiên quần chúng sẽ đau khổ, nhưng chưa đến nổi biến thành những lực lượng tranh chấp như PG Nhật Bản; Thời đại Bình An (794-1192) Phật giáo phát triển thành một thế lực hùng mạnh đe dọa cả triều đình đương thời.Sở dĩ PG được hưng thịnh, phần lớn nhờ ân đức của Thái Tử Shòtoku Taishi (574-622) quy tín và nâng đỡ; Qua những triều đại bảo hộ PG thành quốc giáo, đến triều Thiên Hoàng Nguyên Minh (661-721) đã ban hành Pháp lệnh gồm 27 điều để khống chế PG; xuất gia phải có sự chấp thuận của quan địa phương và hạn chế người xuất gia, chẳng hạn năm 696 Nữ hoàng Trì Thống quy định mỗi năm chỉ cho 10 người xuất gia vào ngày 30/12, phải thuộc một số kinh quy định và tập sự 3 năm Lúc bấy giờ, hoặc PG cấu kết với thế quyền, hoặc khống chế thế quyền, nếu thế quyền không lợi dụng được PG, khống chế được PG; Thời đại Đào Sơn và Giang Hộ, các lãnh chúa vừa trấn áp PG vừa cấu kết với một số tông phái, đưa quốc gia lâm vào nội chiến, thậm chí một số tòng lâm môn phái giao chiến bị tiêu diệt như giáo đoàn Cao Dã sơn, Thạch Sơn Bản Nguyện tự, Tỷ Duệ sơn…bị thiêu sống, sát phạt hằng vạn người.

Một minh quân là người lãnh đạo đất nước sáng suốt biết nâng đỡ PG mà không thao túng cũng như không bảo hộ quá mức; biết tạo điều kiện cho cái hữu dụng của nhà Phật được phát triển và hạn chế cái tiêu cực do những tục tăng tham quyền cố vị lạm dụng, có nghĩa không khống chế nhưng cũng không giao khoán, có như thế PG mới có ích cho xã hội.

Tình hình PGVN hiện nay qua 30 năm đã quen lối mòn bao cấp, mặc dù trung ương không can dự quá sâu vào nội bộ GH như trước kia, nhưng tự thân những vị lãnh đạo PG cứ quen chờ lệnh, không dám có sáng kiến sợ phạm thượng. Cứ ỷ y mọi sự có đảng và nhà nước lo, thế là bám trụ hưởng nhàn, GH biến thành nhà an dưỡng cho tuổi già và vùng kinh doanh béo bở cho những tu sĩ có tâm hồn thế tục!

Tình trạng PGVN hiện nay khó mà xây dựng một Đô thị mới song hành mà phải phác thảo một kế hoạch chỉnh trang Đô thị, cho dù phải chắp vá, để chờ đợi cơ duyên chín mùi, có những cán bộ PG trẻ, năng động, can đảm đổi mới Tư Duy,lúc bấy giờ PGVN mới được lên đời như PG Nhật Bản một thời gian dài quá ư ngán ngẩm do chiến loạn đói khổ, PG bị tục hoá, phá trai phạm giới, vì thế quần chúng và quan quân có nhu cầu tâm linh để trốn chạy những phiền muộn bất trắc trong cuộc sống, do đó một phong trào PG mới ra đời, chuyên tu và nghiêm trì giới hạnh, sáng lập những pháp hành đơn giản thích hợp với trình độ quần chúng như Tịnh Độ tông, Thời tông, Nhật Liên tông, Lâm Tế tông và Tào Động tông…

Tình trạng PGVN hiện nay gần giống như vậy, tâm lý quần chúng trong đời sống hiện tại cũng như thế, có khác chăng là VN đang có hoà bình, nhưng tâm hồn nhân dân chưa được an bình, và tâm chứng tu sĩ chưa được bình thường, luật pháp VN có vẻ khác thường, con đường thoát cho PGVN hiện nay không thể lập thành mà là tái tạo sức sống cho PGVN, đòi hỏi các thành viên trong GH, các tu sĩ trong pháp phái phải có ý thức giới luật, không những làm nền tảng cho đạo đức xã hội, vận mệnh cho PG trước trào lưu tha hoá của toàn cầu, điểm tựa cho tín đồ mà còn là sinh mạng cho một dân tộc, một đất nước đang lên; Chính phủ và GH, cán bộ và tu sĩ đều đi xuống, vận mệnh dân tộc không thể vươn lên!!!


MINH MẪN
20/7/07

****************




CANH TÂN PHẬT GIÁO (bài thứ7)

PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP

Không riêng tại Việt Nam, bất cứ quốc gia nào có mặt Phật Giáo, dù lâu đời hay mới du nhập, Phật Giáo không thể có một tổ chức Giáo Hội chặt chẽ như Vatican, trên phương diện hành chánh. Tuy nhiên, là một Giáo Hội mang tính tôn giáo, thì Phật giáo đã chứng tỏ một Giáo Hội có thứ lớp theo giáo phẩm và tôn ti theo đạo lý.

Một Giáo Hội như thế thì không thể có một Giáo Hội chung cho mọi hệ phái mà là mỗi hệ phái có một Giáo Hội cá biệt, Giáo Hội bấy giờ đồng nghĩa với Tông môn. Ví dụ, Giáo Hội Lục Hoà Tăng, Giáo Hội Thiên Thai, Giáo Hội Khất sĩ, Giáo Hội Theravada, Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo…Mỗi Tông môn như thế đều có một tôn chỉ riêng, một pháp hành riêng; Ngay từ thời Trần Nhân Tông, tuy Giáo Hội Trúc Lâm do nhà vua thống nhất cả ba hệ phái: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường nhưng không vì thế mà tất cả tu sĩ Phật Giáo lúc bấy giờ đều trực thuộc một Giáo Hội duy nhất; Trong đó, mỗi tông phái đều có sở hành cá biệt. Chính sự phát triển tự do của mỗi tông phái mà một Giáo Hội Trúc Lâm đã có tầm vóc vững chải

Phật Giáo mỗi quốc gia đều có nhiều hệ phái, ví dụ, tại Hàn quốc có 18 hệ phái phát xuất từ bốn tông chính là: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Mật, Thiền.Việt Nam không có một Tông nào phát triển rõ rệt như Hàn Quốc, mặc dù Việt Nam đã từng có mặt những Tông Lâm Tế, Thảo Đường, Thiên Thai Giáo Quán, Thiền, Tịnh, Mật….Tuy Lâm Tế là một tông phái có sự truyền thừa liên tục đến ngày nay theo giòng kệ, đó chỉ còn dấu ấn Tông lưu mà pháp hành của Lâm Tế không có nét cá biệt, một hành giả Lâm Tế trụ trì một tự viện, vẫn thủ đắc hai thời công phu vừa mang tính Tịnh Độ, pha lẫn cả Mật và Thiền.

Tại Nhật, khi Phật Giáo du nhập vào từ Trung Hoa và Triều Tiên, Phật giáo bấy giờ có các tông như: Chân Ngôn tông, Nhật Bản Đạt Ma Tông, Hoàng Bá Tông, Tào Động tông…Nửa thế kỷ thứ 10, tông Tịnh Độ và Tịnh Độ chân tông thịnh hành trong thời đại Liêm Thương ( Kamakura 1185-1333 ); 1191 Nhật cũng du nhập Tào Động và Lâm Tế tồn tại đến ngày nay. Thế kỷ 13, trên nền tảng kinh Pháp Hoa, Nhật Liên chủ xướng hình thành Nhật Liên Tông.

Hiện nay, tại Việt Nam, Tịnh độ tương đối phát triển nhanh, nhưng không là một hệ thống mà chỉ là phong trào, phát xuất từ các khoá tu của chùa Hoằng Pháp, một số tỉnh thành đang áp dụng, đáp ứng khá hiệu quả cho đức tin quần chúng bình dân.Tuy là tu Tịnh độ, nhưng không mang tính hệ phái của Tịnh độ Tông mà chỉ là khóa tu niệm Phật.

Trước 1975, Tịnh Độ Cư Sĩ có một hệ thống cá biệt do Tông sư Minh Trí sáng lập. chuyên lập phòng thuốc từ thiện, hiện nay, có 205 cơ sở từ thiện từ miền Trung trở vào. Giáo Hội Tịnh Độ Cư Sĩ thành lập từ 1934, vừa được Ban Tôn Giáo Chính Phủ ký quyết định công nhận là một Tôn Giáo hợp pháp, bình đẳng với mọi tôn giáo đang sinh hoạt tại Việt Nam.Hiện do ông chánh hội trưởng Nguyễn Phương Hiếu điều hành.

Khởi nguyên, Tịnh Độ Tông do Tịnh Độ Sư Huệ Viễn khởi xướng từ Trung Quốc( 402), được truyền sang Nhật bởi ngài Viên Nhân (793 – 864) và phát triển bởi Pháp Nhiên, vào thế kỷ 12 thành một tông Tịnh Độ song hành với giáo lý Thiên Thai và Mật Tông, Hoa Nghiêm…; vào Đài Loan năm 476. Tại Việt Nam, Ngài Khương Tăng Hội dịch từ Lục Độ Tập Kinh trước thế kỷ thứ III, do Đại sư Đàm Hoằng từ Trung Quốc truyền sang, đến thế kỷ thứ V, Tịinh Độ đã phát triển vững mạnh. Tịnh Độ Tông Việt Nam khác hẳn Tông Tịnh Độ các quốc gia là không tách biệt với những tông phái song hành.
Hiện nay, Việt Nam đang dần dà chỉnh đốn một vài tông phái chuyên biệt, tuy chưa sâu đậm. Phái Thiền Trúc Lâm của HT Thích Thanh Từ chủ xướng Tri Vọng chỉ Vọng; Thiền phái của tổ Duy Lực là tham thoại đầu; Thiền Vipassana của Nguyên Thủy, Hiện Pháp Lạc Trú của Thiền sư Nhất Hạnh…Một số Thiền mới khai sáng chưa được phổ cập hóa như pháp vô vi của Lương Sĩ Hằng, Trường Sinh học của Dasira Narada,Quang Âm quán của Thanh Hải, thiền xông hơi của một vị khất sĩ ẩn cư… Ngoài Tịnh độ cư sĩ với truyền thống phòng thuốc từ thiện, Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa chủ trương Học Phật tu nhân, chuyên làm từ thiện và nhiếp tâm trì niệm lục tự Di Đà; Gần đây, chùa Hoằng Pháp đã khởi lập các khóa tu Niệm Phật, càng ngày số lượng người tham gia càng đông, chẳng những thế, chùa còn tổ chức những show Phật Pháp Nhiệm Màu, Ánh Sáng Phật Pháp, khóa tu ngắn ngày, khóa tu mùa hè cho Thanh thiếu niên lên đến hàng ngàn người, phải nói chùa Hoằng Pháp hiện nay là một tổ chức Phật giáo chuyên tu cho cư sĩ có quy mô vững chải nhất, giúp cho quần chúng có nơi quy hướng hợp với trình độ bình dân, cũng là cách giúp cho quần chúng giảm mệt mỏi căng thẳng trong cuộc sống thường nhật.

Mô hình tu tập của Hoằng Pháp đang được một số chùa các tỉnh phía Nam áp dụng, nhưng chưa vào nề nếp như Hoằng Pháp.

Phật giáo không thành công trên phương diện tổ chức hành chánh, thì rất hợp lý để phát triển pháp hành, dân tộc ta trong bối cảnh ngỡ ngàng trước vận hội toàn cầu, rất cần những nền tảng tín ngưỡng đạo đức để cân bằng tâm linh và tâm lý, tránh tình trạng hụt hẩng như một số quốc gia phồn thịnh về vật chất, hụt hẩng về tâm linh.. Các tông môn dù lâu đời hay vừa tự phát, hãy chuyên môn hóa về quy củ và hành trì, tự nó sẽ phổ biến nếu hành giả đủ nội lực và chính nghĩa.

Ngoài vấn đề phát triển pháp môn, tông phong, cần xã hội hóa Phật giáo, không nên đóng khung trong bốn vách chùa. Cuộc sống ngày nay đa dạng thì Phật giáo cũng phải đa sắc; Không thể ngồi để nhận cúng dường của bá tánh. Phật giáo phải chia làm hai lĩnh vực. Một lĩnh vực chuyên tu, và một lĩnh vực hòa nhập xã hội. Lĩnh vực hòa nhập có bổn phận tạo kinh tế để cung dưỡng các bậc chuyên tu, đồng thời có mặt bên cạnh xã hội để giúp đỡ quần chúng trong những lĩnh vực khác nhau; đây không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, Phật giáo cũng cần đóng góp, chính vì thế đòi hỏi chư tăng phải có khả năng chuyên môn về nhiều mặt như y học, từ thiện, giáo dục, tâm lý, nông nghiệp, kiến trúc, khoa học…mang tính cộng đồng. Hiện nay các chùa chuyên về từ thiện, một việc làm theo quán tính mà thiếu cơ sở khoa học. Kêu gọi quần chúng đóng góp để đi cứu trợ vùng xa một cách máy móc mà không chịu tìm hiểu nhu cầu thực tế tại đó để giúp họ cái cần câu hơn là cho con cá. Dĩ nhiên những phần quà như thế chỉ no vài hôm rồi đâu lại vào đó, ngồi chờ những đợt cứu đói kế tiếp, từ thiện như thế là tập cho họ tánh ỷ lại và trây lười, một công việc như bỏ muối vào biển; trong khi đó, những người ở Thành phố không thiếu kẻ đói cơm, ngay cả những Phật tử ăn bữa sáng lo bữa tối, chồng ốm con thất học không ai giúp đỡ.Từ thiện theo kiểu viễn vông bao đồng như thế để được báo chí nêu danh, trở thành chuyên viên từ thiện mà không đem lại hiệu quả lâu dài giúp xã hội xóa đói giảm nghèo thật sự.

Một số cơ sở từ thiện nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật cũng vậy, nói đúng hơn là trẻ mồ côi, khuyết tật nuôi cơ sở. Phần lớn các nạn nhân chỉ được nuôi dưỡng mà ít được hưởng thụ, trong khi đó tiền của giúp đỡ của các nhà hảo tâm bị chi dụng một cách hoang phí như xây dựng đồ sộ, sắm xe, phòng máy lạnh và chi phí cá nhân cho người điều hành quá nhiều; tuy nhiên cũng có cơ sở âm thầm làm thiện như chùa Diệu Pháp Đồng Nai, do sư cô Huệ Đức sáng lập năm 1989. Nằm trong làng cách ngã ba Vũng Tàu 15km. Hiện nuôi vừa mô côi, vừa khuyết tật, người già cô độc, vừa đủ loại bệnh, có 180 người; trong chùa tự chăm sóc mà không mướn người ngoài. Đã có những em thành đạt là Tiến sĩ, cao học một số đang du học. Những em đã ra đời tự lập, sư cô mua đất cất nhà để các em sống và góp tiền trả lại hàng tháng. Trên 50 em đang theo chương trình phổ thông. Thương binh xã hội địa phương cũng gửi người vào trại mà không hề phụ cấp. Nhà chùa sẳn sàng dang tay đón nhận tất cả. cơ sở tuy không sang trọng nhưng ngăn nắp , sạch sẽ, vườn cây thoáng mát, chia nhiều khu tùy mỗi tình trạng bệnh tật hoặc trẻ em bị bỏ rơi. Chùa trên ba mẫu, dành hai mẫu để làm kinh tế tự túc, còn lại làm nơi thờ Phật và các khu nhà từ thiện. Mạnh thường quân ít biết nơi nầy, vì họ không quảng cáo, kinh tế họ tự túc,cuộc sống và sinh hoạt khá ổn định.

Phật giáo Hòa Hảo cũng đóng góp cho xã hội nhiều công ích như xây cầu, đóng giếng, cứu trợ và nhất là bếp ăn từ thiện trong các bệnh viện mà mỗi ngày cung ứng hàng ngàn suất ăn; Đó chỉ là chữa cháy, họ vẫn chưa có kế hoạch giúp cho người dân tự lập trong một nghề cố định.

Công tác xã hội, có lẽ Phật giáo, chưa quen với những công việc mang tính xã hội, trong đó như bệnh Aid/Hiv, một số Tăng ni trẻ đảm trách chăm sóc bệnh nhân và giáo dục ngăn ngừa lây lan, bộ phận sinh viên vụ Vạn Hạnh đưa các Tăng Ni sinh tham gia vào các lãnh vực như thế, khó mà đạt kết quả; Công tác trong lãnh vực nầy không thể Xuân Thu nhị kỳ, mà đòi hỏi phải thường xuyên có mặt với bệnh nhân, vừa là trấn an tinh thần, vừa là chăm sóc bệnh trạng, sinh viên có thời giờ đâu để hoàn tất học trình khá nặng của Đại học. Chưa nói đến chương trình giáo dục ngăn ngừa bệnh lây lan và sinh đẻ có kế hoạch mà Tăng ni trẻ chưa có kinh nghiệm làm sao hướng dẫn cho người đời có quá nhiều kinh nghiệm trong vấn đề nầy!

Tu sĩ Phật giáo có thể kết hợp với cư sĩ tham gia các phong trào vệ sinh khu phố thôn ấp, xây dựng sửa chữa nhà bằng vật liệu nhẹ cho những cư dân khốn khổ; hướng dẫn canh tác sản xuất, tư vấn đạo đức gia đình, đạo đức hôn nhân và đạo đức xã hội cho quần chúng; Những trại cai nghiện và bệnh nan y, trại cải tạo… rất cần hình bóng tu sĩ và sự hy sinh vô điều kiện của Phật giáo, bởi lẽ những trại nói trên chỉ có nhiệm vụ chữa trị và trừng phạt hơn là giáo dục bằng tình thương.Có những phạm nhân sau khi mãn hạn tù, kinh nghiệm phạm tội tinh vi hơn lúc chưa bị bắt, vào tù, gặp nhau họ trao đổi kinh nghiệm, học nhau nhiều mánh lới và càng bất mãn trước những trừng phạt của pháp luật. Nếu tu sĩ Phật giáo thường xuyên xuất hiện trong các trại tù, không phải với tư cách kẻ rao giảng đạo đức như các nhà truyền giáo tìm thêm tín đồ, mà nhân cách của đồng phạm để lắng nghe, thông cảm và gỡ rối tâm lý, cho phạm nhân một con đường, một lối thoát có ý thức lợi ích bản thân và lợi ích xã hội chứ không chỉ bố thí những phần quà vô nghĩa, như thế sẽ lợi ích rất lớn để những phạm nhân đó sẽ là những con người tốt biết phục thiện hoàn lương.

Về phía nhà nước, nên tạo cơ hội cho các tu sĩ thể hiện xã hội tính của Phật giáo một cách tự nguyện hơn là biến tôn giáo thành công cụ thực hiện chủ trương, chính sách nhà nước. Với lòng Từ của Đạo Phật đã mang tính xã hội và cộng đồng, vì cơ chế luật pháp ràng buộc nên tôn giáo chưa thể hiện hết tiềm năng tự thân đối với công ích cộng đồng. Đã đến lúc, Phật giáo không chỉ lý thuyết:Phật giáo đồng hành cùng dân tộc, mà phải có sách lược rõ ràng về công tác xã hội song hành với việc tu tập. Giáo Lý Đạo Phật từng bảo Phước –Huệ song tu, phước không chỉ là hành thí mà là công ích lợi tha trên bình diện xã hội, cộng đồng để hổ trợ cho việc tu tập hướng nội.
Giáo dục tuổi thơ, mái ấm tình thương, chăm sóc kẻ neo đơn và người tàn tật, khuyến nông canh tác, tư vấn đạo đức kinh doanh, nuôi trẻ mồ côi, huấn nghệ và vô số công ích khác nằm trong khả năng của những tu sĩ trẻ Phật giáo; Thời đại kinh tế toàn cầu đòi hỏi mọi tầng lớp phải lao vào cuộc sống, tu sĩ với số lượng tuy không nửa dân nửa tu sĩ như thời Lý Trần, hiện nay gần 50 ngàn tu sĩ Phật giáo, tuy không làm kinh tế mà cuộc sống vẫn không thiếu; bù lại sự cung dưỡng từ quần chúng, tu sĩ phải góp tay vào những công ích và giáo lý thiết thực giúp quần chúng vừa ổn định đời sống vật chất, vừa an trú tâm linh để giữ thế cân bằng xã hội. Những thời pháp trong các trại giam của ĐĐ T. Nhật Từ đã giúp rất nhiều phạm nhân bình tâm xét lại quá khứ và khắc phục thiện tâm trong hiện tại để chuẩn bị một đời sống an lành sau khi mãn hạn án phạt. Những trại giam được nghe pháp như thế đã giảm hẳn những xáo trộn trong các phạm nhân hiếu động và bất mãn, Ban giám thị trại cũng đã nhận thấy điều đó, thế nhưng, nhà nước vẫn chưa có một chủ trương nhất quán cho tu sĩ vào thuyết giảng dạy dỗ các can phạm.

Một số đông quần chúng vùng sâu, vùng cao sau một ngày lao động vất vả trên nương rẫy, trẻ con tụ tập trong những tụ điểm giải trí nghèo nàn, hoặc chìm sâu trên màn ảnh gamesonline; người lớn bên chum rượu; ở Thành phố có nhiều trò giải trí hơn, nhưng trò giải trí thiếu lành mạnh bao giờ cũng dễ dàng xâm nhập vào giới trẻ, từ đó, xì ke ma túy, bạo lực tràn lan vào xã hội, trẻ em bỏ học, tội phạm phát triển nhanh cấp số nhân, dĩ nhiên số nầy không thể bảo là tàn dư Mỹ Ngụy để lại. Nhà nước không đủ khả năng quán xuyến giáo dục xã hội, hãy để tôn giáo đảm trách chức năng quân bình đạo đức xã hội; Không một quốc gia nào tự hào đủ khả năng đem lại sung mãn mọi mặt trong xã hội mà không nhờ bàn tay tôn giáo hoặc những nhà từ thiện phi chính phủ tiếp tay hỗ trợ cho việc an sinh! Trong thời XHCN chuyên chính ở các quốc gia CS những thập niên 1960 về trước, đành rằng tệ nạn xã hội ít xuất hiện, nhưng không có nghĩa không có, vì nó không có điều kiện phát triển lòng tham và sự sa đọa, vẫn có những cán bộ Hợp Tác xã tham ô móc ngoặc hoặc những viên chức có quyền lực; xã hội sống bằng tem phiếu thì quần chúng bình đẳng về lợi nhuận, không có sự thừa mứa lấy đâu để lòng tham phát triển. Xã hội Việt Nam, xã hội Trung Quốc cũng như các quốc gia tư bản hiện nay, xuất hiện nhiều dạng tội phạm vì cuộc sống chênh lệch giàu nghèo quá rõ, điều kiện để lòng tham của những tâm hồn mất căn bản đạo đức dễ phát sinh; tuy nhiên, một số cộng đoàn tôn giáo chân chính, tu sĩ và quần chúng luôn sống trong tinh thần tự giác, tương trợ và bình đẳng, không hề xuất hiện tệ nạn trong những cộng đồng như thế, mà cũng không bị áp đặt bởi quyền lực. Tính tự nguyện, tự giác trong tôn giáo đã thành công trong việc đem lại bình đẵng và an lạc. Việt Nam trong quá khứ cũng từng có thời kỳ xã hội thái bình, ngủ không đóng cửa, của rơi không người lượm, nhà giam trống phạm nhân và giặc phương Bắc không dám dòm ngó, thời đại mà xã hội đã ảnh hưởng Phật giáo khá sâu đậm.
Trong thời chiến, Phật giáo phía Bắc trở thành công cụ của nhà nước, miền Nam biến thành lực lượng cho các thế lực chính trị lạm dụng, chính vì thế nội lực của đạo Phật không có điều kiện chỉnh hoạt. Sau 1975, và nhất là khi thời kỳ đất nước mở cửa, các tôn giáo dần dần phục hồi tiềm lực, riêng Phật giáo vẫn chưa tự quyết vận mạng sinh tồn trong lòng dân tộc; Những sinh hoạt của Giáo Hội Phật giáo hiện nay đều chịu sự chỉ thị có chủ trương, đối nội cũng như đối ngoại, mang tính hình thức và chính trị nhiều hơn là củng cố nội lực. Tệ nạn trong giới tu sĩ phát triển quá nhanh, Ban Tăng sự tỏ ra bất lực, vì Phật giáo không có giáo quyền để chế tài. Giáo luật cũng chỉ là vật trang trí tôn giáo hơn là thực hiện chỉnh đốn. Ngay cả cuộc họp của giáo hội nêu vấn nạn tu sĩ, cũng mời chính quyền tham dự lắng nghe, rồi từ đó mở đường cho cán bộ xen vào nội tình phê phán, mà đáng lẽ, chức năng phải là Ban Tăng sự, hoặc là thầy tổ của những đương sự đó. Chứng tỏ Giáo hội bất lực trước những tệ nạn của tu sĩ như nhà nước bất lực trước tệ nạn tham ô và tệ nạn xã hội khác. Những cư dân các tỉnh phía Bắc đổ vào, lợi dụng hình thức tu sĩ để kiếm sống, thế mà Phật giáo cũng đã bó tay, làm sao giải quyết những tệ nạn nội bộ mà ngay cả một giảng sư nổi tiếng, cũng bị tai tiếng và được bao che trong các tệ nạn đó.Một chức sắc trong Giáo hội đối lập, tuy cầm đầu một tổng vụ không quan trọng, từng tự xem mình là phát ngôn viên của tổ chức đó, từng lớn tiếng ồn ào, muốn thể hiện là người hùng mà vẫn phạm phải tệ nạn tầm thường, bị tắt đài cũng vì bê tha đó.

Tóm lại, muốn canh tân Phật giáo, không nhất thiết phải chống đối hay a dua, mà cần chỉnh đốn môn phong, phải thể hiện sự trong sáng, phải phát triển pháp hành môn phái, và trước tiên giới luật phải tinh nghiêm; Muốn như thế, Phật giáo phải thể hiện tính tự lập, tự quyết, lột thoát tinh thần nương tựa; chủ động mà không chờ chỉ thị. Tự đứng trên đôi chân mà chư tổ đã truyền thừa. Có nhân cách như thế thì không phải sợ sự chi phối của bất cứ quyền lực nào trước lẽ phải. Một khi nội lực được vững vàn, mới nói đến hòa nhập xã hội để cùng đồng hành với dân tộc. Phật giáo ngày nay không thể khu trú trong bốn vách chùa, điềm nhiên tọa thị trước sự băng hoại của xã hội; ngoại trừ một số các bậc xuất ly miên mật hành chứng, số còn lại phải hòa nhập đồng quang;
Và nhà nước nên dành một sân chơi cho Phật giáo góp phần ổn cố đạo đức quần sanh. Nhà nước chỉ là trọng tài và điều chỉnh những lệch lạc khi tôn giáo hành xử, không nên xen vào nội tình để biến các sư thành một người phổng và ỷ lại vào quyền lực phe nhóm. Không phải sợ Phật giáo vì có quần chúng mà chỉ sợ Phật giáo là một tổ chức thiếu thực lực. Phật giáo có khôi phục được uy tín với xã hội thì Phật giáo mới đóng góp nhiều công ích cho xã hội. Một đứa con luôn được cưng chìều bảo bọc là đứa con hư, hãy để chúng tự lập và năng động, mới trở thành người có ích, cũng thế, Phật giáo hãy thoát khỏi sự dung dưỡng của quyền lực, tự mình phục hồi nội lực, có như thế Phật giáo mới đồng hành cùng dân tộc, góp phần công ích cho xã hội. Bằng ngược lại, Phật giáo tự loại khỏi cuộc chơi khi mà các tôn giáo khác luôn tranh thủ bên cạnh quần chúng. Hiện nay, Phật giáo có chiều hướng phô trương hình thức lễ hội, kiến trúc,mặt rộng hơn là chiều sâu, đây không phải là điều đáng mừng nếu Phật giáo không cung ứng cho xã hội những hành giả tâm chứng và những đoàn thể tu sĩ thân giáo trang nghiêm. Ngày nay tu sĩ được trang bị nhiều kiến thức và học vị, đó không phải là yếu tố chính chấn hưng Phật giáo. Xưa kia, Đức Phật không có bằng Tiến sĩ, Lục tổ Huệ Năng không biết chữ, thế mà Phật giáo đã lan truyền một cách sâu rộng; Phải chăng nội lực hành chứng là cột sống để ngôi nhà Như Lai đứng vững? Vì thế, Phật giáo Việt Nam cần phải chấn chỉnh, canh tân!

MINH MẪN
30/5/2010

*****************

PHẦN KẾT

Một giọt nước tuy nhỏ nhoi, nhưng là một phần tử của đại dương, một lời nói hay một góp ý bình thường cũng tạo được sự lắng nghe từ cộng đồng nhân loại. Phật giáo là một thành tố trên tinh cầu, từng đem lại bao lợi ích cho những ai biết áp dụng vào cuộc sống; Trong giáo lý học Phật tu thân, vô số trình độ căn cơ là có vô số pháp môn đáp ứng đủ để chuyển hóa. Mọi chuyển hóa thường đem đến nẽo thiện. Trong giai tầng lục đạo, Nhân- Thiên là cao cả, trong tam giới, vô sắc là cảnh tối ưu, trong Tứ Thánh quả, La Hán là tột bực. Mỗi giai tầng đều phải kinh qua những chuyển hóa căn bản dựa trên pháp hành.

Thế gian pháp cũng vậy, tuy “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyển bào ảnh, như lộ diệc như điển”, không vì thế mà xem thường mọi phương tiện hữu hảo. Không có phương tiện nào vô ích, chỉ có lối xử dụng không hợp lý. Thế gian pháp tức Phật pháp, cộng cỏ ngọn cây đều là pháp âm vi dịu, không là thực phẩm cho cuộc sống, cũng làm đẹp cảnh trí thiên nhiên. Trong xã hội của từng giai đoạn, từng chu kỳ, tất cả là bài học đáng giá cho cuộc sống, không có cái nào dở mà chỉ có cách tiếp nhận không hay; không có vật gì thừa vì tận dụng chưa thích hợp.

Giáo hội tuy chỉ là hình thái trong từng giai đoạn, tùy tình huống mà mỗi hình thái mỗi khác, nhưng mục đích chung vẫn là phụng sự lý tưởng. Tổ chức hành chánh là cơ cấu hổ trợ cho hoạt động có nề nếp, có hiệu quả, đôi khi trắc trở bởi cơ chế, nhưng đều là bài học để ngưới điều hành có cách vận hành. Guồng máy chạy tốt không thể duy trì một cơ phận ù lì, tất cả phải nhịp nhàng. Tuy Tôn giáo là một bộ phận khác biệt thế tục, nhưng sinh hoạt vẫn tùy thuộc trạng huống của một xã hội. Xã hội tiến bộ, tôn giáo không thể bảo thủ. Tôn giáo tươi nhuận hoạt bát thì xã hội đơm hoa. Luật tương trợ, tương sanh như thế, không thể tự mình thu vào vỏ ốc khô khốc hay an phận trong tháp ngà hưởng thụ. Từ kiến thức cá nhân đến cơ chế tổ chức, không thể khu trú một cách cố định những gì đã có, luôn chuyển hóa, luôn thăng hoa để tồn tại và thích nghi với môi trường. Trên giòng cuồng lưu, nếu không chuyển động theo thì cũng bị nhận chìm; bằng đi ngược giòng, cũng gặp không ít chướng duyên. “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” cũng từ lý đó mà ra. Tôn giáo có khác thế tục về Thuận thiên, vì hòa mà không đồng. Xuôi giòng để cấp bến chứ không xuôi dòng để bị cuốn trôi. Chính vì thế, Phật giáo dễ thích ứng với mọi tình huống mà không hề hòa nhập, biến thể vì tình huống.

Tinh thần hóa giải của Đạo Phật khác với tinh thần hòa giải của thế gian; Hóa giải có sẳn mầm mống chuyển hóa; hóa giải mang tính chủ động, chuyển hóa một phần mang tính thụ động. Chủ động chuyển hóa là thăng tiến, thụ động chuyển hóa đôi khi tiêu cực. Tinh thần hóa giải lấy nhu thắng cương, không như tinh thần tranh chấp bạo lực dùng cường trấn nhu. Hóa giải là chất xúc tác tự chuyển hóa mọi chướng duyên trong tinh thần tương nhượng và ôn hòa. Hóa giải để hòa đồng nhưng vẫn giữ được đặc tính cá biệt. Với tinh thần như thế, Đạo Phật tuy tiến triển chậm nhưng không hề tạo thêm đối lực, và dễ hòa nhập trong mọi quốc độ, mọi xã hội.

Những quốc gia được thắm nhiễm Phật giáo, một sinh lực vô hình nuôi sống cả một dân tộc trước những thách thức ngoại xâm, bởi vì “uy vũ bất năng khuất”, không những là trạng huống của một đại sĩ mà còn là hương Thánh thiện nâng cao tâm linh của xã hội; Rất tiếc, cộng đồng tu sĩ Phật giáo quá thiên hướng nội lực, bỏ quên phương tiện ngoại biên, nên hầu hết Phật giáo không giúp xã hội vượt qua những khó khăn kinh tế hoặc cổ súy quần chúng phát triển kinh tế để hỗ trợ cho công cuộc hoằng truyền. Hầu hết tu sĩ xem vật chất là một chướng ngại, tài lực là một tội lỗi cần tránh, hầu hết các cơ sở am tự viện đều không tự lập cánh sinh mà luôn chờ đợi sự hỷ cúng. Với truyền thống cổ xưa đó, Phật giáo không thích nghi với thời đại, tự mình xa cách quần chúng, và thụ động trước pháp sự hoằng dương! Một khi sinh kế xã hội đòi hỏi bức bách, người Phật tử không được chư Tăng hướng dẫn kỷ năng đạo và đời viên dung trong sinh hoạt, quần chúng cảm thấy hoặc xa lìa xã hội để nhập cuộc tâm linh, hoặc lìa bỏ tâm linh để lặn hụp trong cuộc sống, đó là lý do xuyên tạc của những đố kỵ cho rằng theo Phật luôn nghèo đói.

Đời là hư ảo, kiếp người là khổ đau, nhưng khổ đau và hư ảo không là tiền đề cho hành xử tiêu cực mà phải là kích thích sự nổ lực vượt qua. Có thân là có bệnh, nhưng bệnh tật không phải để bác sĩ khoanh tay, dược sĩ không tham gia vào điều nghiên dược liệu, đó là một thách thức, một nhu cầu phụng sự. Đạo Phật đối truớc cuộc sống cũng thế, không chỉ giải quyết tâm linh, ngay cả cuộc sống xã hội cũng không thể bỏ mặc, giao phó cho nghiệp lực cá biệt hay cộng sinh. Phật giáo đồng hành cùng dân tộc không chỉ lúc thịnh , khi suy mà những nhu cầu trong xã hội, Phật giáo cũng là một y vương hòa nhập mà không đắm nhiễm để giúp tịnh hóa cuộc sống. Xây dựng nền móng quan trọng hơn cao tầng, cũng vậy, trình độ quần chúng đa phần còn trầm trược mà chỉ lo hướng dẫn phần tâm linh siêu thực, đôi khi phản tác dụng và hạn chế hiệu quả. Càng ngày, xã hội càng phát sinh lắm nhu cầu và tiện nghi, đòi hỏi con người phải đối mặt với bao cám dỗ; vì thế, Phật giáo cũng phải hội nhập để hướng dẫn quần chúng từ những nhu cầu có thực đó để thoát khỏi những phiền trược không thực của vọng tưởng. Từ kinh tế, khoa học, y học, nghệ thuật… tất cả cần có mặt của Phật giáo để gỡ rối tơ lòng cho sinh linh trầm luân; không thể bảo Phật giáo không tham gia vào đấy mà chỉ biết tu, là tiêu cực, tự mình loại khỏi xã hội.

Một khi hội nhập, phải linh động uyển chuyển để phát triển hiệu năng; Không thể tham gia cho có mặt với cuộc đời lấy lệ. Tin Lành là bài học cho Phật giáo về tính hiệu năng trong việc hòa nhập của một tổ chức. Dĩ nhiên Phật giáo không thể hoàn toàn giống Tin Lành hay Vatican, nhưng Phật giáo cũng không thể khác hơn khi cộng đồng tu sĩ Đạo Phật vẫn là một thực thể sống trong xã hội, nương nhờ xã hội thì cần phải đóng góp cho xã hội về tâm linh cũng như cụ thể!

Chính vì thế, Giáo Hội Phật giáo hay môn phái, đoàn thể của Đạo Phật, luôn thích nghi với xã hội và linh hoạt trong cuộc sống lẫn hành trì. “Phật Pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác”, đó là tiêu đề xác định vị thế của Đạo Phật trong mọi tình huống, trong mọi xã hội ở mọi quốc độ. Để tồn tại và phát triển đủ khả năng góp vốn cho đời. Phật giáo nói chung, Giáo hội và môn phái nói riêng, luôn luôn canh tân, đổi mới về hình thức sinh hoạt.

Canh tân là hình thái xác định sự hiện hữu của mình trong xã hội cũng như xác định tiềm năng mà Phật giáo từng cống hiến và sẽ cống hiến.

Những lý do trên đây, xin được mạo muội góp ý để chúng ta không ngủ quên trong hào quang quá khứ, không tự mãn trong hiện tại để bỏ quên con đường phía trước. Ngày nay không chỉ là thời đại cạnh tranh kinh tế, cạnh tranh kỷ thuật, cạnh tranh chính trị, cạnh tranh nghiệp vụ mà còn là cạnh tranh tôn giáo để thể hiện sự đóng góp của mình cho cuộc sống chứ không chỉ có thêm tín đồ. Đạo Phật có khác với các tôn giáo, không cần bành trướng thế lực và giáo quyền, không cần tạo uy tín trên lượng số tín đồ, Đạo Phật chỉ muốn chuyển hóa mọi tập khí chúng sanh để đem lại an lạc cho chính họ và giúp xã hội giảm thiểu những tệ nạn của vô minh.

Muốn thế, Canh Tân vẫn là giải pháp thường hằng cho Phật giáo chúng ta.


MINH MẪN
Hạ 2010